Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo việt nam sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.84 KB, 24 trang )

Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của bài viết này phân tích thực trạng ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt
Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ Chức Thương mại thế giới WTO từ đó đề
xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập. Các bài viết
trước đây chỉ đề cập đến vấn đề làm như thế nào để tăng sản lượng gạo để xuất khẩu, trong khi đó
gạo được xem là thế mạnh xuất khẩu nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn ở mức rất
thấp. Chính vì thế bài viết này sẽ đề ra một số biện pháp nhằm bình ổn giá và ngày càng nâng cao
giá trị xuất khẩu của hạt gạo Viêt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, an ninh lương thực
đang trở nên vấn đề cần được quan tâm và đó là lý do chúng tôi chọn đề tài này
2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thứ cấp trên các
báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế, trên các báo điện tử và các tài liệu có liên quan đến tình hình
sản xuất gạo ở Việt Nam.
Phương pháp phân tích số liệu: chủ yếu là phương pháp phân tích và so sánh, thống kê
mô tả, mô hình hóa và ma trận SWOT
3. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Nghiên cứu trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian: Số liệu liên quan chủ yếu lấy từ năm 1990 đến năm 2010.
Nguồn số liệu: Số liệu thứ cấp, tổng cục thống kê, bộ nông nghiệp
Đối tượng nghiên cứu: tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam
4. Câu hỏi cần giải đáp
1. Những thuận lợi và khó khăn trong ngành xuất khẩu gạo sau khi Việt Nam gia nhập tổ
chức WTO ?
2. Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần làm gì để đẩy giá xuất khẩu gạo Việt Nam tương
đương với giá thế giới ?
3. Cần có những giải pháp nào để ngành sản xuất và xuất khẩu gạo trở nên bền vững hơn ?

Page 1




Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO

PHẦN NỘI DUNG
I. Hôi nhập kinh tế
Vì sao cần phải hội nhập kinh tế quốc tế?
Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi tất yếu, bức thiết của đất nước ta. Nhận rõ lợi thế
và thách thức để chủ động hội nhập là điều hết sức cần thiết. Có vậy chúng ta mới đẩy nhanh quá
trình hội nhập với quy mô rộng hơn, trình độ cao hơn.
Trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới từ lâu, nhưng vẫn ở trình độ
thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế Việt Nam tham gia vào AFTA, ASEAN, nhưng sự tham gia
đó vẫn dừng ở phạm vi hẹp, nhỏ cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng ...Trước yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thế đứng mới
trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công bằng. Hiện nay Tổ chức
thương mại thế giới WTO đã thao túng tới 95% kim ngạch buôn bán thế giới, nếu chúng ta còn
đứng ngoài tổ chức này, thì tất nhiên sẽ rất yếu thế trong giao thương.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Mở cửa hội nhập do đó, không chỉ là để các
doanh nghiệp của ta vươn ra, mà còn để các doanh nghiệp nước ngoài đi vào sản xuất và kinh
doanh ở nước ta.
Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh tế nước ta,
chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Thời cơ đang đến, yêu cầu của chính bản thân
đòi hỏi, không còn sự lựa chọn ưu việt nào hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để
vẫn hội nhập phát triển mà vẫn bảo toàn trọn vẹn độc lập tự chủ, vẫn hội nhập mà không đánh

mất truyền thống, hội nhập mà an ninh trật tự xã hội được bảo đảm, hội nhập mà xã hội lành
mạnh và phát triển.
Page 2


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO

II. Tổ chức WTO
1. Giới thiệu về tổ chức WTO
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương
mại thế giới (World Trade Organization). WTO được thành
lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký
tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994. WTO chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 1-1-1995.
WTO ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại ( The General Agreement on Tariffs and Trade GATT). Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia
trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và
ký kết.
Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau :
WTO là nơi đề ra những quy định:
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp
2. Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Từ năm 1996 đến năm 2001, đàm phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ chế độ và chính
sách thương mại của ta, với việc ta phải trả lời hơn
2.000 câu hỏi có liên quan đến chính sách thương
mại, kinh tế, đầu tư.
Đến tháng 8/2001, Việt Nam chính thức đưa

ra Bản chào ban đầu về hàng hoá và dịch vụ
Page 3


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
(Ininitial offer) để bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước
thành viên Ban Công tác.
Về đàm phán song phương: Với việc Việt Nam và Hoa Kỳ ký thoả thuận chính thức kết
thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO của Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, ngày 31/5/2006),
ta đã chính thức hoàn tất đàm phán với toàn bộ 28 đối tác yêu cầu đàm phán với ta. Ta đang tích
cực vận động Quốc hội Hoa Kỳ sớm thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) cho Việt Nam.
Về đàm phán đa phương: Cho đến nay, Việt Nam đã tiến hành 15 phiên họp với Nhóm
Công tác về Việt Nam gia nhập WTO. Từ phiên 9 (tháng 12/2004), Việt Nam cùng với Ban Công
tác đã bắt đầu xem xét và thảo luận Dự thảo Báo cáo (DR) của Nhóm Công tác. Tại các phiên 14
và 15 (10/2006), chúng ta đã giải quyết được toàn bộ các vấn đề đa phương còn tồn đọng giữa
Việt Nam với một số đối tác, hoàn tất về cơ bản đàm phán gia nhập WTO, hoàn chỉnh toàn bộ các
tài liệu, chuẩn bị cho phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng WTO thông qua việc gia nhập của Việt
Nam được tổ chức vào ngày 7/11.
Tại lễ gia nhập ngày 7/11, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và các thành viên WTO đã
chứng kiến việc ký Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và
Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy. Sau đó, văn kiện này sẽ được trình lên Quốc hội để xem xét
thông qua (theo lịch trình, phiên họp của Quốc hội Việt Nam sẽ kết thúc vào 5/12), và gửi lại cho
Ban Thư ký WTO. 30 ngày kể từ sau khi Ban Thư ký WTO nhận được văn bản phê chuẩn này
của Quốc hội Việt Nam, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
3. Cam kết giữa Việt Nam và WTO
3.1 Cam kết đa phương
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định
mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở

trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho
hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc
biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế
phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018.

Page 4


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt
Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị
trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá.
Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu
nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
3.2 Cam kết về thuế nhập khẩu
Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế
(10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn
13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ
mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ
16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là
các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông
sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và
giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức
thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương
tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO

(giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới
gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ
thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm
đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, thuốc lá và muối.
3.3 Cam kết về mở của thị trường dịch vụ
Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam
kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành
dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch
vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ
cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm
Page 5


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp
với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này.
III. Thực trạng ngành sản xuất và xuất khẩu gạo ở Việt Nam
1.Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo trước khi gia nhập WTO
Với cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập trung trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, ngành lúa
gạo đã lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và các nguồn tiềm năng tự nhiên phục vụ cho sản
xuất lúa gạo không được khai thác hết. Kể từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đổi mới
kinh tế. Hộ gia đình đã thực sự được coi là một đơn vị sản xuất quan trọng trong nông thôn và
được trao quyền tự chủ trong các quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng
với những cải cách về chế độ sử dụng ruộng đất và thuế đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông
nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ đầu thập kỷ 90.
Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt
động thương mại quốc tế đối với ngành hàng lúa gạo cũng đã được đẩy mạnh. Một trong những
bước thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại đó là việc xoá bỏ hạn ngạch xuất

khẩu và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, và cũng nhờ đó
mà đã tăng nhanh được lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Không những đáp ứng đủ nhu cầu
tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Trong giai đoạn 19972001, Việt Nam xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng 3,8 triệu tấn, cung cấp gạo cho hơn 120
quốc gia trên thế giới, thuộc tất cả các Châu lục khác nhau, tuy nhiên chủ yếu vẫn là xuất sang
Châu Á (52%), Châu Âu (20%) và Trung Đông (12,7%). 5 nước đứng đầu trong danh sách nhập
khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2001 đó là: In-đô-nê-xi-a (14,8%), Phi-li-pin
(12,6%), Xin-ga-po (9,9%), Irắc (9,8%) và Thuỵ sĩ (8,4%).
Bảng 1: Gạo XK của Việt Nam, bình quân hàng năm giai đoạn 1997-2001
Tổng xuất khẩu
10 nước nhập khẩu chính:
Indonesia
Philippines
Singapore
Irắc
Thuỵ Sĩ
Malaysia
Mỹ
Hồng Kông

%
100
71,3
14,8
12,6
9,9
9,8
8,4
5,1
3,2
2,9


Tấn
3,808,655
2,717,187
564055
478948
376044
373875
318374
193526
121908
110272

USD
843,051,138
623,565,919
125731239
105547780
80450007
109189133
70154242
43769917
26744283
23985801

USD/Tấn
221
229
223
220

214
292
220
226
219
218
Page 6


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Hà Lan
2,8
108478
24839738
229
Nga
1,9
71708
13153779
183
Gạo xuất khẩu của Việt Nam (1997-2001) phân theo khu vực, %
Cơ cấu luợng XK
Cơ cấu Giá trị XK
Tổng cộng:
100,0
100,0
Châu Á
52,0
51,0

Đông-Nam-Á
46,2
45,4
Châu Âu
20,4
19,6
Đông Âu
4,4
3,8
Trung Đông
12,7
16,0
Châu Phi
8,2
6,9
Châu Mỹ
5,5
5,3
USA
3,2
3,2
Châu Đại Dương
1,1
1,1
*Nguồn của Tổng cục Thống Kê, 2001
2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ khi gia nhập WTO:
2.1. Kim ngạch xuất khẩu:
Công tác xuất khẩu “gạo” trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng khích
lệ. Qui mô xuất khẩu “gạo” ngày càng mở rộng với khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá
cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, bên cạnh một

số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở
thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ
tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo tăng lên một cách đáng kinh ngạc.
Năm 2007,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu đến nay đã đạt
mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Đặc biệt trong năm này, giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam đã tăng đáng kể và lần đầu tiên ngang giá với gạo Thái Lan.. Năm 2008 xuất khẩu
gạo đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỉ đô la Mỹ (tính ra, giá bán bình quân 617,02 đô la
Mỹ/tấn).
Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính
phủ, năm qua, cả nước đã xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, kim ngạch XK gần 2,7 tỉ USD, đây
là năm có số lượng xuất khẩu nhiều nhất từ trước đến nay; trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm
đến 40, 25%. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so
Page 7


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp XK đã đạt 50% (những năm trước chỉ khoảng 34%). Như
vậy, mặc dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm 2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch
xuất khẩu giảm 200.000 đô la Mỹ, giá bán giảm 183,69 đô la Mỹ/tấn.
Tháng 4/2010 cả nước xuất khẩu 725.620 tấn gạo các loại, đạt 361,4 triệu USD, giảm
49,71% về lượng và giảm 54,41% về trị giá so với tháng 3/2010. Tính chung cả 4 tháng đầu năm
lượng xuất khẩu đạt 2,2 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,15 tỷ USD, giảm 12,81% về lượng và giảm nhẹ
0,33% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam gần như thấp
nhất so với những nước xuất khẩu gạo khác, giá bình quân 4 tháng đạt 532USD/tấn, tăng hơn
14% so với cùng kỳ năm 2009 nhưng vẫn thấp hơn giá bình quân 3 tháng đầu năm là
549USD/tấn. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, dù vẫn giảm 7,3% về lượng, xuất
khẩu gạo 5 tháng đầu năm đã tăng 0,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, xuất

khẩu gạo từ đầu năm đến nay đã đạt trên 2,9 triệu tấn với kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, bằng
58,4% kế hoạch cả năm, đồng thời đứng thứ 5 trong các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu dẫn
đầu cả nước, xếp sau dệt may, dầu thô, da giày và thủy sản. Có được kết quả này là do giá gạo
xuất khẩu đã tăng khá hơn trong năm nay. Cụ thể, giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm
đạt 513,43 USD/tấn, tăng khoảng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (giá gạo xuất khẩu bình quân 5
tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 473,37 USD/tấn)
Đơn vị: tấn

Page 8


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
2
.

2

.

Cơ cấu thị trường:
Có thể nói rằng công tác thị trường của ngành xuất khẩu gạo đã có những tiến bộ vượt bậc.
Cho đến nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường của trên 70 nước và vùng lãnh thổ,
trong đó có các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ nhưng chủ yếu là sang Philippines;
Malaysia; Cu Ba; Singapore. Theo một chuyên gia trong lĩnh vực ngành hàng xuất khẩu, trong
vài năm gần đây, sau khi đạt tới sự bão hòa về khối lượng tại các thị trường truyền thống, các
hoạt động khai phá để tạo sự tăng trưởng ở các thị trường mới của các doanh nghiệp (DN) xuất
khẩu gạo là không đáng kể.
Philippines vẫn dẫn đầu cả về lượng và kim ngạch, riêng tháng 4/2010 xuất sang
Philippines 229.030 tấn gạo, trị giá 153,5 triệu USD (chiếm 31,56% về lượng và 42,48% về kim

ngạch). Tính cả 4 tháng xuất sang Philippines hơn 1 triệu tấn gạo, trị giá 640,7 triệu USD (chiếm
46,64% về lượng và 55,5% về kim ngạch).
Trong tháng 4/2010 cũng có thêm 4 thị trường xuất khẩu gạo đạt trên 10 triệu USD là:
Singapore 43,4 triệu USD; Đài Loan 28,4 triệu USD; Malaysia 21,6 triệu USD; Hồng Kông 11,3
triệu USD.
Xuất khẩu gạo sang các thị trường trong tháng 4/2010 đa số đều giảm về lượng và trị giá
so với tháng 3/2010; trong đó dẫn đầu về sự sụt giảm là thị trường Cu Ba chỉ đạt 1.275 tấn, trị giá
0,51 triệu USD, giảm 98,7% về lượng và 98,84% về kim ngạch; đứng thứ 2 về mức sụt giảm là
thị trường Tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất (-94,59% về lượng và -95,56% về kim ngạch); tiếp
Page 9


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
đến Italia (-86,06% về lượng và -87,33% về kim ngạch); Indonesia (-73,97% về lượng và
-78,44% về kim ngạch); Philippines (-70,73% về lượng và 68,49% về kim ngạch); Malaysia (58,01% về lượng và -59,66% về kim ngạch); Nga (-52,47% về lượng và -55,8% về kim ngạch)…
Chỉ có 5 thị trường tăng cả lượng và kim ngạch so với tháng 3/2010, dẫn đầu về mức tăng
trưởng dương là thị trường Pháp (+118,15% về lượng và +78,84% về kim ngạch); thứ 2 là thị
trường Hồng Kông (+113,61% về lượng và +70,95% về kim ngạch); tiếp theo là
Australia (+73,37% về lượng và +25,74% về kim ngạch); Nam Phi (+61,26% về lượng và
+49,66% về kim ngạch); Singapore (+34,75% về lượng và +17,57% về kim ngạch). Riêng lượng
gạo xuất sang Ucraina trong tháng 4/2010 tăng 17,45% về lượng nhưng giảm 0,78% về kim
ngạch so với tháng 3/2010.
Trong tháng 4/2010 có 2 thị trường không tham gia xuất khẩu gạo là Tây Ban Nha và Hà Lan.
Thị trường xuất khẩu gạo tháng 4/2010

Tháng 4/2010
Lượng
Tổng cộng
Philippines

Singapore
Đài Loan
Malaysia
Hồng Kông
Nga
Nam Phi
Ucraina
Indonesia
Australia
Cu Ba
Pháp
Ba Lan
Italia
Tiểu vương

Trị giá

4 tháng 2010
Lượng

Tăng

Tăng

giảm về

giảm

Trị giá


(tấn)
(USD)
(tấn)
(USD)
725.620 361.359.655 2.168.597 1.153.924.498 -49,71 -54,41
229.030 153.495.045 1.011.478 640.694.155
-70,73 -68,49
106.578 43.352.674
185.671
80.225.154
+34,75 +17,57
75.456 28.393.028
171.416
68.990.028
-21,37 -30,06
49.134 21.569.645
166.136
75.040.265
-58,01 -59,66
26.723 11.284.638
39.233
17.885.934
+113,61 +70,95
6.700
2.916.730
20.796
9.514.927
-52,47 -55,80
4.875
2.150.000

7.898
3.586.587
+61,26 +49,66
4.375
1.864.538
8.099
3.743.668
+17,45
-0,78
3.385
1.773.925
16.390
10.000.920
-73,97 -78,44
1.543
696.333
2.433
1.250.125
+73,37 +25,74
1.275
510.000
99.325
44.356.958
-98,70 -98,84
613
230.314
894
359.093
+118,15 +78,84
275

126.100
750
345.336
-42,11 -42,47
46
23.000
376
204.521
-86,06 -87,33
50
20.521
974
482.976
-94,59 -95,56
Page 10


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Quốc Ả Rập
thống nhất
Hà Lan
Tây Ban

0
0

0
0


327
119

191.000
80.290

*
*

*

Nha
*Nguồn của Tổng cục Thống Kê, 2010
IV. Ma trận kết hợp Swot của xuất khẩu gạo:
Từ khi Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế Giới – WTO, nền
kinh tế nói chung cũng như ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng đã có những bước phát triển không
ngừng nhờ vào những điểm mạnh cũng như cơ hội mà WTO mang lại cho Việt Nam. Nhưng bên
cạnh đó, chúng ta cũng không thể không nhắc đến những khó khăn, thách thức mà WTO đã tác
động tới. Chính vì vậy chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Ma trận kết hợp “SWOT” của ngành xuất
khẩu “gạo” trong thời gian Việt Nam đã gia nhập vào WTO:
Ma trận kết hợp SWOT
của ngành xuất khẩu gạo

Cơ hội
1.Thị trường nước ngoài

Việt Nam sau khi gia nhập chưa bão hòa.
WTO

2.Các rào cản thuế quan


Thách thức:
1. Khủng hoảng tài chính
toàn cầu.
2. Do đồng Euro mất giá

và phi thuế quan được phá nên thách thức lớn đặt ra
vỡ nên cơ hội phát triển là cho việc xuất khẩu qua các
rất lớn.
3.Cơ hội tiếp xúc, làm

nước châu Phi.
3. Xuất hiện đối thủ cạnh

việc, học hỏi kinh nghiệm tranh mới như myanmar,
và chuyển giao công nghệ pakistan..
với các nước phát triển như
Mỹ, Nhật..

4. Xu hướng bảo hộ mậu
dịch có chiều hướng gia

4. Thu hút được sự đầu tăng.
tư và quan tâm của các tổ
chức ngân hàng lớn như
WB.

Page 11



Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Điểm mạnh

Phối hợp SO

Phối hợp ST

1.Gia nhập WTO, Việt 1. Chiến lược thâm nhập thị

Phát triển sản phẩm với

Nam có nhiều cam kết tạo trường:

chất lượng cao (S1, S3,S4,

nên thế mạnh cho ngành

W1, W4).

(S1, S3, O1, O2).

xuất khẩu gạo hư cam kết 2. Chiến lược phát triển thị
IRN, cam kết trợ cấp nông trường
nghiệp…

( S1, S2, S4, O1, O2).

2. Được hưởng những ưu 3. Chiến lược phát triển sản
đãi, đối xử công bằng như phẩm theo hướng nâng cao

các quốc gia trohg WTO.

chất lượng sản phẩm (S1,

3. Thị trường tiềm năng S2, S4, O3, O4)
lớn.
4.Thị trường trong nước
tiếp tục ổn định.
Điểm yếu

Phối hợp WO

1. Trợ cấp xuất khẩu trong 1. Đổi mới công nghệ
nông nghiệp bị phá bỏ trừ

(W2, W3, O3,O4)

Phối hợp WT
1. Chiến lược cạnh tranh về
giá

trường hợp được hưởng ưu 2. Mở rộng thị trường sản (W1, W2, W3, T1, T2)
đãi dành cho nước đang phẩm (W1, W4, O1, O2)

2. Chiến lược hội nhập phía

phát triển.

sau


2. Cơ sở hạ tầng, máy

(W1, W2, T1, T4)

móc trang thiết bị đầu tư
cho nông nghiệp cũng như
hệ thống vận chuyển còn
thấp…
3. Năng lực tài chính còn
hạn hẹp, nguồn thông tin và
nhân lực như các chuyên
gia trình độ dự báo cung
cầu còn nhiều hạn chế.
4. Chính sách của chính
Page 12


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
phủ chưa hợp lý…
1. Điểm mạnh bên trong: (S – Strength)
Thứ nhất, khi gia nhập WTO, Việt Nam có nhiều cam kết tạo nên thế mạnh cho ngành
xuất khẩu “gạo” như cam kết IRN, cam kết trợ cấp nông nghiệp: Khi gia nhập WTO, trong cam
kết mở cửa thị trường nông sản trong đó có xuất khẩu “gạo” có cam kết “quyền đàm phán ban
đầu (INR) nghĩa là trong quá trình thực hiện cam kết, một số trường hợp nhất định không lường
trước được, Việt Nam có thể tăng thuế nhập khẩu “gạo” cao hơn mức cam kết. Trường hợp đó,
Việt Nam phải đàm phán trước với những nước dành được Quyền đàm phán ban đầu (tên những
nước đó được ghi bên cạnh mỗi dòng sản phẩm trong Biểu cam kết). Những nước đề nghị INR
đối với nông sản của Việt nam chủ yếu là Mỹ, Úc, New Zealand, Braxin. Điều này cho thấy thuận
lợi cho việc bảo hộ ngành xuất khẩu gạo cũng như nâng cao lợi thế cạnh tranh, khẳng định

thương hiệu gạo của Việt Nam với các quốc gia cùng ngành.
Là nước đang phát triển trong WTO, Việt Nam cũng được hưởng các trợ cấp nhằm giảm
chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài (cước phí vận chuyển, nâng phẩm cấp để xuất khẩu…) và
trợ cấp vận tải nội địa và quốc tế cho hàng xuất khẩu sẽ không bị xếp vào các hình thức trợ cấp
xuất khẩu bị cấm. Đây là điểm có lợi cho Việt Nam khi gia nhập WTO để tăng lợi thế cạnh tranh
về giá cho ngành xuất khẩu “gạo” phát triển.
Thứ hai, được hưởng những ưu đãi, đối xử công bằng như các quốc gia trong WTO. Thị
trường xuất khẩu được mở rộng với mức thuế quan MFN (có nghĩa là nếu một nước dành cho
một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó
cho tất cả các nước thành viên khác) thấp và ổn định. Như chúng ta đã biết trước khi trở thành
thành viên của WTO, xuất khẩu “gạo” nói riêng phải chịu mức thuế phổ thông (thường là mức
thuế cao hơn) của nước nhập khẩu. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO
(149 nước vào thời điểm 11/1/2007) có nghĩa vụ phải cho hàng hóa Việt Nam hưởng thuế suất
MFN theo cam kết của họ trong WTO. Đây là một lợi ích rất lớn của việc gia nhập WTO mà các
doanh nghiệp nông nghiệp cần tận dụng bởi vì khi đó doanh thu sẽ gia tăng, đồng nghĩa với việc
lợi nhuận sẽ tăng. Và khi gia nhập WTO, đối với ngành lúa gạo là ngành mà Việt Nam có tiềm
lực xuất khẩu mạnh, vì vậy cần tận dụng cơ hội thuế nhập khẩu MFN vào các nước thành viên
WTO thấp và ổn định để đẩy mạnh xuất khẩu (chủ yếu thông qua việc nâng cao chất lượng sản
phẩm, uy tín thương mại, quảng bá sản phẩm).
Page 13


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Thứ ba, thị trường tiềm năng lớn: Hiện nay các Bộ, ngành đã dành sự quan tâm thích
đáng cho việc ban hành các văn bản pháp lý để thực hiện cam kết mở cửa thị trường nông sản
điển hình là việc nhập khẩu “gạo”. Một trong số những cam kết đó là cam kết về thuế quan: mức
thuế nhập khẩu của sản phẩm “gạo” thì giảm rất ít hoặc không giảm và việc cắt giảm này cam kết
được thực hiện trong vòng từ 3-5 năm kể từ khi gia nhập WTO, mức giảm thuế sẽ được chia đều
cho mỗi năm trong lộ trình cắt giảm. Điều này giúp củng cố niềm tin của cộng đồng quốc tế vào

quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ thành viên bên cạnh đó
hiện nay Việt Nam đang áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp hơn so với cam kết đây là một vấn đề
không đáng lo ngại bởi vì chúng ta có thể tăng thuế trở lại trong tương lai khi có nhu cầu bảo hộ
đối với ngành xuất khẩu gạo trong nước, thiết lập được mối quan hệ ngoại giao để có cơ hội xâm
nhập vào những thị trường tiềm năng mới và hội nhập với thị trường gạo thế giới.
Thứ tư, thị trường trong nước tiếp tục ổn định: Việt Nam đã thành công trong đàm phán
gia nhập WTO về nông nghiệp và được giữ nguyên mức bảo hộ thuế nhập khẩu nông sản nói
chung và thuế nhập khẩu “gạo” nói chung ở mức như trước khi gia nhập. Điển hình như cam kết
thuế quan của Việt Nam đối với mặt hàng gạo bình quân trong WTO là 40% (trừ giống lúa), đây
là mức thuế bằng với mức MFN hiện nay và mức thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập này sẽ
vẫn được giữ ở mức 40% mà không phải giảm nữa. Như vậy, sau 11/1/2007 (thời điểm gia nhập
WTO), thuế và các điều kiện nhập khẩu khác là hầu như không có sự thay đổi so với trước khi gia
nhập WTO. Thị trường trong nước vì thế ổn định, không phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đến từ
phía “gạo” nước ngoài (từ góc độ thuế quan).
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, từ khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO, đã tạo cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi như các chính sách hỗ trợ…
Những hoạt động này giúp cho ngành xuất khẩu “gạo” tăng thêm lợi thế cạnh tranh và tạo dựng
được thương hiệu của mình trên thị trường thế giới.
2. Điểm yếu bên trong: ( W- Weakness)
Thứ nhất, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp bị phá bỏ trừ trường hợp được hưởng ưu
đãi dành cho nước đang phát triển: Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp
xuất khẩu trong nông nghiệp nói chung và ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng (trừ trường hợp được
hưởng đối xử ưu đãi dành cho nước đang phát triển).

Page 14


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Thứ hai, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị đầu tư cho nông nghiệp cũng như hệ thống

vận chuyển còn thấp:
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như hệ thống giao thông vận tải, máy móc đầu tư cho sản xuất
nông nghiệp còn thấp dẫn đến năng suất chưa cao, chất lượng chưa đảm bảo, và tất nhiên là
nguồn nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu “gạo” còn nhiều hạn chế.
Không chỉ dừng lại ở đó, do đầu tư cho nông nghiệp thấp nên hiện nay nước mặn đã xâm
nhập sâu vào đất liền nhiều tỉnh ven biển. Đây là khó khăn rất lớn đối với vụ đông xuân của bà
con hơn thế nữa tình trạng hạn hán kéo dài cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, sản lượng lúa
và khi đó giá thành sẽ tăng lên.
Bên cạnh đó, từ khi gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu “gạo” của chúng ta có thêm thị
trường mới đó là những nước phát triển như Mỹ, những thị trường này có giá cao hơn và tất nhiên
là chất lượng sản phẩm cũng phải tương xứng và gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá thấp
nhất nếu so với gạo cùng loại của các nước khác do chất lượng gạo của chúng ta không đồng đều,
quy trình sản xuất, bảo quản còn yếu.
Thứ ba, năng lực tài chính còn hạn hẹp, nguồn thông tin và nhân lực như các chuyên gia
trình độ dự báo cung cầu còn nhiều hạn chế:
Ngành xuất khẩu “gạo” của chúng ta phải đối đầu với các quốc gia có tiềm lực lớn về tài
chính. Trong khi đó, Việt Nam là một nước đang phát triển, nguồn lực về tài chính còn hạn hẹp
và một số quyết định của Chính phủ không những không mang lại lợi mà còn gây bất lợi, khó
khăn ích cho việc xuất khẩu “gạo” như hiện nay, Bộ tài Chính đang có dự định lập quỹ bình ổn
thị trường lúa gạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết là các doanh nghiệp xuất khẩu
“gạo” đồng tình với việc thành lập này nhưng Bộ Tài chính đưa ra phương thức trích lập nguồn
tài chính cho quỹ bình ổn là thu 30% lợi nhuận trước thuế của xuất khẩu gạo như vậy là quá cao
do xuất khẩu gạo có lúc lời, hòa vốn thậm chí có lúc lỗ, nếu trích lập như vậy thì nhà xuất khẩu sẽ
không có đủ vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục, giảm năng lực cạnh
tranh và có thể nói đây là một chiến lược không hợp lý gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất
khẩu...Chính vì vậy, nhà nước cần có chính sách để khuyến khích tạo điều kiện tối đa cho doanh
nghiệp để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” phát triển.
3. Cơ hội bên ngoài: ( O – Opportunities )

Page 15



Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Thứ nhất, thị trường nước ngoài chưa bão hòa: sau khi trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO, chúng ta có cơ hội thâm nhập vào những thị trường tiềm năng mới,
hơn thế nữa chúng ta còn được hưởng những ưu đãi đặc biệt. Trong khi đó, thị trường nước ngoài
chưa bão hòa như vậy sẽ xuất hiện được những cơ hội mới để chúng ta có thể tiến hành đàm phán
và có thêm những hợp đồng xuất khẩu “gạo” mới.
Thứ hai, các rào cản thuế quan và phi thuế quan được phá vỡ nên cơ hội phát triển là rất
lớn:
Bộ Công thương đang tập trung tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường cho hàng hoá
xuất khẩu Việt Nam. Theo hướng này, Bộ Công Thương đang chủ trì tiến hành đàm phán về các
khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Ấn Độ...
nhằm dỡ bỏ các rào cản thuế, phi thuế quan giúp cho xuất khẩu “gạo” của Việt Nam có nhiều cơ
hội để phát triển và khả năng thâm nhập vào các thị trường này là rất lớn do giá thành sản xuất
gạo của chúng ta thấp có thể tạo ra được lợi thế cạnh tranh cũng như thu hút được sự quan tâm
của thị trường các nước này.
Thứ ba, cơ hội tiếp xúc, làm việc, học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ với các
nước phát triển như Mỹ, Nhật:
Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận, chuyển giao các
công nghệ tiên tiến trong việc chế biến gạo từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản. Những
công nghệ xử lý độ ẩm, xay xát, lau bóng xuất khẩu sẽ giúp giảm chi phí trung gian, giảm giá
thành gạo xuất khẩu, giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có cơ hội làm gia tăng giá trị của gạo
trước khi xuất khẩu, nâng cao giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thế giới.
Không những thế, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội ký thêm nhiều hợp đồng giao
thương với những nước phát triển về hệ thống logistics. Điều này giúp cho việc vận chuyển và
giao hàng phục vụ cho xuất khẩu “gạo” được diễn ra thuận tiện hơn, đúng thời hạn và giúp tiết
kiện được chi phí vận chuyển tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ tư, thu hút được sự đầu tư và quan tâm của các tổ chức ngân hàng lớn như WB: Việc

gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài
trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,... Những nguồn vốn này giúp cho các nhà
xuất khẩu Việt Nam có thể đầu tư những cơ sở chế biến gạo, thực hiện khép kín từ khâu thu mua
lúa đến các công đoạn sau, nâng cao chất lượng, giảm chi phí, tăng lợi thế cạnh tranh.
Page 16


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
4. Thách thức bên ngoài: ( T – Theats )
Thứ nhất, khủng hoảng tài chính toàn cầu: trong một số năm khó khăn cho sản xuất lương
thực, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, hầu hết các quốc gia trong tổ chức WTO
đều phải gánh chịu hậu quả. Khi đó các quốc gia có số lượng nhập khẩu lớn nhu cầu của họ cũng
giảm dần (ví dụ những năm 1999-2002 và hiện nay), thêm vào đó các đại gia xuất khẩu gạo như
Thái Lan, Ấn Độ vì muồn giữ thị phần, thương hiệu nên họ tiếp tục xuất khẩu với giá rẻ hơn từ đó
dẫn đến giá gạo xuống thấp, làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn, thua lỗ, giảm
năng lực cạnh tranh và hoạt động xuất khẩu bị trì trệ. Và một câu hỏi lớn cần đặt ra với chính phủ
cũng như những nhà xuất khẩu?
Thứ hai, do đồng Euro mất giá nên thách thức lớn đặt ra cho việc xuất khẩu qua các nước
châu Phi: Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có thêm nhiều thị trường xuất khẩu “gạo” mới như
Châu Phi. Nhưng theo Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), khó khăn nhất là việc xuất khẩu gạo
sang châu Phi, vì hầu hết doanh nghiệp (DN) thành viên của VFA xuất sang thị trường này thông
qua các công ty đa quốc gia có trụ sở đặt tại châu Âu. Trong khi đó, đồng Euro liên tục giảm so
với USD khiến đối tác nhập khẩu dè chừng, chờ giá xuống thấp mới giao dịch. Thật vậy, theo
thông tin ngày 25/05/2010 cho biết lượng gạo bán sang Nam Phi, Ucraina và các Tiểu vương
quốc Ả Rập Thống Nhất đều giảm 60% - 80%. “Do khoảng cách gần, tiết kiệm được phí vận
chuyển, nguồn gạo của Pakistan và Myanmar bán vào châu Phi rẻ hơn từ 15 đến 20 USD so với
gạo từ Việt Nam nên DN xuất khẩu gạo càng khó khăn hơn”. Và hậu quả của vấn đề này đó là
hiện nay lượng gạo còn trong kho của DN ước khoảng hơn 1,8 triệu tấn nên áp lực giải phóng kho
để chuẩn bị thu mua lúa vụ hè thu là rất lớn. VFA cũng đã ngừng phân bổ các hợp đồng thương

mại mà chỉ thực hiện các hợp đồng của chính phủ. Nguồn từ báo Đất Việt cho biết cuối tháng
04/2010, khi giá chỉ ở mức 6,6 triệu đồng một tấn (gạo 5% tấm) tương đương 350 USD một tấn,
nhiều DN đã phải mua gạo nguyên liệu với giá 5.500 - 5.700 đồng/kg, theo đúng mức giá lúa tối
thiểu 4.000 đồng/kg nên phải lưu kho chờ thị trường có cải thiện về giá xuất khẩu. Điều này làm
cho các doanh nghiệp tốn thêm chi phí lưu kho, khoản lỗ do chênh lệch giữa giá đầu vào và giá
đẩu ra quá thấp không đủ bù đắp lại chi phí phát sinh, hoạt động xuất khẩu bị gián đoạn. Đây
chính là thách thức lớn đòi hỏi các nhà xuất khẩu Việt Nam phải có biện pháp để hạn chế tối đa
rủi ro.

Page 17


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Thứ ba, xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới như myanmar, pakistan: Sau khi gia nhập
WTO, Việt Nam có những thuận lợi đó là có thêm thị trường nhập khẩu mới nhưng đồng thời
cũng có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh mới đó là phải đối đầu với 2 đối thủ cạnh tranh lớn đó là
Ấn Độ và Thái Lan. Theo diễn biến gạo thế giới năm 2009 thì nguồn cung của hai đại gia này
đang khá lớn trong khi cầu của một số nước nhập khẩu như Indonesia lại giảm do sản lượng tự
cung của họ lại tăng lên. Điều này dẫn đến, khi hai đại gia này bán ra thì chắc chắn giá gạo sẽ rẻ
gây khó khăn cho Việt Nam vấn đề cạnh tranh về giá, và khi đó chúng ta có hai lựa chọn nếu lưu
kho không bán vì giá thấp thì sẽ phải tăng thêm chi phí lưu kho, và trong thời gian sau giá vẫn
không tăng thì hậu quả thua lỗ sẽ rất lớn, nếu xuất khẩu luôn thì chắc chắn sẽ lỗ. Lúc này, xuất
khẩu gạo của Việt Nam rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan đây có thể là thách thức lớn đòi hỏi
các chuyên gia và nhà xuất nhập khẩu cần có biện pháp hợp lý để hạn chế mức rủi ro. Không chỉ
dừng lại ở đó, năm 2010 Việt Nam xuất hiện đối thủ canh tranh mới đó là myanmar. Năm 2009
nước này xuất khẩu 900.000 tấn gạo và kế hoạch năm 2010 tăng lên 1,5 triệu tấn. Điều đáng quan
tâm là giá gạo Myanmar chỉ khoảng 320-330 USD/tấn, thấp hơn 100 USD/tấn so với gạo VN.
Đây sẽ là đối thủ cạnh tranh chính của VN chứ không phải Thái Lan vì chủng loại gạo xuất khẩu
của Thái Lan chủ yếu là gạo thơm và gạo đồ, khác với VN. Đây là một thách thức lớn đối với

ngành xuất khẩu gạo Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp làm sao để sản xuất với giá
thành thấp nhất nâng cao vị thế cạnh tranh, giữ vững được thị phần.
Thứ tư, xu hướng bảo hộ mậu dịch có chiều hướng gia tăng: Do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu nên hầu hết các nước trong tổ chức WTO đang gia tăng xu hướng
bảo hộ mậu dịch tăng xuất khẩu và giảm xuất khẩu. Để đối phó, chính phủ nhiều nước phát triển
đã áp dụng một loạt chính sách mang tính bảo hộ như thuế quan, trợ giá và bảo lãnh tài chính, tạo
nên sự cạnh tranh không bình đẳng với những nước nghèo hơn trong đó có Việt Nam. Đây chính
là thách thức đối với ngành xuất khẩu “gạo” ở Việt Nam bởi vì với tình hình như thế này thì khi
xuất khẩu chúng ta sẽ phải chịu mức thuế cao, hơn thế nữa nguồn lực tài chính của chúng ta
không đủ để có thể cạnh tranh.
V. Những phương hướng giải pháp để phát triển ngành sản xuất và xuất khẩu gạo.
Sự gia nhập WTO có ảnh hưởng tích cực đến sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở nước ta là
tạo ra một không gian mới về thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam có ưu điểm là
năng động và thích ứng nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi nhưng cơ bản lại bị hạn chế về
Page 18


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
vốn, công nghệ, nguồn lực. Điều này dẫn đến thách thức lớn nhất là khả năng cạnh tranh khốc liệt
từ các mặt hàng nông sản trong nước và hàng ngoại nhập chất lượng cao. Vì vậy, nhằm thúc đẩy
sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trong thời kỳ mới, phương hướng chính không phải là phấn đấu
tăng diện tích, quy mô và số lượng gạo xuất khẩu mà cần tập trung đầu tư thâm canh và áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến chất lượng, tổ chức tốt các khâu thu mua và chế biến để
đảm bảo sức cạnh tranh và hiệu quả cũng như ổn định thị trường xuât khẩu gạo của Việt Nam. Có
các giải pháp sau:
1. Giải pháp xây dựng thương hiệu:
Việc gia nhập WTO tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận, chuyển giao
các công nghệ tiên tiến trong viêc chế biến gạo từ các nước phát triển. Qua đó doanh nghiệp cần
hoàn chỉnh hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thu hoạch, bảo quản và xay xát để tăng

giá trị của gạo trước khi xuất khẩu, nâng cao giá bán và sức cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Hiện nay kiến thức về luật kinh doanh của các công ty còn rất kém. Đó cũng là nguyên
nhân làm cho mặt hàng gạo xuất khẩu luôn thua thiệt trên thị trường quốc tế. Vì vậy Nhà nước
cần phải đảm bảo cho các doanh nghiệp hiểu được những cơ sở pháp lí trong hoạt động kinh
doanh.
2. Giải pháp liên kết trong sản xuất và xuất khẩu:
So với một số nước có thế mạnh về xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện tự nhiên khá là
thuận lợi; nhưng các nước này lại có lợi thế hơn Việt Nam ở trình độ khoa học công nghệ và kinh
nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Do đó ở Việt Nam không những phải liên kết giữa các chủ
thể trong nước mà còn cần phải mở rộng quan hệ quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Có các
giải pháp sau:
Từ lộ trình gia nhập vào WTO, cần tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế, các hiệp
định thương mại đa phương và song phương để tạo ra nhiều cơ hội khai thác các thị trường có
nhu cầu nhập khẩu gạo. Trước hết là mở cửa thị trường với các nước ở khu vực Châu Á, từ đó
tiến tới tự do hóa thị trường gạo trên phạm vi toàn cầu.
Một trong những nguyên nhân chính làm chậm quá trình hiện đại hóa công nghệ của
ngành chế biến lúa gạo là thiếu vốn đầu tư về cơ sở hạ tầng và tiến bộ khoa học kỹ thuật để
chuyên canh sản xuất lúa gạo. Do đó Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ thích hợp cho việc
Page 19


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
sản xuất, đặc biệt là hỗ trợ về vốn cho nông dân,cung cấp thiết bị kỹ thuật,tập huấn kỹ thuật,phát
triển hệ thống tưới tiêu,lai tạo nhiều giống mới năng suất,….
Đẩy mạnh sự liên kết giữa các chủ thể tham gia trong các công đoạn: nhà nước, nhà sản
xuất và nhà xuất khẩu.
Hợp nhất các cơ sở chế biến quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa sang mô hình
chế biến công nghệ hiện đại với quy mô lớn hơn.

Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu gạo.
Các doanh nghiệp trong ngành cần phải liên kết với nhau để tạo sức mạnh về vốn, nguồn
lực nhằm tạo khả năng cạnh tranh với các công ty nước ngoài
3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh:
Bước vào sân chơi chung của toàn cầu chúng ta gặp rất nhiều khó khăn về khả năng cạnh
tranh do chi phí sản xuất quá cao. Bên cạnh đó, nguồn lực bên trong của chúng ta đang còn yếu,
thiếu xót cả về nguồn lực, kỹ thuật, thông tin, tài chính cũng như sự quan tâm của chính phủ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh ngành xuất khẩu gạo ở Việt Nam, chúng ta cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ phận, ban nganh chức năng làm sao để có thể vừa sử dụng được hiệu quả những
lợi thế cũng như nắm bắt được những cơ hội mà WTO mang lại cho chúng ta.Có các giải pháp
sau:
Do thiết bị cảng lạc hậu, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí cảng cao…khiến cho chi phí vận
chuyển gạo ở nước ta vô cùng đắt đỏ.Nguyên nhân này làm cho giá thành sản phẩm cao, khó có
khả năng cạnh tranh với bảng giá của các nước xuất khẩu khác.Để hạn chế được thực trạng này
trong tương lai, Nhà nước cần phải đồng bộ hóa các cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ cho sản xuất
lúa gạo (thủy lợi hóa, điện khí hóa, nâng cấp các phương tiện vận tải,thông tin liên lạc…)
Đa dạng hóa trong sản xuất, đa dạng hóa các chủng loại gạo (gạo thông thường, gạo đặc
sản, gạo cao cấp…). Tuy nhiên việc đa dạng hóa phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế.
Về mẫu mã trên bao bì gạo xuất khẩu cần đáp ứng các yêu cầu sau: chất lượng bao bì
phải đều, miệng bao phải được đóng chắc chắn để khi vận chuyển khỏi bị vỡ và dễ bảo quản.
Hoàn thiện hệ thống quản lý về giống lúa theo hướng: rút ngắn thời gian từ khâu thử
nghiệm sang sản xuất đại trà mà vẫn giữ được độ an toàn.
Page 20


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Nhà nước cần phải có những chính sách giữ giá gạo bình ổn cũng như hỗ trợ hoạt động
sản xuất, kinh doanh xuất khẩu gạo, đặc biệt là trong những trường hợp tình hình thị trường thế

giới có nhiều bất ổn.
Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có nhiều
giải pháp thực hiện đồng thời, không chỉ là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để
giảm chi phí, mà còn phải mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hóa, đa phương
hóa, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị
trường…
Thực hiện song song đồng thời hai nhiệm vụ: nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu trên cơ
sở nâng cao giá gạo trên thị trường quốc tế.
Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là một ngành thâm dụng về lao động, do đó cần phải khai
thác và đầu tư có hiệu quả nguồn nhân lực về số lượng cũng như chất lượng.
Tích cực ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đa dạnh hóa các loại lúa gạo
phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng. Bổ sung và phát triển các tính năng mới cho sản phẩm
lúa gạo như: mùi thơm đặc trưng, có đặc tính tốt,…Để làm được điều này thì người nông dân cần
chủ động đề ra các phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do chính mình làm ra,thực hiện đúng
các quy trình kỹ thuật.
4. Giải pháp tăng trưởng đi đôi với bảo vệ môi trường:
Cần duy trì việc sử dụng phân hữu cơ như : phân chuồng, phân xanh…. Do đây là các loại
phân hữu cơ rẻ tiền, có tác dụng tốt với cây trồng và đất, lại có sẵn tại các vùng trồng lúa. Sử
dụng loại phân này là một phương pháp tận dụng có hiệu quả chất thải của ngành chăn nuôi, lại
có tác dụng bảo vệ môi trường.
Cần có những chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến
trước và sau thu hoạch, kể cả các yếu tố có liên quan như: môi trường, thuốc bảo vệ thực vật, bao
bì, điều kiện làm việc…

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Thương mại quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, chỉ
có tham gia thương mại quốc tế mỗi quốc gia mới tận dụng được tối đa các nguồn lực kinh tế một
Page 21



Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
các có hiệu quả,để đưa nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung ngày càng
phát triển. Đúng như một tác giả kinh tế đã nói: “ tham gia thương mại quốc tế, tất cả các bên đều
có lợi, ai khôn ngoan hơn thì lợi nhiều hơn, ai khờ dại hơn thì có lợi ít hơn, chỉ không tham gia thì
sẽ không có lợi gì cả”. Gia nhập WTO là một tất yếu trong quá trình hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam - một nền kinh tế còn non trẻ.
Mặc dù ngành sản xuất lúa gạo từ lâu là thế mạnh của chúng ta nhưng khi tham gia vào
một sân chơi lớn bên cạnh những thuận lợi để phát triển chúng ta không thể tránh khỏi những khó
khăn thách thức như sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ, chưa đồng bộ giữa vị thế và trình độ,
sản xuất còn nhỏ lẻ, chất lượng gạo chưa ổn định…
Qua phân tích cho thấy tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta sau khi gia nhập
WTO đã có những bước phát triển đáng kể, thị trường xuất khẩu được mở rộng theo hướng tăng
chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm và xóa dần sự bảo hộ của Nhà nước được thực hiện trên
phạm vi toàn ngành từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Nhiều loại gạo xuất khẩu của Việt Nam
đã đứng vững trên thị trường cũ và thâm nhập các thị trường mới. Nông nghiệp Việt Nam đã
mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại, đáp ứng tương đối đầy đủ
các yêu cầu của thị trường.
Ngành sản xuất lúa gạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản
xuất lúa gạo, chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Do sản xuất lúa gạo
là nguồn thu nhập và cung cấp lương thực chính của các hộ nông dân, nên chính sách phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn gắn liền với phát triển ngành hàng lúa gạo. Việc phân tích và
đánh giá thực trạng ngành sản xuất lúa gạo giúp cho chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm, phát
huy những cơ hội, những mặt mạnh, khắc phục những khó khăn thách thức để tình hình sản xuất
và xuất khẩu gạo ngày càng tốt hơn, hiệu quả ngày càng cao, phát triển ngày càng vững chắc và
hơn hết là đem lại một phần thu nhập đáng kể cho đại bộ phận nông dân ở nước ta.

II. Kiến nghị :


Page 22


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Tập trung cao độ nguồn lực của Nhà nước và nhân dân để phát triển mạnh sản xuất hàng
hoá chất lượng cao ở hai vùng trọng điểm lúa là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông
Hồng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu gạo.
Hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp theo hướng đất nào cây ấy, lấy giá trị thu
nhập trên 1 đơn vị diện tích làm mục tiêu.
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Theo hướng đó, từ nay đến năm
2010 cần ổn định diện tích canh tác lúa ở mức 4 triệu ha, gieo trồng 2 vụ/năm, bỏ lúa vụ 3 ở đồng
bằng sông Cửu Long.
Cần cải cách thủ tục hành chính, cải thiện các chính sách quản lý xuất nhập khẩu, tạo điều
kiện cho các công ty xuất khẩu trong việc tìm kiếm, thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hình thành tập đoàn xuất khẩu gạo. Mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng lâu dài,
bền vững bằng tăng sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả. Tăng cường hợp tác với các nước
xuất khẩu nông sản lớn, nhất là Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc trong các hoạt
động liên quan đến điều tiết thị trường nông sản thế giới với lộ trình hội nhập kinh tế theo cam
kết WTO.
Nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là điện, đường giao thông ở các vùng
sản xuất nông sản hàng hoá lớn, chất lượng cao với nguồn vốn của Nhà nước và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, hộ nông dân phù hợp với lộ trình gia nhập WTO và điều kiện Việt Nam.
Thu hút mạnh các dự án FDI vào sản xuất và chế biến nông - lâm - thuỷ sản bằng các cơ chế,
chính sách hấp dẫn.
Nghiên cứu cải tiến thêm nhiều giống lúa mới, giống lúa đặc sản với chất lượng cao, chi
phí thấp để giá thành sản phẩm đủ sức cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình và các sách tham khảo:
Hoàng Thị Chỉnh, Nguyễn Phú Tụ, Nguyễn Hữu Lộc (2008) Giáo Trình Kinh tế Quốc tế, Tái
bản lần 4, NXB Giáo Dục.
Page 23


Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành
thành viên chính thức của WTO
Hoàng thị Chỉnh và các tác giả (2008) Bài tập Kinh Tế Quốc Tế, NXB Thống Kê.
Khoa quốc tế học ĐH.Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội,Việt Nam và tiến trình gia nhập
WTO,NXB Thế giới-Đại học quốc gia Hà Nội
PGS.TS.Hoàng Đức Thân (2002) Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập NXBChính
trị quốc gia
2. Các website:
Cần nâng cao tính cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới
/>Chỉ số giá xuất khẩu nhập khẩu từ năm 1995 đến năm 2006;
/>Gia nhập WTO, cơ hội - thách thức và hành động của chúng ta;
/>Kịch bản gia nhập WTO - Huỳnh Thế Du;
/>Nâng chất lượng để tăng giá trị xuất khẩu cho hạt gạo Việt Nam;
/>Nông dân Việt Nam trong sân chơi WTO;
/>Sản lượng lúa mùa phân theo địa phương từ năm 2000-2006;
/>Xuất khẩu gạo năm 2007 : Mừng và lo;
/>Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO và dự báo năm 2008;
/>
Page 24



×