ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
LÊ THỊ LA
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội khoa học
Nguời hưóng dẫn:PGS.T
S Nguyễn Thuý Vân
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
LÊ THỊ LA
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa Xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn
guời hưóng dẫ
SHà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn Thanh Tuấn và có sự tham khảo của
những tác giả ghi trong danh mục tài liệu tham khảo. Các tài liệu, số liệu sử
dụng trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, ngày 17 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Lê Thị La
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ............................ 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ................................... 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .................................... 9
5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu ............................ 9
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................ 10
8. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 10
B. NỘI DUNG ................................................................................................ 11
Chƣơng 1: NGUỒN NHÂN LỰC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY.............................................................. 11
1.1. Quan niệm, đặc điểm của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ............................................................................................................ 11
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ......... 11
1.1.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực......................................................... 20
1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực ............................................................. 22
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm của nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế, xã hội ở tỉnh Sơn La hiện nay ......................... 26
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội ở tỉnh Sơn La hiện nay ......... 26
1.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay .......................... 35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TỈNH SƠN LA THỜI GIAN TỚI ..................... 40
2.1. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay...... 40
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh
Sơn La hiện nay ......................................................................................... 40
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn
1
La hiện nay ................................................................................................ 51
2.2. Một số giải pháp tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
thời gian tới ................................................................................................. 58
2.2.1. Về nhận thức phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La .................. 58
2.2.2. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở tỉnh Sơn La để phát triển nguồn
nhân lực ..................................................................................................... 65
2.2.3. Tiếp tục triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển
nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La ................................................................... 78
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84
2
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều quan
tâm đến các nguồn lực nhằm tạo ra sự phát triển bền vững, một trong những
nguồn lực quan trọng đó là con người. Thế nhưng nguồn lực con người tự nó
không thể tạo ra được sức mạnh to lớn nếu không được phát huy có hiệu quả.
Phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay thực chất là phát huy một
trong những thế mạnh của nội lực đất nước trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người trong quá
trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
đã chỉ rõ: “Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có thu hút được
nội lực mới thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường
mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế thành
công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực
của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử
dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà nước” [20, tr.179]. Chiến lược phát triển
bền vững Việt Nam (2011 - 2020) tiếp tục khẳng định vấn đề trên một cách
sâu sắc hơn: Con người là trung tâm của phát triển bền vững, phát huy tối đa
nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của
sự phát triển bền vững. Con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể
chất, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân tuân thủ pháp luật. Trong
xu thế hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng thì việc giáo dục lối sống lành
mạnh, ý thức chính trị, tinh thần quốc tế trong sáng là điều hệ trọng. Khoa học
và công nghệ là nền tảng và là động lực cho phát triển bền vững đất nước,
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu [60, tr.57].
Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người là
một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã
3
hội giai đoạn 2011 - 2020 của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa
phương trong cả nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược
phát triển nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả, tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn là vấn đề vấp phải nhiều thách
thức đối với các cấp, các ngành và các địa phương; trong đó có tỉnh Sơn La.
Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La, trong những
năm gần đây, cũng đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong công tác đào tạo, sử
dụng, phát huy, phát triển, khai thác và quản lý nguồn nhân lực; từ đó, ở mức độ
nhất định, đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển bền vững của tỉnh.
Sau 25 năm đổi mới, đất nước nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng đã
giành được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, nay bước vào thời kỳ
phát triển mới sau khi đã hội nhập toàn diện, sâu, rộng vào nền kinh tế toàn
cầu hóa, cơ hội và thách thức chưa từng có đòi hỏi phải có nguồn nhân lực
thích ứng. Hơn nữa, thực trạng nguồn nhân lực hiện nay của tỉnh Sơn La khó
cho phép tận dụng cơ hội tốt nhất đang đến với tỉnh. Nếu không mau chóng
khắc phục được yếu kém này sẽ có nguy cơ khó vượt qua những thách thức
mới, kéo dài sự tụt hậu của tỉnh so với các tỉnh thành trong cả nước với nhiều
hệ lụy nan giải.
Hoàn cảnh tự nhiên, dân cư, v.v... của tỉnh Sơn La đã quy định nhiều
nét đặc thù trong việc phát triển nguồn nhân lực. Thêm vào đó, những tác
động chung của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế
và quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã làm cho vấn đề phát triển nguồn nhân
lực ở tỉnh Sơn La có những biến đổi sâu sắc, đòi hỏi phải nắm bắt kịp thời để
đưa ra những giải pháp có tính khả thi. Một số khâu trong đào tạo nguồn nhân
lực đang bị buông lỏng hoặc biến đổi theo hướng tiêu cực; dẫn đến chất lượng
nguồn nhân lực bị giảm sút. Một số ban, ngành ở địa phương vẫn chưa có chủ
4
trương nhất quán trong việc đào tạo, sử dụng, phát triển và phát huy nguồn
nhân lực của mình.
Từ tình hình trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triền nguồn nhân lực ở tỉnh
Sơn La hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học, của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của xã
hội. Thực tiễn chứng minh rằng, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ
thuộc nhiều vào đầu tư, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực. Do đó, vấn đề
con người, nguồn nhân lực, phát triển nguồn lực con người là đối tượng thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu trực tiếp về con người, nguồn
lực con người đã được xã hội hóa thành công trình khoa học, sách, bài viết
đăng trên tạp chí và báo cũng như trong các luận văn, luận án liên quan với đề
tài của luận văn này như sau:
- Phạm Minh Hạc chủ biên (1996), “Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội:
Cuốn sách đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn
về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Phân tích sự qua lại giữa các nguồn lực: nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý,...; trong đó yếu tố
quyết định chính là nguồn lực con người.
- Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm chủ biên (1996), “Phát triển nguồn nhân
lực – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà
Nội: Cuốn sách khái quát những kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực
của các nước phát triển trên thế giới và tập trung nghiên cứu lĩnh vực giáo dục
và đào tạo - yếu tố quyết định nguồn nhân lực.
5
- Nguyễn Bá Thể chủ biên (2005), “Phát huy nguồn lực con người để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội: Từ nghiên
cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số nước trên thế giới và
thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta, tác giả đã đưa ra những quan điểm về
nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực đối
với tăng trưởng kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam; đồng thời, đưa ra định hướng và những giải pháp nhằm phát huy nguồn
lực con người ở nước ta hiện nay.
- Đoàn Văn Khái chủ biên (2005), “Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb, Lý luận Chính trị, Hà
Nội: Tác giả cuốn sách đã trình bày một số vấn đề chung về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên thế giới và Việt Nam; vai trò của nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực trạng nguồn lực con người ở
Việt Nam và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; những giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay.
TS. Nguyễn Thanh (2005), “Phát triền nguồn nhân lực phục vụ Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước”, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tiếp
cận dưới góc độ triết học, tác giả đã xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa trên các quan điểm của Đảng về
phát triển con người, về vai trò của Giáo dục - Đào tạo để khẳng định Giáo dục Đào tạo là “quốc sách hàng đầu” để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng.
- Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Phan Thanh Tâm (2000), “Các giải pháp
chủ yếu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa đất nước”, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội: Tác giả trình
bày các khái niệm, nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực; phân tích một
số nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, nâng cao chất lượng về mặt trí lực của nguồn
6
nhân lực mà còn tác động đến sức khỏe, khả năng tiếp thu công nghệ, thu hút
đầu tư, tạo việc làm; nghiên cứu bài học kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản, các
nước Châu Á về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở phân tích những lý luận chung về nguồn
nhân lực, tác giả đi sâu phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam từ năm 1989 đến năm 1999; các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng về
mặt trí lực của nguồn nhân lực bao gồm: năng lực đào tạo cung cấp nguồn
nhân lực của hệ thống giáo dục, đầu tư của ngân sách Nhà nước cho Giáo dục
- Đào tạo, chính sách sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật; đặc biệt tác giả
đưa ra những căn cứ để xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và đề xuất 4 giải pháp về phát triển giáo dục và sử dụng, bồi dưỡng
cán bộ nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Hà Thị Hằng (2013), “Nguồn nhân lực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh
Thừa Thiên Huế hiện nay”, Đại học Kinh tế Huế: Trên cơ sở hệ thống hóa
những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa,
Hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, luận án phân tích đánh giá
thực trạng nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó đề xuất một số giải pháp
phát triển nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
Ngoài ra tác giả luận văn còn tham khảo thêm: Nguyễn Ngọc Sơn
(2000), nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới
tác động của cách mạng khoa học công nghệ, Tạp chí Triết học, số 5; Nguyễn
Hữu Công (2000), Vấn đề bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hóa, khoa
học, kỹ thuật cho người lao động, Tạp chí Triết học, số 5; Hồ Sĩ Quý (2000),
Nghiên cứu con người trước thềm thế kỷ XXI, Tạp chí Triết học, số 5; Trương
Giang Long (2002), Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay,
7
Tạp chí Triết học, số 1; Hoàng Thái Triển (2001), Vấn đề phát huy nhân tố
con người trong phát triển kinh tế, Tạp chí Triết học, số 2; Hồ Sĩ Quý (2002),
Con người là trung tâm: sự khác biệt giữa hai quan điểm tiêu biểu, Tạp chí
Triết học, sô 11; Đặng Hữu Toàn (2000), Gắn phát triển con người Việt Nam
hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Triết học,
số 4….
Có thể nói đây là đề tài đã được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh và ở
những mức độ khác nhau trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên đề
tài này luôn hàm chứa những vấn đề mới cần được bổ sung và phát triển. Cho
đến thời điểm này chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về việc phát
triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La dưới dạng một luận văn khoa học. Do vậy,
trong luận văn này, tác giả kế thừa những thành quả đã đạt được của những
công trình đã nêu trên, nhằm tổng kết, đánh giá đúng thực trạng phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh; làm rõ những vấn đề đang đặt ra; từ đó đề xuất một
số giải pháp có tính định hướng nhằm tiếp tục phát triển, phát huy và khai
thác nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn tập trung làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
hiện nay; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả và phát
triển, phát huy nguồn nhân lực của tỉnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận giải và làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn nhân
lực ở tỉnh Sơn La hiện nay.
- Phân tích đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
hiện nay: thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó.
8
- Những đóng góp của nguồn nhân lực trong những năm qua đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La. Những vẫn đề đặt ra trong nuôi
dưỡng, trong đào tạo, trong quản lý và trong sử dụng nguồn nhân lực.
- Đề xuất một số giải pháp có tính định hướng cho việc tiếp tục phát
triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung phát triển nguồn nhân lực ở Sơn
La trong các năm 2011 - 2015 là những năm tỉnh bắt đầu xây dựng và triển
khai thực hiện Đề án “Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Sơn La giai đoạn
2011 - 2020”.
5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được triển khai trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề con người; các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nguồn lực con người.
Luận văn cũng sử dụng một số lý thuyết hiện đại, như lý thuyết hệ
thống - cấu trúc, lý thuyết thống kê để phân tích, tổng hợp về mối quan hệ
của nguồn nhân lực với các nguồn lực khác và về tình hình đào tạo, sử
dụng, phát triển, phát huy, khai thác nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong
những năm gần đây.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình sử dụng nguồn nhân lực của
tỉnh Sơn La trong những năm gần đây.
9
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; và các phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích hệ thống,
tổng hợp, phân tích thống kê và so sánh số liệu,....
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách hệ thống về thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay; và đề xuất một số giải pháp có tính định
hướng cho việc tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong thời
gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
những người làm công tác học tập, nghiên cứu, giảng dạy bộ môn chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng và triết học nói chung.
- Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở để các cấp lãnh
đạo, các ngành của tỉnh Sơn La tham khảo trong quá trình hoạch định, triển
khai thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nguồn lực con người của
tỉnh trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn được kết cấu gồm 2 chương với 4 tiết.
10
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1: NGUỒN NHÂN LỰC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
1.1. Quan niệm, đặc điểm của nguồn nhân lực trong phát triển kinh
tế - xã hội
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Thứ nhất, quan niệm về nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con
người,.... Trong các nguồn lực đó, nguồn lực con người là quan trọng nhất, có
tính chất quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc
gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú,
máy móc, kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có
đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được
sự phát triển như mong muốn.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, Đảng ta luôn xác định: con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,
cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng bắt nhanh khoa
học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Vậy nguồn nhân lực là gì ?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên
Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển
của mỗi cá nhân và của đất nước” [63, tr.11]. Ngân hàng thế giới (WB) cho
rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ
năng nghề nghiệp,... của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người
được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ,
11
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên [63, tr.11]. Theo Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), nguồn nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham
gia lao động [60, tr.10]. Ở đây, nguồn nhân lực được hiểu ở hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực
bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn
nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng
tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân có thể tham
gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực
của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế học phát triển cho rằng, nguồn nhân lực là một bộ phận dân cư
trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được
xem xét, đánh giá ở hai phương diện: số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn
nhân lực là chỉ quy mô, cơ cấu tuổi, giới tính; chất lượng nguồn nhân lực là
khả năng tổng hợp về thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách, đặc điểm lối sống,
tinh thần và đặc biệt là khả năng nghiên cứu, sáng tạo, tiếp thu tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lao
động là tổng số những người trong độ tuổi lao động đang tham gia lao động
hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên
hai phương diện: số lượng và chất lượng. Như vậy, có một bộ phận người lao
động được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó
là những người không có việc làm nhưng không có nhu cầu tìm việc làm,
những người trong độ tuổi lao động nhưng đang đi học,…. Bảo đảm nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế, xã hội, chính là đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng cả về số lượng và chất lượng. [60, tr.11].
Theo thuyết về vốn con người (Human resource), thì yếu tố con người
được coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để
12
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực được coi như mọi nguồn lực khác
(như vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai...), cho nên cần phải đầu
tư cho con người. Trên thực tế việc đầu tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn
khá cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu tư vật chất [60, tr.84].
Từ những quan niệm trên, và tiếp cận dưới góc độ chính trị - xã hội có
thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực, trí lực, kỹ năng, tinh thần và số
lượng, cơ cấu của lực lượng lao động xã hội tại một quốc gia (hay một địa
phương), được sử dụng, khai thác, phát triển và phát huy trong các hoạt động
kinh tế, xã hội, để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội trong hiện tại và tương lai.
Thứ hai, quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con
người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong
hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ con người là yếu tố bảo
đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư
cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự
phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo TS
Phạm Tất Thắng trong bài viết “đổi mới giáo dục để phát triển nguồn nhân
lực phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa” phát triển nguồn nhân
lực được hiểu theo hai nghĩa. Với nghĩa hẹp: đó là một quá trình giáo dục, đào
tạo và đào tạo lại; trang bị, bổ sung thêm nhiều kiến thức, kỹ năng... để con
người có cơ hội tìm việc làm mới và hoàn thành nhiệm vụ mà họ đang thực
thi trong một tổ chức. Với nghĩa rộng: phát triển nguồn nhân lực còn bao gồm
cả yếu tố sử dụng nhân lực một cách hợp lý, tạo môi trường làm việc thuận lợi
để con người lao động có hiệu quả [60, tr.662].
13
Có quan điểm cho rằng, “phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các cơ
chế, chính sách và biện pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của toàn xã hội (phẩm chất về trí tuệ, thể chất, tâm lý - xã hội) và điều chỉnh
hợp lý về số lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển” [24, tr.13].
Một số tác giả khác lại quan niệm: phát triển nguồn nhân lực chính là
sự biến đổi số lượng và chất lượng nguồn nhân lực về các mặt cơ cấu, thể lực,
kỹ năng, kiến thức và tinh thần v.v... cần thiết cho công việc, nhờ vậy mà phát
triển được năng lực của họ, ổn định được công ăn việc làm, nâng cao địa vị
kinh tế - xã hội và cuối cùng là đóng góp cho sự phát triển xã hội [63, tr.14].
Theo PGS.TS. Vũ Văn Phúc trong báo cáo đề dẫn hội thảo khoa học:
“Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế” phát triển nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và
chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với quá
trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực. Nói một cách khái quát
nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực
toàn diện của con người, vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội [60, tr.11].
Từ những luận điểm trình bày trên, có thể quan niệm: Phát triển nguồn
nhân lực là sự biến đổi nguồn nhân lực về thể lực, trí lực, kỹ năng, tinh thần
và số lượng, cơ cấu của đội ngũ lao động, nhằm sử dụng, phát triển và phát
huy toàn diện nhân tố con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện
bản thân mỗi con người.
Do vậy, nội dung cơ bản phát triển nhân lực của tỉnh Sơn La cần tập
trung vào các vấn đề chủ yếu sau: thứ nhất, gia tăng về số lượng nhân lực có
trình độ chuyên môn, nghề nghiệp; thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực; thứ ba, chuyền dịch cơ cấu nhân lực theo hướng tiến bộ; thứ tư, phát huy
một số tố chất tích cực tiêu biểu của nhân lực tỉnh Sơn La.
14
Khi xem xét nguồn lực con người, đòi hỏi có quan điểm toàn diện, phải
nhìn nhận con người với tất cả hiện trạng, tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh
của nó đối với sự phát triển xã hội ở cả phương diện là chủ thể lẫn phương
diện là khách thể. Phát triển nguồn lực con người, ngoài việc quan tâm nâng
cao mặt bằng và đỉnh cao dân trí, bồi dưỡng và nâng cao sức khỏe cho mỗi cá
nhân, cho cộng đồng xã hội, còn phải chú ý đến việc xây dựng đạo đức, nhân
cách, lý tưởng cao quý của con người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề
cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn
nhân lực của một quốc gia. Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để
chỉ những người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ
thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về
chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ
thuật lành nghề).
Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực
của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy,
khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng
thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được
yêu cầu của thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước),
đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và
tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm
việc tốt, trách nhiệm với công việc.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát
triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính
15
trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao
có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải tạo được năng lực có tính đột
phá trong thực tế.
Nguồn nhân lực ở Việt Nam nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng, chưa
bao giờ lại đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ cao như hiện
nay. Nếu trong thời gian tới không giải quyết được bài toán nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng
chất lượng nguồn nhân lực trầm trọng, mà hệ quả của nó là ba vấn đề lớn đã
được PGS.TS. Vũ Văn Phúc chỉ ra trong bài Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế:
Một là, sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, khó thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”. Nếu không có nguồn
nhân lực đủ chất lượng để bước lên những bậc thang cao hơn, chúng ta sẽ mãi
dậm chân ở mắt xích cuối cùng của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ba là, đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế, đặc biệt
sau khi gia nhập VTO. Hiện nay, lao động của Việt Nam có cơ hội rất lớn để
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, nhưng với trình độ lao
động như hiện nay, chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc đi làm thuê với giá nhân
công rẻ mạt mà thôi.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa
trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò
quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột
cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng,
16
kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn
con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và
cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có
nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư,
có môi trường chính trị - xã hội ổn định.
Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng chỉ có thể đạt
được kết quả tốt một khi gắn nó với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương pháp, nghệ thuật dùng người. Việc dùng
người yêu cầu không chỉ “đặt đúng người, đúng việc”, mà còn phải bồi dưỡng,
tạo điều kiện tốt nhất để con người có thể phát huy được năng lực sáng tạo và
sở trường của mình nhằm hoàn thành tốt nhất công việc được giao.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, vấn đề huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn
nhân lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực, cần phải giải quyết ba vấn đề quan trọng là:
- Thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và
bền vững.
- Gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm.
- Tạo ra được nhiều việc làm mới có chất lượng, đảm bảo quyền và các
lợi ích chính đáng của người lao động và không ngừng cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thường chịu ảnh hưởng
trực tiếp của quy luật cung cầu lao động trên thị trường, vào chất lượng nguồn
nhân lực và các chính sách lao động, việc làm... đặc biệt là môi trường làm
việc, chế độ đãi ngộ đối với người lao động.
17
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh một trong ba
khâu đột phá để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020 là: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước” [21,
tr.265]. Đó cũng là con đường tất yếu để Việt Nam nói chung và tỉnh Sơn La
nói riêng đi tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về
số lượng, mạnh về chất lượng và trở thành động lực thực sự của phát triển.
Đi đôi với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta cần hoạch
định và tích cực triển khai thực hiện một chiến lược con người Việt Nam hiện
đại, đủ tầm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay và cả trong
tương lai. Với nhận thức đó, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
thời kỳ 2011 – 2020 được thủ tướng chính phủ quyết định trong Quyết định số
579/QĐ – TTG, ngày 19/4/2011 với mục tiêu chung là đưa nhân lực Việt Nam
trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất đối với việc phát triển bền vững đất
nước, hội nhập quốc tế, đã đề ra các mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2011 – 2020:
Một là, nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát
triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức; có năng lực tự học, tự
đào tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo; có tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp cao, có khả năng thích ứng và nhanh chóng tạo được thế chủ động
trong môi trường sống và làm việc;
Hai là, nhân lực quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp đáp ứng
những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong thế giới hội
nhập và biến đổi nhanh;
Ba là, xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt
là nhóm chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương
đương các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận,
18
chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, giải quyết về cơ
bản những vấn đề phát triển của các nước và hội nhập với các xu hướng phát
triển khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ trên thế giới;
Bốn là, xây dựng được đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh
nghiệp chuyên nghiệp, có bản lĩnh, thông thạo kinh doanh trong nước và quốc
tế, bảo đảm để các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam có năng
lực cạnh tranh cao trong nền kinh tế thế giới;
Năm là, nhân lực Việt Nam hội đủ các yếu tố cần thiết về thái độ nghề
nghiệp, có năng lực ứng xử, (đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm
việc, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tinh thần trách nhiệm, ý thức công
dân...) và tính năng động, tự lực cao, đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối với
người lao động trong xã hội công nghiệp;
Sáu là, thông qua quy hoạch phát triển Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020,
xây dựng nhân lực Việt Nam có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền
hợp lý. Cùng với việc tập trung phát triển nhân lực chất lượng cao đạt trình độ
quốc tế, tăng cường phát triển nhân lực các cấp trình độ đáp ứng yêu cầu phát
triển của các vùng, miền, địa phương;
Bảy là, hình thành được xã hội học tập,đảm bảo cho tất cả mọi công
dân Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo, thực hiện mục tiêu:
“Học để làm người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; học để có nghề, có việc
làm hiệu quả, học để làm cho mình và người khác hạnh phúc; học để góp
phần phát triển đất nước và nhân loại”;
Tám là, xây dựng được hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến,
hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông
giữa các cấp và các ngành đào tạo trong nước và quốc tế, phân bố rộng khắp
trên cả nước, góp phần hình thành xã hội học tập, đáp ứng nhu cầu học tập
suốt đời của người dân.
19
Như vậy, trong Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đã chỉ
rõ mục tiêu cụ thể. Với tỉnh Sơn La cần áp dụng một cách khoa học và phù
hợp với thực tế thực trạng nguồn nhân lực trong tỉnh để có thể có hiệu quả cao
nhất. Và qua đó, có thể thấy chủ thể phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
chính là hệ thống chính trị của tỉnh, gia đình và chính người lao động là chủ
thể phát triển nguồn nhân lực.
1.1.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực
Qua nghiên cứu khái niệm nguồn lực con người, luận văn có thể đưa ra
những đặc điểm cơ bản của nguồn lực con người như sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là lực lượng lao
động, là nguồn lao động (đội ngũ hiện có và sẽ có). Bên cạnh đó, khi đề cập
đến nguồn lực con người còn nói đến quy mô và tốc độ tăng dân số của một
địa phương, một số quốc gia trong một thời kỳ nhất định; tức là phản ánh cơ
cấu dân cư và sự phân bố, sắp xếp nguồn lao động trong các ngành và các lĩnh
vực kinh tế khác nhau, giữa các vùng miền của đất nước.
Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh chất lượng dân số, của lực
lượng lao động, biểu hiện ra ở hiện tại và còn đang tiềm tàng. Tuy nhiên, chất
lượng của nguồn lực con người luôn có mối quan hệ biện chứng với số lượng.
Khi nguồn lực con người có chất lượng cao nhưng số lượng hạn chế, cơ cấu
không phù hợp sẽ rất khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại,
dân số đông, tăng nhanh nhưng trình độ thấp thì rất khó khăn cho việc sử
dụng có hiệu quả, và còn tạo sức ép lớn do sự nảy sinh các vấn đề xã hội.
Thứ ba, “nguồn lực con người” được coi là nguồn lực nội tại và cơ bản
nhất, đặc biệt nhất trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế và
xã hội. Nếu các nguồn lực khác khi sử dụng, khai thác không những không
được tái tạo mà ngày càng cạn kiệt, thì nguồn lực con người, mà bộ phận cốt
lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận càng khai thác, sử dụng càng tạo ra giá trị
cao hơn. Nó có khả năng tái tạo, phục hồi và tự đổi mới. Nguồn sức mạnh to
20
lớn đó ngoài việc biểu hiện ở khía cạnh thể lực còn được thể hiện ra ở trí lực,
niềm tin, ý chí. Điều quan trọng hơn là ở sự gắn kết biện chứng giữa hai yếu
tố sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và sự cộng
hưởng của sự liên kết cộng đồng xã hội, được biểu lộ ra ở hiện tại và trong
tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa nó với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Hay có
thể thấy nó biểu hiện thông qua ba mối quan hệ chính: quan hệ với thiên
nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với chính mình.
Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem
xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội. Sức mạnh của nguồn lực con người thể
hiện ở sức mạnh thể lực, trí lực, niềm tin, ý chí.... Ở sự thống nhất biện chứng
giữa các sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của cả
cộng đồng, không chỉ trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng. Là một nguồn
lực, cũng như các nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ...)
con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển
của một quốc gia, dân tộc. Song, so với các dạng nguồn lực khác, nguồn lực
con người là một dạng nguồn lực đặc biệt, có nó các nguồn lực khác mới phát
huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội. Tính
đặc biệt thể hiện: Đây là một dạng nguồn lực có sức mạnh tự thân. Sức mạnh
tự thân có được là nhờ sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và nhân tố chủ
quan của mỗi người để tạo nên sức mạnh của cộng đồng. Quá trình sử dụng
nguồn lực không bao giờ cạn kiệt vì nó có khả năng tự phục hồi, khả năng tự
tái sinh. Đây cũng là dạng nguồn lực có ý thức, có khả năng trí tuệ, do đó
những giá trị mà nó đem lại là vô cùng to lớn nếu biết phát huy hợp lý. Mặt
khác, đây cũng là dạng nguồn lực mở, sự dồi dào hay cạn kiệt về nguồn lực
21
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan, khả năng phát huy và sử dụng của
các tổ chức hay cá nhân đối với nguồn lực.
Qua đây có thể nói rằng, nguồn lực con người có cấu trúc đặc biệt. Nó
được xem xét đến với tư cách vừa là khách thể đồng thời cũng là chủ thể của
quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Khi nói con người là chủ thể, trước hết
bằng trí tuệ, khả năng tư duy của mình, con người có khả năng khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực khác phục vụ cho nhu cầu và mục đích của
mình. Hơn nữa, con người còn làm cho các nguồn lực ngày càng phong phú
và đa dạng. Đứng trên phương diện là khách thể, con người trở thành đối
tượng được khai thác, sử dụng sức lao động cả về thể lực và trí lực nhằm thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, con người vừa là chủ thể, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực
Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên mà còn là chủ thể cải
biến tích cực của tự nhiên và xã hội. Đồng thời, con người là điểm khởi đầu
và điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử. Nguồn lực con người đóng vai trò
là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là lực lượng sản
xuất quyết định nhất của xã hội.
Thứ nhất, nguồn nhân lực là điều kiện nền tảng, bắt buộc và không thể
thiếu của các hoạt động kinh tế, xã hội
Kinh tế gia nổi tiếng William Petty đã từng khẳng định rằng, lao động
là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng, con người là
yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Trong truyền thống xã hội Việt Nam
cũng khẳng định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà tương lai Mỹ
Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức, theo ông ta “Tiền bạc
tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử
dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. [60, tr.131].
22