I
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
HUỲNH VĂN TÀI
ĐẶC TRƯNG CỦA LỚP TỪ VỰNG MỚI TIẾNG
VIỆT
XUẤT HIỆN TRONG VÒNG 10 NĂM TRỞ LẠI
ĐÂY
(ĐỐI CHIẾU VỚI LỚP TỪ VỰNG MỚI TIẾNG
ANH)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu
Mã số: 62.22.01.10
TP. Hồ Chí Minh – 2010
II
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đối với TS. Đỗ Thò
Bích Lài, PGS.TS. Dư Ngọc Ngân và quý thầy, cô ở Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc Gia TP.HCM) trong những
năm qua đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ cho tôi có được những tri thức
cần thiết trong quá trình học tập cũng như quá trình thực hiện luận án
này.
Ngoài ra, tôi cũng xin được gửi lời cám ơn đến các bạn đồng
nghiệp, các bạn Nghiên cứu sinh, các bạn học lớp Cao học đã chân tình
giúp đỡ g tôi trong suốt quá trình học.
Dù đã cố gắng trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu một
cách nghiêm túc, tuy nhiên, trong quá trình phân tích và khảo sát có
thể trong nội dung của luận án sẽ còn nhiều vấn đề chưa được chúng
tôi đưa vào và có nhiều vấn đề chúng tôi trình bày chưa rõ, hi vọng
những góp ý, hướng dẫn của quý thầy, cô sẽ là cơ sở khoa học để
giúp chúng tôi có thể hoàn thiện kiến thức của mình hơn cũng như
việc phát triển đề tài về sau.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 08 năm
2010
Tác giả luận án
Huỳnh Văn Tài
III
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm
2010
Tác giả luận án
Huỳnh Văn Tài
MỤC LỤC
Lời cám ơn
Lời cam đoan
Mục lục
IV
Danh mục các chữ viết tắt, ký hiệu và quy ước trình bày
DẪN NHẬP
1
1. Lý do chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu
1
2. Lòch sử vấn đề
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
13
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
14
5. Ý nghóa khoa học và ý nghóa thực tiễn của luận án
17
6. Bố cục của luận án
18
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ
20
1.1 Vấn đề từ và cụm từ
20
1.2 Vấn đề cấu tạo từ
23
1.3 Vấn đề từ mới
35
1.4 Vấn đề từ loại
39
1.5 Vấn đề nghóa và nghóa của từ
47
1.6 Vấn đề trường từ vựng – ngữ nghóa
50
1.7 Vấn đề ngữ cảnh
52
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO CỦA LỚP TỪ
VỰNG MỚI TIẾNG VIỆT (SO SÁNH ĐỐI CHIẾU VỚI
LỚP TỪ VỰNG MỚI TIẾNG ANH)
55
V
2.1 Đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới tiếng Việt
2.1.1 Đặc trưng của lớp từ vựng tiếng Việt được cấu tạo dựa trên
chất liệu và quy tắc có sẵn
2.1.2 Đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới được hình thành
bằng cách vay mượn
2.1.3 Tiểu kết
2.2 Đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới tiếng Anh
2.2.1 Đặc trưng của lớp từ vựng mới được cấu tạo dựa trên chất
liệu và quy tắc có sẵn
2.2.2 Đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới được hình thành
bằng cách vay mượn
2.2.3 Tiểu kết
2.3 So sánh đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới tiếng Việt
và lớp từ vựng mới tiếng Anh
2.3.1 Những điểm tương đồng
2.3.2 Những điểm khác biệt
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG TỪ LOẠI CỦA LỚP TỪ
VỰNG MỚI TIẾNG VIỆT (SO SÁNH ĐỐI CHIẾU VỚI
LỚP TỪ VỰNG MỚI TIẾNG ANH)
3.1 Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới tiếng Việt
3.1.1 Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới được cấu tạo dựa
trên chất liệu và quy tắc có sẵn
3.1.2 Đặc trưng từ loại của lớp từ mới được hình thành bằng
cách vay mượn
3.1.3 Tiểu kết
55
57
66
71
78
78
83
88
92
92
94
97
97
98
112
121
3.2 Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới tiếng Anh
125
3.2.1 Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới được cấu tạo dựa
trên chất liệu và quy tắc có sẵn
3.2.2 Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới được hình thành
bằng cách vay mượn
125
3.2.3 Tiểu kết
3.3 So sánh đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới tiếng Việt và
lớp từ vựng mới tiếng Anh
3.3.1 Những điểm tương đồng
3.3.2 Những điểm khác biệt
131
135
136
136
137
VI
CHƯƠNG 4: ĐẶC TRƯNG NGỮ NGHĨA CỦA LỚP TỪ
VỰNG MỚI TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ VỰNG MỚI
TIẾNG ANH
4.1 Phân loại lớp từ vựng mới theo trường
4.1.1 Trường từ vựng - ngữ nghóa văn hoá – xã hội
4.1.2 Trường từ vựng - ngữ nghóa kinh tế – thương mại
4.1.3 Trường từ vựng - ngữ nghóa công nghệ thông tin
4.1.4 Trường từ vựng - ngữ nghóa khoa học – kỹ thuật
4.1.5 Tiểu kết
4.2 So sánh đặc trưng ngữ nghóa của lớp từ vựng mới tiếng Việt
và lớp từ vựng mới tiếng Anh
139
144
144
165
171
178
183
185
4.2.1 Những điểm tương đồng
4.2.2 Những điểm khác biệt
186
186
KẾT LUẬN
189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUY ƯỚC TRÌNH
BÀY
1. Các chữ viết tắt được dùng trong luận án:
NXB
Nhà xuất bản
VII
Dt
Dẫn theo
tr.
trang
2. Các ký hiệu được dùng trong luận án:
-
[23]: 23 là số thứ tự trong mục tài liệu tham khảo
-
[ tr.]: giới thiệu trang mà tác giả luận án trích dẫn trong mục
Tài liệu tham khảo
3. Quy ước trình bày
Các ngữ liệu mà tác giả luận án thu thập được và cần phân
tích của tác giả luận án: in nghiêng
Ví dụ:
-
Hoàn tất kết luận điều tra mảng chạy án vụ PMU 18.
1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu
Như chúng ta biết, ngôn ngữ không ngừng biến đổi và phát
triển. Khi nghiên cứu ngôn ngữ của con người, chúng ta đang tiếp cận
điều được gọi là yếu tố đặc trưng của con người, đặc trưng của trí tuệ
mà cho tới nay, là chỉ có ở con người [79, tr. 169]. Và như vậy, ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người từ xa xưa cho
đến nay. Ferdinand De Saussure nhận đònh “ngôn ngữ là một hệ thống
biểu hiện những ý niệm. Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một không
phải một sự vật với một tên gọi, mà là một khái niệm với một hình
ảnh âm thanh (image acoustique). Hình ảnh này không phải là cái âm
vật chất, một vật thuần vật lý, mà là dấu vết tâm lý của cái âm
đó, là cái biểu tượng mà các giác quan của ta cung cấp cho ta về cái
âm đó, nó thuộc cảm quan, và nếu đôi khi ta có gọi nó là “vật
chất” thì chỉ với ý nghóa đó và để đối lập với thành phần kia của
sự liên hệ, tức là với khái niệm, thường trừu tượng hơn.” [58, tr. 40 120]. Còn Harvey A. Daniels thì cho rằng mỗi ngôn ngữ của con người
được cấu tạo và thay đổi để đáp ứng yêu cầu của chính người sử
dụng ngôn ngữ đó [86, tr. 10]. Quan điểm này cũng đã được Nguyễn
Văn Tu nêu trong nghiên cứu của mình từ năm 1978. Theo Nguyễn Văn
Tu thì “hệ thống từ vựng ngày nay không còn giữ nguyên những đặc
tính của thời đã qua mà tiến triển và phong phú thêm lên. Để đáp
ứng với sự xuất hiện của nhiều khái niệm, hiện tượng mới, nhiều từ
mới được tạo ra. Nhiều từ cũ bò mất đi vì không hợp thời nữa. Nhiều
từ khác biến đổi về nghóa cũng như về cách dùng.” [69, tr. 254]
Cũng cùng quan điểm với Harvey A. Daniels và Nguyễn Văn Tu
nhưng cụ thể hơn, tác giả Nguyễn Thiện Giáp nhận đònh rằng “một
trong những thành tựu quan trọng nhất trong sự tiến hóa của loài người
2
là sự mở rộng bất thường của thế giới khái niệm. Bằng ngôn ngữ
thông báo không những chỉ cảm xúc, tri thức, mà cả một số lượng
vô hạn các trạng thái, quan hệ, đối tượng và sự kiện bên trong cũng
như bên ngoài con người. Hệ thống các từ trong tiếng Việt không đủ
để biểu thò một số lượng lớn như thế các khái niệm, hiện tượng khác
nhau. Nhu cầu tất yếu là phải cấu tạo thêm những đơn vò từ vựng trên
cơ sở những từ đã có.” [28, tr. 70].
Như vậy, ngôn ngữ luôn sống và luôn tồn tại trong xã hội, mọi
sự xuất hiện hoặc thay đổi của ngôn ngữ chỉ với mục đích là phục vụ
cho xã hội. Các phương tiện khoa học phát triển để phục vụ cho cuộc
sống, cho xã hội phát triển, và do đó, ngôn ngữ cũng phải phát triển
theo. Ngược lại, xã hội trong quá trình phát triển của mình cũng có
những tác động lên ngôn ngữ, cho ngôn ngữ phát triển. Ngôn ngữù
được hình thành và phát triển một cách liên tục. Trong lòch sử hình
thành và phát triển của mình, ngôn ngữ loại bỏ những từ không còn
cần thiết trong xã hội, tạo ra từ mới và cũng có thể biến đổi nghóa.
Có thể coi đây là tiến trình tất yếu khách quan cho sự tồn tại của ngôn
ngữ.
Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, các ngôn
ngữ trên thế giới có sự biến đổi mạnh mẽ trong vốn từ vựng như sự
xuất hiện ngày càng nhiều những đơn vò từ vựng mới để biểu đạt các
sự vật, sự việc, hiện tượng mới trên nhiều lónh vực, việc bổ sung nghóa
mới cho các từ đã có, vay mượn từ ngữ từ các ngôn ngữ khác . . . để
thực hiện chức năng giao tiếp trong giai đoạn hiện nay. Việc xã hội
không ngừng phát triển để đáp ứng yêu cầu phục vụ con người trên
mọi lónh vực của một nền khoa học tiên tiến là nguyên nhân chính tạo
ra những khái niệm, sự vật mới.
3
Tiếng Việt của chúng ta trong vòng mười năm trở lại đây cũng
có những biến đổi tương tự. Việc tạo ra các khái niệm, sự vật, sự việc
mới, từ trong nước và cả du nhập từ bên ngoài, đều cần từ vựng mới
để biểu đạt. Sự xuất hiện hàng loạt các từ vựng mới, sự thay đổi nghóa
của các từ ngữ đã có, có một ý nghóa hết sức to lớn và quan trọng
trong hoạt động hành chức, trong việc thực hiện chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ. Việc xuất hiện các từ vựng mới, với các nghóa mới lại
càng làm giàu hơn vốn từ vựng của ngôn ngữ. Và khi chúng ta nói
đến từ mới thì chúng ta không thể không nói đến phương thức cấu tạo,
nghóa và từ loại của từ. Trong tiếng Việt, có rất nhiều phương thức để
cấu tạo từ như: cấu tạo mới, mở rộng hay thu hẹp nghóa của một từ đã
có, ghép những từ đã có để tạo ra lớp từ vựng mới, láy, vay mượn
từ nước ngoài . . . và những phương thức này đều có những tác động
nhất đònh đến quá trình tạo ra lớp từ vựng mới trong thời gian qua.
Việc nghiên cứu lớp từ vựng mới là một nhiệm vụ lớn, đòi
hỏi phải có nhiều thời gian tổng hợp, nghiên cứu toàn diện. Do đó,
trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát các lớp từ vựng mới với
các tiêu chí như sau:
1. Những đơn vò từ vựng mới có chức năng đònh danh những sự
vật, hiện tượng, khái niệm mới xuất hiện trong mười năm trở lại đây
và chủ yếu là lớp từ vựng xuất hiện trong ba năm từ năm 2005 đến
năm 2007.
2. Những đơn vò từ vựng mới là những đơn vò chưa từng xuất hiện
trong những cuốn từ điển được đem ra đối chiếu hoặc những đơn vò này
nếu có xuất hiện trong các từ điển đó nhưng nay được cấu tạo mới.
3. Những đơn vò từ vựng mới được nghiên cứu trong luận án này
thuộc loại từ toàn dân chứ không bao gồm các từ thuộc nhóm từ đòa
phương, từ thông tục, tiếng lóng v.v.
4
4. Ngữ liệu được tiến hành trích xuất là từ các báo xuất bản ở
Thành phố Hồ Chí Minh như: báo Người Lao Động, Người Lao Động
Online, Phụ Nữ, Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên, Thanh Niên Online,
Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Online và các báo xuất bản ở Hà Nội như: báo
Nhân Dân, Hà Nội Mới, VietNamNet . . .
Lớp từ vựng mới có thể là từ đơn, từ ghép, từ láy và từ ngẫu
hợp. Chúng cũng có thể được cấu tạo từ các yếu tố có sẵn của
tiếng Việt hoặc vay mượn. Do đó trong quá trình nghiên cứu đặc trưng
của lớp từ vựng mới từ góc độ cấu tạo, từ loại và ngữ nghóa, chúng
tôi sẽ tiến hành phân tích về đặc trưng của từng thành tố, nếu là từ
ghép hoặc từ láy, tham gia hình thành nên lớp từ ngữ này. Để việc
phân tích được chuẩn xác, các ngữ liệu sẽ được phân chia như sau:
-
Ngữ liệu được sắp xếp theo các phương thức cấu tạo và các đơn
vò mục từ được xếp theo thứ tự chữ cái.
-
Phân tích ngữ liệu về lớp từ vựng mới tiếng Việt, ngữ liệu về
lớp từ vựng mới tiếng Anh và sau đó tiến hành đối chiếu hai ngôn
ngữ nhằm tìm ra những điểm tương đồng cũng như những điểm khác
biệt.
Cũng trong luận án này, qua khảo sát lớp từ vựng mới tiếng
Việt, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh đối chiếu với lớp từ vựng mới
tiếng Anh trên cả ba bình diện: cấu tạo, từ loại và ngữ nghóa. Chúng
tôi chọn tiếng Anh là đối tượng so sánh đối chiếu bởi vì:
-
Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ được sử dụng phổ biến
nhất trong mọi lónh vực hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn mở cửa và
hội nhập của đất nước.
-
Trong giai đoạn phát triển hiện nay trên toàn thế giới, ngày càng
có nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được phát minh từ nước ngoài
và sau đó, những thành tựu này được nhập vào nước ta. Việc chuyển
5
đổi tên gọi những sự vật, sự việc này bằng tiếng Việt dựa trên tiếng
Anh xuất hiện ngày càng nhiều. Do đó, việc so sánh, đối chiếu để đưa
ra một phương thức xử lý lớp từ này là cần thiết.
-
Một thực tế tồn tại trong nhiều năm qua trong xã hội chúng ta là
việc tiếng nước ngoài được sử dụng cùng một lúc với tiếng Việt –
đặc biệt là tiếng Anh. Đây có thể được coi là một hiện tượng không
lành mạnh trong việc bảo tồn tiếng Việt. Việc nghiên cứu nhằm tìm
hiểu nguyên nhân và có thể đưa ra hướng đề xuất cho việc xử lý hiện
tượng này.
-
Xét về mặt thực tiễn, trong nhiều năm qua, tiếng Anh là ngôn
ngữ mà chúng tôi thường xuyên tiếp xúc trong công tác giảng dạy và
dòch thuật. Qua đó, chúng tôi có thể rút ra kết luận về đặc trưng cấu
tạo, ngữ nghóa và từ loại của tiếng Việt và tiếng Anh nhằm củng cố
việc giảng dạy và dòch thuật của chúng tôi.
2. Lòch sử nghiên cứu vấn đề
Việt Nam hiện đang trong quá trình mở cửa và hội nhập. Trong
quá trình này, việc giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá khác là
điều hiển nhiên. Nước ta tiếp xúc nhiều sự vật, sự việc, hiện tượng từ
lónh vực khoa học kỹ thuật cho đến lónh vực khoa học xã hội. Ở trong
nước, nhờ những thành tựu tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, ngày càng
có nhiều sự vật, sự việc, hiện tượng được tạo ra để phục vụ cho nhu cầu
của xã hội. Mọi ngôn ngữ tồn tại hiện nay đều có thể sẵn sàng thay
đổi để thích nghi, phù hợp với những đổi thay trong xã hội của người
bản ngữ. Trong ba bình diện của ngôn ngữ, ngữ pháp và ngữ âm thì
rất ổn đònh và nếu có thay đổi, thì cũng sẽ phải mất hàng thế kỷ.
Trong khi đó về từ vựng thì sự thay đổi hay bổ sung xảy ra liên tục. Đặc
biệt trong thế kỷ 20, lónh vực khoa học kỹ thuật có sự thay đổi nhiều
nhất, do các phát minh, sáng chế mới được tạo ra nhằm đáp ứng yêu
6
cầu cấp thiết của nhân loại và như vậy, nhu cầu đặt tên cho các sự
vật, sự việc, hiện tượng mới là cần thiết.
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về sự phát triển của từ vựng tiếng Việt. Tác giả Nguyễn
Thiện Giáp (2003) đã nêu rõ sự phát triển về bình diện từ vựng tiếng
Việt kể từ khi chữ Nôm theo nguyên tắc của chữ Hán được sáng tạo
đến khi có chữ Quốc ngữ được cấu tạo theo nguyên tắc của chữ Latin
do các cố đạo phương Tây tạo ra cho mục đích truyền bá đạo ở nước ta
và sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất cũng là môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của chữ Quốc ngữ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, có
nhiều phương thức để tạo từ mới như:
-
Phát triển thêm nghóa mới: Phương thức này xoay quanh hai quá
trình: Mở rộng hoặc thu hẹp nghóa vốn có và chuyển đổi tên gọi (ẩn
dụ hoặc hoán dụ). Theo phương thức này, mặt ngữ âm của các đơn vò
từ vựng vẫn giữ nguyên nhưng mặt ngữ nghóa lại biến đổi, phát triển
phong phú hơn. Có trường hợp việc biến đổi ý nghóa của từ chỉ tạo ra
một sắc thái mới về nghóa chứ chưa tạo ra nghóa mới.
-
Biến dạng những đơn vò đã có để tạo ra những biến thể mới
hoặc những đơn vò mới: Phương thức này bao gồm hiện tượng biến âm
của một từ có sẵn để tạo ra những biến đổi mới như: anh hùng ->
yêng hùng, ấm ớ -> dấm dớ. Các thành ngữ khi sử dụng cũng có
thể tạo ra những biến thể mới khác nhau. Ví dụ như thành ngữ chết nết
không chừa có các biến thể sử dụng: chết nết chẳng chừa, chết mà
nết không chừa, chết thì chết nết không chừa.
-
Ghép các yếu tố sẵn có: Đây là phương thức chủ yếu để cấu
tạo các đơn vò từ vựng mới của tiếng Việt như: móc nối, bắn tỉa, khế
ngọt . . . Yếu tố sẵn có được dùng để cấu tạo các đơn vò từ vựng mới
không chỉ là những từ thuần Việt mà còn bao gồm những từ Hán –
7
Việt đã nhập vào tiếng Việt từ trước và được người Việt coi như vốn
sẵn có của mình, ví dụ như: bệnh viện, ca hát, súng lục, súng trường . .
. Những đơn vò từ vựng như ngụy biện, phiêu bạt, nội quy, y tá . . . gồm
các từ Hán – Việt ghép với nhau, mới nhìn tưởng là du nhập từ tiếng
Hán, kỳ thực những đơn vò từ vựng này mới được cấu tạo ở Việt Nam.
Các yếu tố sẵn có được ghép với nhau hoặc theo quan hệ đẳng lập
như: binh lính, mua bán, nhà cửa . . . hoặc theo quan hệ chính phụ như: cỏ
tóc tiên, rau tàu bay . . . Những đơn vò từ vựng được ghép theo quan hệ
chính phụ hầu hết tuân theo quy tắc cú pháp của tiếng Việt là yếu tố
chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau như: đào lộn hột, máy phay,
máy tiện . . . Nhưng cũng có các đơn vò từ vựng được cấu tạo theo trật
tự ngược cú pháp thông thường như: chỉ huy phó, nhóm trưởng, tam ca . .
.
-
Phương thức phức hợp hay còn được gọi là phương thức hoà đúc:
Phương thức này còn được gọi là nói gộp và trong phương thức này,
những yếu tố được coi là có giá trò nhất về mặt ngữ nghóa được giữ
lại để cấu tạo thành những đơn vò hoàn chỉnh mới như:
văn nghệ văn học, nghệ thuật
khiếu tố khiếu nại, tố cáo
-
Phương thức rút gọn: Đây là phương thức tạo ra đơn vò từ vựng
mới bằng cách lược bớt một phần của đơn vò đã có, như:
cử nhân cử
Công ty Giấy Đồng Nai COGIDO
-
Phương thức viết tắt: Trong phương thức này, chữ cái đầu của
các từ trong một tên ghép được giữ lại, như:
Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN
Văn phòng Quốc hội VPQH
8
Đối với việc vay mượn thì trong quá trình phát triển, cũng như mọi
ngôn ngữ khác, tiếng Việt cũng vay mượn thêm từ ngữ, ý nghóa và
cách cấu tạo của ngôn ngữ khác để làm giàu cho hệ thống từ vựng
của mình. Lớp từ vựng vay mượn được xử lý bằng các phương thức:
-
Ngoại lai: Từ ngoại lai là những từ mà tiếng Việt vay mượn của
các ngôn ngữ khác cả về hình thức lẫn nội dung. Tiếng Việt vay mượn
chủ yếu từ tiếng Hán như cộng hòa, đại sứ quán . . ., các ngôn ngữ
Ấn Âu như lô cốt, xô viết . . . và cả ngôn ngữ của các dân tộc ít
người ở Việt Nam nhưng số này không nhiều như buôn, bản, phai . . .
Những từ vay mượn có thể tồn tại dưới các hình thức như: giữ nguyên
dạng gốc (veston, blouse . . .), chuyển tự (Leningrad, Moskva . . .) và phiên
âm là ghi lại cách phát âm các đơn vò từ vựng nước ngoài bằng hệ
thống chữ cái của tiếng Việt (béton bê tông, bích tông, boulon
bù lon, bu long, bu loong, bù loong . . .)
-
Viết tắt ngoại lai: Ngoài các đơn vò từ vựng, tiếng Việt cũng vay
mượn các đơn vò viết tắt của tiếng nước ngoài như:
EC = European Community (Cộng đồng châu Âu)
WB = World bank (Ngân hàng Thế giới)
-
Ghép lai: Đây là phương thức ghép mà trong đó có một phần là
bản ngữ và một phần là ngoại lai nhưng ý nghóa thì hoàn toàn là
ngoại lai. Ví dụ: áo măng tô, áo vét, đạn gây nhiễu ra . . .
-
Sao phỏng cấu tạo từ: Ngoài việc mượn từ, phương thức sao
phỏng cấu tạo từ là dùng chất liệu của tiếng Việt để cấu tạo một
đơn vò từ vựng dựa theo mẫu về kết cấu của đơn vò tương ứng trong
ngoại ngữ nào đó. Thực chất đây là việc dòch từng hình vò hoặc
từng đơn vò tương ứng. Ví dụ:
kim loại hóa metaliser
chắn bùn garde boue
9
-
Sao phỏng ngữ nghóa : Đây là phương thức tạo từ mà trong đó chỉ
có ý nghóa của từ là ngoại lai, còn hình thức của từ là bản ngữ. Ví
dụ như từ pedan trong tiếng Pháp vốn bắt nguồn từ tiếng Latin có
nghóa là bàn chân. Căn cứ vào nghóa của từ pedan, người Việt dòch
là bàn đạp.
Theo Nguyễn Văn Tu, từ mới là những từ chưa bao giờ thuộc về
lớp từ vựng hoạt động. Dần dần, những từ này nhập vào vốn từ và
khi đã nhập vào vốn từ tích cực rồi thì những từ này không còn là từ
mới nữa. Lớp từ vựng mới được tạo ra đều do nhu cầu đặt tên một sự
vật mới hoặc để biểu thò những sự vật, sự việc, hiện tượng mới hoặc
những sự vật, sự việc, hiện tượng đã có tên gọi nhưng có thể vì đây
là những từ vay mượn hay từ cổ mà nay không còn thích hợp nữa [69,
tr. 240 - 243]. Nguyễn Văn Tu cũng khẳng đònh, những từ mới được cấu
tạo khác với quy luật cấu tạo từ của tiếng Việt sẽ không được xã hội
chấp nhận [69, tr. 240 - 243].
Hiện nay, ngoài cuốn “Từ điển từ mới tiếng Việt” (TS. Chu Bích
Thu - Chủ biên), (2002) của Viện Ngôn ngữ học do Nhà Xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, thì việc nghiên cứu về lớp từ mới
xuất hiện trong vòng 10 năm trở lại đây có thể nói là chưa nhiều.
Trong công trình nghiên cứu “về cách sáng tạo và sử dụng từ
mới trên tư liệu báo Nhân Dân giai đoạn 1986 – 2000”, tác giả Bùi Thò
Thanh Lương cho rằng “hiện nay các phương thức tạo từ mới chủ yếu
gồm: phương thức cấu tạo từ bằng cách ghép, láy và chuyển nghóa,
phương thức vay mượn trong đó phương thức ghép được triệt để khai thác.
Với loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình thì ghép là phương thức
có khả năng sản sinh rất lớn. Mối quan hệ giữa các hình vò trong từ
ghép có thể chặt hay lỏng tùy theo từng trường hợp cụ thể, với nhiều
kiểu ghép khác nhau như:
10
Ghép hai hình vò hạn chế với nhau
Ghép hình vò hạn chế với hình vò tự do
Ghép hai hình vò tự do với nhau ” [46]
Theo Bùi Thò Thanh Lương, trong ba cách ghép nêu trên thì cách
ghép hai hình vò tự do là cách đơn giản và thuận tiện nhất. Về việc vay
mượn từ ngữ, tác giả cũng cho rằng, hiện tượng vay mượn tiếng nước
ngoài, chủ yếu từ ngôn ngữ Âu – Mỹ là một hiện tượng tất yếu và
bình thường của quá trình tiếp xúc và giao lưu giữa các dân tộc, các
quốc gia thời mở cửa. Mảng từ này đã dần khẳng đònh được vò thế
của mình trong vốn từ vựng tiếng Việt. Tuy nhiên, việc sử dụng nó đôi
khi chưa nhất quán, gây khó khăn cho độc giả. Việc vay mượn và phiên
âm các đơn vò có nguồn gốc nước ngoài hiện nay tồn tại nhiều cách
khác nhau. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận những
từ vựng này.
Qua khảo sát một số tờ báo xuất bản tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Đào Mục Đích (2003) cho rằng có ba phương thức tạo từ ngữ trong
tiếng Việt hiện đại xuất hiện trên báo chí trong thời gian qua là:
1. Phương thức gán thêm một hay nhiều nghóa mới cho một hình
thức âm thanh cũ hay mở rộng nghóa. Đây là một trong những phương
thức làm giàu từ vựng. Theo phương thức này, mặt ngữ âm vốn có
vẫn giữ nguyên nhưng mặt ngữ nghóa lại biến đổi và phát triển.
2. Xu hướng cấu tạo từ dựa vào các mô hình kết hợp đã có.
Lớp từ vựng mới được hình thành dựa vào ba mô hình có sẵn, gồm:
-
Mô hình dựa vào mối quan hệ liên tưởng. Ví dụ như hoá đơn
khống dựa trên dự toán khống, bán khống, ký khống.
-
Mô hình dựa vào tính đối ứng như leo thang – xuống thang,
điều chỉnh tăng – điều chỉnh giảm.
11
-
Hiện tượng chuyển từ loại. Ví dụ như trong câu “Phục trang
bằng vải thun giá tiền rất sinh viên.” Từ sinh viên trong câu
này thuộc hiện tượng chuyển từ loại.
-
Mô hình dựa vào quan hệ ngữ nghóa đẳng lập. Một số
lượng lớn từ ghép được tạo mới bằng cách ghép những
yếu tố thường là gốc Hán được coi là có giá trò nhất về
mặt ngữ nghóa của các yếu tố có sẵn và hai yếu tố này
có ý nghóa chỉ loại ngang bằng nhau để cấu tạo mang đơn vò
hoàn chỉnh mới mang ý nghóa khái quát, tổng hợp. Ví dụ
như thương thảo là từ ghép của thương lượng và thảo luận,
phục tạo là từ ghép của khôi phục và tái tạo.
3. Xu hướng vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ khác đặc biệt
là tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Trong giai đoạn đất nước ta mở cửa
và hội nhập, việc vay mượn là để làm giàu kho từ vựng và lónh vực
có nhiều từ được vay mượn là tin học – điện tử, kinh tế, y học . . . Phương
thức chủ yếu được dùng để xử lý lớp từ vựng vay mượn của tiếng
Anh là phương thức sao phỏng, ví dụ như:
TỪ GỐC
LỚP TỪ VỰNG MỚI ĐƯC CẤU TẠO
BẰNG PHƯƠNG THỨC SAO PHỎNG
fire wall
bức tường lửa
online information
thông tin trực tuyến
Ngoài tiếng Anh, tiếng Việt cũng vay mựơn những đơn vò tiếng
Hán. Những đơn vò tiếng Hán này mới được vay mượn hoặc mới được
dùng lại trong những năm gần đây. Ví dụ:
-
Bên cạnh khẩu khiếu thiên phú . . . (TT, 8/10/2001)
12
-
Ông nói một cách hào sảng nhưng rất thật thà. (TN,
18/11/2002)
Dù chỉ là những sơ khảo, nghiên cứu của Bùi Thò Thanh Lương
và Đào Mục Đích phần nào đó cũng đã đưa ra được một số điểm căn
bản về các phương thức tạo từ mới trong tiếng Việt hiện đại. Dựa theo
kết quả của những nhà nghiên cứu đi trước, trong luận án này, chúng
tôi cố gắng trình bày một cách có hệ thống đặc trưng của lớp từ
vựng mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiếp thu và kế thừa những thành quả mà các nhà nghiên cứu đi
trước đã đạt được, tác giả luận án đề ra mục đích và nhiệm vụ cụ thể
như sau:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án này là nhằm tìm hiểu, khảo sát, nghiên
cứu và phân tích những đặc trưng về các phương thức cấu tạo từ, từ
loại và ngữ nghóa của lớp từ vựng mới được tạo ra để đặt tên cho các
sự vật, sự việc, hiện tượng mới trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án đưa ra những nhiệm vụ cụ
thể mà tác giả luận án cần phải đạt được, như sau:
3.2.1. Miêu tả, phân tích các đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng
mới trong tiếng Việt.
3.2.2. Miêu tả, phân tích các đặc trưng từ loại của lớp từ vựng
mới trong tiếng Việt.
3.2.3. Miêu tả, phân tích các đặc trưng ngữ nghóa của lớp từ vựng
mới trong tiếng Việt.
3.2.4. Tiến hành so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng
cũng như khác biệt của lớp từ vựng mới của tiếng Việt và tiếng Anh.
13
Việc tiến hành phân tích, đối chiếu những cứ liệu về phương
thức cấu tạo, ngữ nghóa và từ loại của lớp từ vựng mới bằng cách
kết hợp cơ sở lý luận của các tác giả đi trước với khả năng phân
tích, đánh giá vấn đề một cách độc lập của tác giả luận án.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận án là:
4.1.1. Phương pháp thống kê
Chúng tôi lập danh sách các ngữ liệu theo từng loại ngôn ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh, xác đònh tần số, tỷ lệ xuất hiện và sau đó
tiến hành so sánh - đối chiếu.
4.1.2. Phương pháp phân tích ngữ nghóa, ngữ pháp
Trong giai đoạn này chúng tôi tiến hành phân tích theo ba bước:
4.1.2.1. Phân tích phương thức cấu tạo:
Ở bước này chúng tôi tiến
hành phân tích đặc điểm của từng thành tố tham gia cấu tạo nên lớp
từ vựng mới để từ đó khái quát hoá mô hình cấu tạo từ ngữ.
4.1.2.2. Phân tích từ loại:
Qua các trích dẫn được sử dụng trong thực
tế, chúng tôi tiến hành phân tích đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghóa của
lớp từ vựng mới trong câu để từ đó xác đònh từ loại của chúng.
4.1.2.3. Phân tích ngữ nghóa và phân loại theo trường từ vựng – ngữ
nghóa: Chúng tôi tiến hành phân tích đặc điểm của từng thành tố và
mối quan hệ tác động lẫn nhau của chúng qua ngữ liệu và qua đó
chúng tôi có thể tìm ra nghóa cấu trúc của chúng.
4.1.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Sau khi khái quát về mô hình cấu tạo của lớp từ vựng mới tiếng
Việt, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu những đặc trưng này với
lớp từ vựng mới trong tiếng Anh nhằm tìm ra những nét tương đồng và
dò biệt của hai ngôn ngữ.
14
4.2 Nguồn ngữ liệu:
Để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của ngữ liệu, đối với
tiếng Việt, trong quá trình thu thập lớp từ vựng mới, chúng tôi tiến
hành so sánh các ngữ liệu được coi là từ mới với các từ trong các
cuốn từ điển được coi là có giá trò như:
1. Đại Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) (1999) của
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam do NXB Văn hóa –
Thông tin xuất bản.
2. Từ điển từ mới tiếng Việt (Chu Bích Thu - Chủ biên) (2002)
của Viện Ngôn ngữ học do NXB Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản.
3. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) (In lần thứ mười)
(2005) của Viện Ngôn ngữ học do NXB Đà Nẵng và Trung tâm
Từ điển học xuất bản.
Ngoài ra, để đối chiếu các thuật ngữ công nghệ thông tin, chúng
tôi phân tích nghóa dựa trên các cuốn từ điển chuyên ngành như:
1. Từ điển chữ viết tắt thông dụng Việt – Anh – Pháp của Lê
Nhân Đàm (2002), do NXB. Thế giới – Hà Nội xuất bản.
2. Từ điển viết tắt tiếng Anh về khoa học & công nghệ thông
dụng của Phùng Quang Nhượng (2002) do NXB. Thống kê xuất
bản
3. Từ điển Tin học & Công nghệ Thông tin Anh – Anh - Việt về
khoa học & công nghệ thông dụng của Nguyễn Ngọc Tuấn –
Trương Văn Thiện và nhóm Kỹ sư Tin học Ứng dụng (2002) do
NXB. Thông tấn xuất bản
Đối với tiếng Anh, để việcso sánh, đối chiếu được chính xác,
chúng tôi dựa vào các cuốn từ điển như sau:
15
- Từ điển Anh - Việt (1995) của Viện Ngôn ngữ học do NXB.
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
- Từ điển Oxford Advanced Learner’s (Ấn bản lần thứ 6 - 2000),
Sally Wehmeier (Chủ biên) do Oxford University Press xuất bản
Về phân tích lớp từ vựng mới tiếng Anh, mặc dù không cùng
thời điểm nhưng do điều kiện có giới hạn nên chúng tôi chọn cuốn từ
điển Oxford Dictionary of English – NewWords.pdf (Second edition) (2003) để
làm cơ sở đối chiếu với lớp từ vựng mới tiếng Việt.
5. Ý nghóa khoa học và ý nghóa thực tiễn của luận án
Trong khoảng mười năm qua, trong vốn từ vựng tiếng Việt, lớp từ vựng
mới xuất hiện ngày càng tăng để biểu đạt các sự vật, sự việc, hiện
tượng mới trên nhiều lónh vực cũng như việc thay thế, bổ sung nghóa cho
các từ đã có để có thể thực hiện chức năng giao tiếp, phản ánh
những thay đổi trong xã hội cũng như thể hiện sự hội nhập của các
quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu vấn đề từ mới thông qua các
đặc trưng như cấu tạo, từ loại và ngữ nghóa có ý nghóa lý luận và thực
tiễn.
Về mặt lý luận, luận án sẽ tìm hiểu và lý giải sự thay đổi trong
các hình thức cấu tạo từ, hình thành một số kiểu mẫu kết hợp từ mới
cũng như từ góc độ từ loại và ngữ nghóa. Từ kết quả nêu trên, về
mặt thực tiễn, luận án góp phần:
1. Nghiên cứu các đặc trưng về cấu tạo, từ loại và ngữ nghóa của
lớp từ vựng mới cũng như lớp từ vay mượn trong thời gian qua.
2. Nghiên cứu một cách toàn diện và làm sáng tỏ một số vấn đề
lý thuyết về cấu tạo, từ loại và ngữ nghóa lớp từ vựng mới.
3. Qua đó, luận án sẽ nêu lên khuynh hướng, khả năng và phương
thức cấu tạo từ mới của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay.
16
4. Luận án cũng nghiên cứu những phương thức xử lý lớp từ ngữ
vay mượn qua những phương thức phổ biến như: giữ nguyên ngôn
ngữ gốc, ngoại lai, sao phỏng và ghép lai.
5. Cũng qua nghiên cứu những phương thức xử lý lớp từ ngữ vay
mượn, chúng tôi tìm hiểu xem việc vay mượn có thật sự cần thiết
hoặc có góp phần làm giàu vốn tiếng Việt không hay chỉ là
hiện tượng nhất thời của người sử dụng.
6. Kết quả so sánh trong việc cấu tạo từ mới chỉ ra những điểm
tương đồng cũng như khác biệt của cả hai ngôn ngữ và kết quả
này có thể áp dụng để nghiên cứu và giảng dãy tiếng Anh.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần dẫn nhập, phần kết luận và phụ lục, luận án bao
gồm 4 chương chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết cơ sở
Chương thứ nhất có 34 trang giới thiệu một số vấn đề lý
thuyết cơ sở có tính chất lý luận chung về từ, cụm từ, cấu tạo
từ, từ loại, nghóa của từ, trường từ vựng – ngữ nghóa và ngữ
cảnh.
Chương 2: Đặc trưng cấu tạo của lớp từ vựng mới tiếng Việt (so
sánh đối chiếu với lớp từ vựng mới tiếng Anh)
Chương này có 41 trang và chúng tôi tiến hành phân tích từ
góc độ cấu tạo của lớp từ vựng mới được trích dẫn trên các
báo. Chúng tôi tiến hành phân tích nhằm tìm hiểu và nghiên cứu
các phương thức cấu tạo từ trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Đặc trưng từ loại của lớp từ vựng mới tiếng Việt (so
sánh đối chiếu với lớp từ vựng mới tiếng Anh)
Chương này gồm có 43 trang, dựa trên những đặc trưng cấu
tạo của lớp từ vựng mới, và qua phân tích ngữ liệu, chúng tôi
17
sẽ tìm hiểu và nghiên cứu lớp từ vựng mới tiếng Việt ở góc
độ từ loại.
Chương 4: Đặc trưng ngữ nghóa của lớp từ vựng mới tiếng Việt
(so sánh đối chiếu với lớp từ vựng mới tiếng Anh).
Chương này gồm có 43 trang, ở chương này chúng tôi sẽ
xem xét những đặc trưng của lớp từ vựng mới tiếng Việt xét từ
góc độ ngữ nghóa và phân loại theo trường từ vựng - ngữ nghóa.
Trong mỗi chương, dựa trên kết quả thu thập được và qua so sánh
đối chiếu, chúng tôi sẽ tìm ra những điểm tương đồng cũng như khác
biệt trong quá trình cấu tạo từ vựng mới của cả hai ngôn ngữ Anh –
Việt.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ
Để đònh hướng đúng trong quá trình thu thập và khảo sát ngữ
liệu, chúng tôi đề cập đến những lý thuyết làm cơ sở cho luận án.
Đó là các khái niệm về từ, cấu tạo từ, nghóa của từ, từ mới, ngữ
cảnh, từ loại, tiêu chí phân đònh từ loại và trường từ vựng – ngữ nghóa.
1.1 Vấn đề từ và cụm từ
Cho dù có một điểm chung là các nhà ngôn ngữ học đều thừa
nhận có sự tồn tại của từ trong ngôn ngữ nhưng trên thực tế từ là
một vấn đề vô cùng phức tạp mà cho đến nay vẫn chưa có được sự
thống nhất về đònh nghóa từ. Điều này là vì có nhiều cách hiểu, nhiều
18
quan điểm khác nhau về từ. Theo A. Meillet thì “từ là sự kết hợp giữa
một ý nghóa nhất đònh với một tổ hợp âm nhất đònh, có khả năng
đảm nhận một chức năng ngữ pháp nhất đònh” [48, tr. 40 – 42]. A. Sapir
thì đònh nghóa: “Từ là một đoạn nhỏ nhất có ý nghóa, hoàn toàn có
khả năng độc lập và bản thân có thể làm hành câu tối giản” [57,
tr. 42]. L. Bloomfield lại cho rằng “từ là hình thức tự do nhỏ nhất” [9, tr.
42]. Theo Lục Chí Vỹ (1957) thì “từ là đơn vò nhỏ nhất được vận dụng tự
do trong câu” [74, tr. 42]. Trong khi đó, một số nhà ngôn ngữ học khác
lại cho rằng, trong từng ngôn ngữ sẽ có khái niệm riêng về từ cho
ngôn ngữ đó, như L. V. Sherba (1958) đã viết: “Thiết nghó rằng trong các
ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó, tất nhiên sẽ không có
khái niệm “từ” nói chung” [59, tr. 32]. Nguyễn Kim Thản (1997) thì lại cho
rằng “từ là đơn vò cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách khỏi các đơn vò
khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối
hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghóa (từ vựng hoặc ngữ pháp) và chức
năng ngữ pháp”[61, tr. 27 – 31]. Cũng theo Nguyễn Kim Thản “vấn đề
đònh nghóa thế nào là “từ” là một vấn đề có quan hệ đến nhiều lónh
vực khác như từ vựng học, việc dạy học, việc soạn sách giáo khoa . . .”
[61, tr. 27 – 31], nhưng đây cũng là một vấn đề rất khó khăn. Khó khăn
là vì cho đến nay, khái niệm về từ vẫn chưa được thống nhất và các
nhà ngôn ngữ học vẫn còn đang tiếp tục bàn luận và chưa nhất trí với
nhau. Vì những lý do chưa được giải quyết ổn thỏa nêu trên, chúng tôi xin
lấy đònh nghóa về từ của Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hòang Trọng Phiến
để làm cơ sở cho nghiên cứu của chúng tôi như sau: Từ là đơn vò nhỏ nhất có
nghóa của ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây
doing nên câu [17, tr. 136].
Trong tiếng Việt, ngoài từ còn có các đơn vò khác được dùng
làm cơ sở để tạo ra câu, đó là ngữ và cụm từ. Nguyễn Thiện Giáp