Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nhập siêu việt nam thực trạng – nguyên nhân – giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 58 trang )

Họ và tên: Bùi Thanh Tùng
Lớp:PT01-K35
MSSV:31091022431

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài: Nhập siêu Việt Nam: Thực trạng – Nguyên nhân – Giải pháp

GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hà Trân


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU---------------------------------------------------------------------------- v
 
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT --------------------------------------------------- 1
 
1.
  KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU TRONG NỀN KINH TẾ: ------------------- 1
 
1.1.
  Nhập siêu: ------------------------------ Error! Bookmark not defined.
 
1.2.
  Các khái niệm khác liên quan: ------- Error! Bookmark not defined.
 
2.
  CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHẬP SIÊU: -------------------------- 1
 
2.1.
  Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu khẩu: ------------------------ 1


 
2.2.
  Các yếu tố ảnh hưởng tới nhập siêu: -------------------------------------- 4
 
3.
  tác động của nhập siêu: ----------------------------------------------------------- 6
 
3.1.
  Tích cực: ---------------------------------------------------------------------- 6
 
3.2.
  Tiêu cực: ---------------------------------------------------------------------- 7
 
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ------- 9
 
1.
  THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU 1986-2005: ------------------------------------- 9
 
1.1.
  Xuất nhập khẩu giai đoạn từ 1986 đến 2005: ---------------------------- 9
 
1.2.
  Thực trạng nhập siêu giai đoạn 1986-2005: --------------------------- 17
 
1.3.
  Nguyên nhân gây ra nhập siêu trong giai đoạn 1986-2005: --------- 19
 
2.
  THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU TỪ NĂM 2006-2012: ---------------------- 19
 

2.1.
  Thực trạng xuất nhập khẩu từ năm 2006-2012: ----------------------- 20
 
3.
  ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NHẬP SIÊU TỪ 2006-NAY: ------------------ 34
 
3.1.
  Các nguyên nhân gây nhập siêu trong giai đoạn từ 2006 đến 3/201235
 
3.2.
  Quan điểm của Chính phủ về nhập siêu hiện nay: -------------------- 37
 
3.3.
  Các biện pháp đã được chính phủ thực hiện: -------------------------- 37
 
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP SIÊU TRONG CÁC NĂM 2013. 39
 
1.
  BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2013: ----------------------------- 39
 
2.
  BỐI CẢNH TRONG NƯỚC: ------------------------------------------------- 39
 
3.
  NHẬN ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG NĂM 2013: ------------------ 40
 
4.
  CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NHẬP SIÊU: -------------------------------- 41
 


i


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
4.1.
  Các chính sách dài hạn: --------------------------------------------------- 41
 
4.2.
  Giải pháp dài hạn: --------------------------------------------------------- 43
 
KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------------------ i
 

ii


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Mục lục biểu đồ
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam 1986-2005 (ĐVT: Triệu USD) ...... 11
 
Biểu đồ 3: Kim ngạch nhập khẩu 1986-2005 (ĐVT:triệu USD) ........................ 15
 
Biểu đồ 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu và nhập siêu trong giai đoạn 19862005(triệu USD) ................................................................................................. 19
 
Biểu đồ 6: 8 mặt hàng xuất khẩu trên 2 tỷ USD của năm 2007 và 2008 (ĐVT:tỷ
USD) ................................................................................................................... 22
 
Biểu đồ 9: Cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2012 ..................................................... 25
 
Biểu đồ 11: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn

1999 - 2010. ........................................................................................................ 29
 
Biểu đồ 13: Tình hình nhập siêu từ 2006 đến 2012(Đơn vị: tỷ USD) ................ 32
 

iii


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Trang này sao để trống vậy em?

iv


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất nhập khẩu Việt Nam từ trước đến nay đã trải qua hai giai đoạn chính, đó là
từ năm 1986- 2006 sau khi thực hiện cải cách đổi mới và từ năm 2007 đến nay khi mà
chúng ta mới gia nhập vào WTO.
Trong giai đoạn 1986-2005 đã có nhiều chiến lược cải cách kinh tế. Đại hội VI
của Đảng (12-1986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa ở nước ta, với việc đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước – từ đổi mới tư
duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, công tác hành chính. Việc đổi mới vào năm 1986
đánh dấu bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường va một loạt thay đổi khác về xã hội, chính trị và kinh tế ở Việt Nam. Đổi mới tư
duy “sản xuất kinh doanh cá thể” xem là khâu đột phá tổng thể của cả giai đoạn 1986
đến nay. “Khoán 100”, “khoán 10” trong nông nghiệp, áp dụng “cơ chế giá thị trường”
trong kinh tế hoặc “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế
giới” trong chính sách đối ngoại. Việt Nam đã từng bước thiết lập và mở rộng đáng kể
thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại theo phương châm đa phương hóa

quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong giai đoạn 2007 đến nay, bước ngoặt đó là vào ngày 7-11-2006, tại Giơne-vơ(Thụy Sĩ) đã diễn ra Lễ ký nghị định thư về việc Việt Nam chính thức gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đã mở rộng thị trường xuất khẩu của
Việt Nam , chúng ta có thể thấy điều này qua số liệu sau: trong 5 năm 2007-2011, kim
ngạch xuất khẩu nhìn chung, diễn biến theo xu hương năm sau cao hơn năm trước: năm
2006 đạt 39.8 tỉ USD tăng 22,7%; năm 2007 đạt 48,57 tỉ USD tăng 23%; năm 2008 đạt
62,7 tỉ USD tăng 29,5%; năm 2009 đạt 57 tỉ USD; năm 2010 đạt 71,6 tỉ USD, tăng
25,5%( gấp 3 lần mục tiêu đề ra) và năm 2011 đạt 85 ti USD, tăng 21% so với năm
2010. Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, vẫn còn những mặt hạn chế, đó là:
tính bền vững của tăng trưởng chưa cao, năng suất lao động còn thấp, chất lượng hàng
hóa và dịch vụ hạn chế, tính cạnh tranh còn thấp và quan trọng nhất đó là hiện tượng
nhập siêu. Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu hàng năm còn cao, năm 2009 là
10,12%, năm 2010 là 8,8%,năm 2011 là 11%.
Điểm chung nhất cho cả hai giai đoạn đó là tình trạng nhập siêu luôn ở mức cao.
Nhập siêu hiện nay đang là vấn đề bức bối trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Nhập
siêu cao có thể gây ra nhiều hệ lụy kinh tế, đặc biệt là tình trạng đình trệ sản xuất, các
doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng không bán được hàng, ngoài ra còn làm mất
cân đối cán cân thương mại, cán cân thanh toán tạo sức ép lên tỷ giá đồng tiền nước ta.
v


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nếu tình trạng này vẫn còn tiếp diễn thường xuyên và dai dẵng, sẽ gây ra hậu quả vô
cùng nghiêm trọng
Có nhiều ý kiến cho rằng nhập siêu là vì chúng ta mới mở cửa, đang ở giai đoạn
đầu của sự phát triển kinh tế, đang tích cực tham gia vào sự hội nhập của nền kinh tế
thế giới, vì thế nhập siêu là không đáng ngại, không có gì phải lo. Tuy nhiên, với hơn
20 năm phát triển, nhập siêu ngày càng trầm trọng, không có dấu hiệu khả quan nào
cho thấy Việt Nam có thể thoát khỏi tình trạng này trong một vài năm nữa. Điều này
chứng tỏ nhập siêu ở Việt Nam không bình thường, trái quy luật có thể dẫn đến mất

khả năng thanh toán cũng như kìm hãm sự tăng trưởng của GDP, ảnh hương tiêu cực
đến tăng trưởng của kinh tế.
Thông qua đề tài này, em hy vọng có thể giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về tình
hình nhập siêu ở Việt Nam, các nguyên nhân dẫn đến nhập siêu và cuối cùng là kiến
nghị giải pháp.
Trong quá trình thực tập tài Việt Nghiên Cứu Phát Triển ở Tp. Hồ Chí Minh,
vẫn đề nhập siêu đang là vấn đề mà các nghiên cứu viên vô cùng quan tâm, ở đây em
còn được tiếp cận với một số tài liệu quan trọng cũng như các số liệu liên quan đến vấn
đề này, vì vậy em xin chọn đề tài “Nhập siêu Việt Nam: Thực Trạng-Nguyên nhân –
Giải pháp”.
Bài nghiên cứu này tập trung vào tình hình xuất nhập khẩu của nước ta từ năm
2000 đến 10 tháng năm 2012 từ đó có thể bao quát được tình hình nhập siêu của nước
ta, các yếu tố nào ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu, phân tích đánh giá các chính sách
của chính phủ đưa ra để kiềm chế nhập siêu, và từ đó đưa ra giải pháp để kiềm chế
nhập siêu trong thời gian tới. Bài nghiên cứu gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về nhập siêu
Chương 2: Thực trạng nhập siêu Việt Nam từ 1986 đến 2012.
Chương 3: Giải pháp giảm nhập siêu trong năm 2013.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả. Các số liệu được thu thập
được từ nhiều nguồn như tổng cục thống kê, bộ công thương và bộ ngoại giao

vi


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Trang này sao để trống vậy em?

vii



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU TRONG NỀN KINH TẾ:
Để đánh giá cán cân xuất nhập khẩu của một quốc gia, người ta chỉ cần làm một
bài toán đơn giản: lấy tổng kim ngạch xuất khẩu trừ đi tổng kim ngạch nhập khẩu theo
công thức:
∆=X-M
Trong đó:
+ X là tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (Dầu thô, than đá, dệt may…);
+ M là tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (Hoá chất, phân bón, xe hơi, sắt
thép…)
Nếu hiệu số ∆ là một số dương, quốc gia được coi là xuất siêu. Nếu hiệu số là
âm thì quốc gia nhập siêu, còn nếu hiệu số bằng không thì cán cân ngoại thương là cân
bằng.
Như vậy nhập siêu là tình trạng một quốc gia có giá trị nhập khẩu nhiều hơn
giá trị xuất khẩu.
2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHẬP SIÊU:
Vì nhập siêu được tính bằng giá trị xuất khẩu trừ đi giá trị nhập khẩu nên các
nhân tố ảnh hưởng tới nhập khẩu và xuất khẩu cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng
tới nhập siêu.
2.1.

Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu:

2.1.1.
Tỷ giá hối đoái:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi thực hiện thanh toán giữa các
nước với nhau, cần thiết phải sử dụng đồng tiền nước này hay nước khác, nói chung là
phải sử dụng đến ngoại tệ cũng như các phương tiện có thể thay cho ngoại tệ.
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng tiền với nhau.

Hoặc người ta có thể nói tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể
hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ nước khác. Khi giá của đồng tiền một quốc gia tăng
lên thì giá cả của một hàng hóa nhập khẩu trở nên sẽ rẻ hơn trong khi giá hàng xuất
khẩu trở nên đắt hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá tăng sẽ gây thiệt cho
các nhà xuất khẩu và thuận lợi cho các nhà nhập khẩu, dẫn đến việc giảm xuất khẩu
ròng. Ngược lại, khi tỷ giá tăng lên, giá hàng xuất khẩu giảm xuống và giá hàng nhập
khẩu tăng lên, xuất khẩu sẽ gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
1


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

2.1.2.
Lạm phát:
Lạm phát tức là việc tăng giá của các hàng hóa ở trong nước. Khi một nước có
tỷ lệ lạm phát cao, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hóa
dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài trong khi hàng hóa dịch vụ nước
ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nước. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ
chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng. Tương tự vì
tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn, hoạt động xuất khẩu giảm.
2.1.3.
Chính sách bảo hộ mậu dịch quốc tế:
Chính sách bảo hộ mậu dịch quốc tế là chính sách mà Chính Phủ sử dụng để bảo
vệ nền sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu tăng cường xuất khẩu. Có rất nhiều
chính sách mậu dịch như: thuế quan, quota, bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu… nhưng
tiêu biểu nhất là thuế quan và quota
Thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng xuất khẩu hay nhập khẩu
của một quốc gia. Như vậy, thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế
đánh trên hàng hóa xuất khẩu. Trong đó, thuế nhập khẩu là quan trọng hơn và được áp

dụng phổ biến hơn trên thế giới. Ở nhiều nước trên thế giới không có thuế xuất khẩu,
nên khi nói thuế quan tức là đồng nhất với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, thuế xuất khẩu
vẫn được áp dụng ở các nước đang phát triên, đặc biệt đánh vào các sản phẩm truyền
thống nhằm thu được giá cao hơn và tăng lợi tức cho quốc gia. Trong khi đó, ở các
nước phát triển, họ đánh thuế nhập khẩu và áp dụng các hình thức khác để bảo vệ một
vài ngành trong nước, còn muốn nâng lợi tức quốc gia, tăng phúc lợi dân cư thì người
ta sử dụng nguồn thu chủ yếu từ những khoản thuế khác. Ngày nay, ở nhiều nước đang
phát triển thuế quan vẫn còn chiểm tỉ trọng rất cao trong phần thu ngân sách của Chính
phủ. Không những thế, thuế quan còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các
ngành công nghiệp non trẻ trong nước, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.1
Quota hay còn gọi là hạn ngạch bắt đầu được sử dụng nhiều từ sau chiến tranh
thế giới lần thứ 2. Đây là hình thức bảo hộ mậu dịch quan trọng. Quota ấn định mực
nhập khẩu hay xuất khẩu cao nhất của một sản phẩm trong một thời kỳ nhất định,
thông qua hình thức cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Giống thuế quan, hình thức chủ yếu
của quota là quota nhập khẩu. Quota nhập khẩu là một trong những biện pháp đầu tiên
được đề cập đến trong các cuộc đàm phán thương mại, nhất là khi cần thiết phải có một
1

Theo giáo trình Kinh Tế Quốc Tế Đại Học Kinh Tê Tp.Hồ Chí Minh

2


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
quyết định mà vãn đảm bảo tính hiệu quả. Việc vận dụng quota nhập khẩu cũng tương
đối đơn giản và dễ dàng hơn vì những quy định khá rõ ràng về lượng hàng và thời gian.
Hiện nay, với việc gia nhập WTO hay các tổ chức thương mại khác, các hình
thức đánh thuế NK, quota đã bị cấm sử dụng, vi vậy, các nước đã bắt đầu chuyển sang
sử dụng các biện pháp phi thuế quan như các hàng rào kĩ thuật, chông bán phá giá…
2.1.4.

Hệ thống pháp luật- các yếu tố chính trị trong nước và quốc tế:
Hoạt động thương mại diễn ra trên thị trong nước và quốc tế rất phức tạp. Hoạt
động này, có thể làm ảnh hưởng xấu đến quốc giavà củng có thể làm cho quốc gia giàu
có thêm. Nhưng bất kỳ một quốc gia nào củng phải đảm bảo lợi ích cho mình.Cho nên
phải có hệ thống luật pháp để điều chỉnh hoạt động này một cách có hiệu quả .
Hoạt động nhập khẩu củng vậy, điều bị chi phối bởi luật pháp quốc gia và quốc
tế. Luật pháp là công cụ không thể thiếu được của quốc gia .Hoạt động nhập khẩu nếu
như tác động xấu đến quốc gia, thì điều được các quốc gia nhất quán về hoạt động
này.Luật pháp có thể nghiêm cấm các loại hàng hoá mà ảnh hưởng xấu đến quốc
gia,khi các quốc gia xuất khẩu sang quốc gia mình.Luật pháp có thể điều chỉnh chủ thể
tham gia hoạt động nhập khẩu, nếu như các chủ thể không tuân thủ luật pháp của quốc
gia.
Bên cạnh đó luật pháp quốc tế còn tác động mạnh hơn luật pháp quốc gia.Luật
pháp quốc gia là những thông lệ tập quán chung hay những quy địnhmà các quốc gia
thống nhất trở thành những điều ước chung,buộc các quốc gia phải tuân thủ về mọi
hoạt động trong đó có hoạt động thưong mại .Hiện nay, có những điều ước có thể tạo
đà cho các quốc xúc tiến hoạt động nhập khẩu chẳng hạn như điều ước về hải phận….
Bên cạnh đó luật pháp quốc tế còn nghiêm cấm các quốc gia nhập khẩu những mặt
hàng có ảnh hưởng xấu tới cộng đông như thuốc phẹn, vủ khí hạt nhân…
Tuy nhiên, nhân tố chính trị tác động mạnh đến hoạt động nhập khẩu .Nếu như
một quốc gia tình hình chính trị không ổn định thì hoạtđộng nhập khẩu hạn chế vì các
nhà xuất khẩu sợ rủi ro.
Từ trên cho thấy luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế tác động mạnh mẽ đến
hoạt động nhập khẩu rất sâu sắc.
2.1.5.
Khủng hoảng kinh tế thế giới:
Đây có thể là một trong các yếu tố quan trọng nhất gây ra tình trạng nhập siêu ở
nước ta. Trong thời buổi thế giới ngày càng trở nên “phẳng” hơn, các quốc gia đều có

3



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
quan hệ với nhau. Khi một hay một số nền kinh tế bị khủng hoảng, ít nhiều sẽ ảnh
hưởng tới các nền kinh tế khác.
Trong quá khứ, nước ta đã chịu hai cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng đó
là khủng hoảng tài chính năm 1997 và khủng hoảng kinh tế năm 2008. Ở thời điểm
này, nhập siêu Viêt Nam luôn tăng cao.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nhập siêu:
Nhập siêu là hệ quả của xuất khẩu và nhập khẩu trong một giai đoạn nhất định,
vì vậy, ngoài các yếu tố tác động tới xuất nhập khẩu, nhập siêu còn chịu ảnh hưởng bởi
các yếu tố khác như sau:
2.2.1.
Chu kỳ kinh tế:
Tất cả các nền kinh tế trên thế giới đều hoạt động theo một trình tự, đó là suy
thoái, phục hồi và hưng thịnh, đây gọi là chu kỳ kinh tế. Chu kỳ kinh tế là những biến
động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau
và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, địa điểm
của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là lúc suy thoái sẽ khiến
cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái,
sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho
đến thị trường vốn… thu hẹp dẫn đễn những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội trong
đó có nhập siêu.
Ở những quốc gia đang trong quá trình hưng thịnh, sẽ thiên về xuất khẩu, cán
cân thương mại sẽ tăng lên, lý do là quốc gia này xuất khẩu nhiều sản phẩm hơn là
nhập khẩu. Ngược lại, với những quốc gia đang trong quá trình suy thoái và có khả
năng ở giai đoạn phục hồi, sẽ xuất hiện nhập siêu, lý do là vì trong giai đoạn này, sản
lượng của nền kinh tế bị giảm sút, thiếu nguyên nhiên liệu để sản xuất phải nhập khẩu
từ nước ngoài.
2.2.2.

Tỉ giá hối đoái:
Như đã nói ở trên, tỉ giá hối đoái là một trong những nhân tố có tầm ảnh hưởng
quan trọng tới xuất nhập khẩu của một quốc gia. Trong cơ chế tỷ giá thả nổi, một mặt
tỷ giá phụ thuộc vào cán cân thương mại trước đó (và các dòng ngoại tệ khác như vốn
đầu tư nước ngoài, các khoản vay và viện trợ nước ngoài, kiều hối, du lịch, các khoản
đầu tư/chuyển ra nước ngoài, sự thay đổi quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia) nhưng mặt
khác bản thân tỷ giá lại là yếu tố điều chỉnh cán cân thương mại trong tương lai trở về
trạng thái cân bằng trong mối quan hệ tổng thể với các dòng vốn khác. Giả sử ở một
thời điểm nào đó, nhu cầu nhập khẩu tăng cao khiến nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng
4


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
lên tương ứng. Nếu tỷ giá được thả nổi, giá ngoại tệ sẽ tăng một cách tương đối so với
giá bản tệ. Sự tăng giá ngoại tệ khiến cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ, đồng thời xuất
khẩu lại được lợi. Nhờ cơ chế này khiến cho nhu cầu nhập khẩu giảm, xuất khẩu được
lợi dẫn đến cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là không những nhập siêu giảm mà giá ngoại
tệ cũng giảm trở lại. Cả cán cân thương mại và tỷ giá trở về trạng thái cân bằng.
Có thể nói theo quan điểm truyền thống, tỷ giá là nguyên nhân chính của tình
trạng nhập siêu. Tuy nhiên, gần đây, rất nhiều các bài nghiên cứu của các học giả trên
thế giới đã chứng minh, thực chất, tỷ giá không có hoặc có rất ít mối liên hệ với thâm
hụt thương mại hay nhập siêu trong thực tế.
2.2.3.
Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm
Thâm hụt tài khoản vãng lai (chủ yếu là nhập siêu) theo một số nghiên cứu cũng
được xem là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước, bởi vì thâm hụt tài khoản
vãng lai và chênh lệch tiết kiệm - đầu tư (S-I) về nguyên tắc đều được bù đắp bằng
khoản vay nợ ròng trên thị trường vốn quốc tế. Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết
kiệm dẫn đến nhập siêu bởi các lý do như:
Thứ nhất, với mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư (investment-led growth) phổ

biến ở các nước đang phát triển thì để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra, đầu tư luôn ở
mức rất cao trong thời gian dài trong khi tiết kiệm nội địa tăng không đủ để đáp ứng
nhu cầu đầu tư.
Thứ hai, nhập siêu hay tiết kiệm thấp hơn đầu tư còn do hiệu quả kinh tế của các
khoản đầu tư đặc biệt là đầu tư công thấp thể hiện qua hệ số ICOR luôn ở mức cao.
Hiệu quả thấp ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiết kiệm và để duy trì tăng trưởng cao dựa
vào đầu tư đương nhiên quốc gia nhập siêu phải đi vay.
Thứ ba, một trong những nguyên nhân chính làm cho mức tiết kiệm trong nước
thấp là thâm hụt ngân sách cao và kéo dài nhiều năm. Thâm hụt ngân sách cao và kéo
dài không chỉ làm trầm trọng thêm vấn nạn nhập siêu mà còn làm tăng lạm phát kỳ
vọng, tác động xấu tới ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.
Ba nguyên nhân trên dẫn đến sự thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và lượng tiết
kiệm trong nước. Lượng thiếu hụt chủ yếu được bù đắp bằng dòng vốn từ bên ngoài
như FDI, ODA và vốn đầu tư gián tiếp. Khi những dòng vốn này được đưa vào một
nước thì chúng được đăng ký là nhập khẩu, vì thế làm gia tăng tình trạng nhập siêu.

5


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2.2.4.
Tác động của việc thay đổi thu nhập ở nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu:
Trong quan hệ mậu dịch giữa hai quốc gia, nêu một quốc gia có sự tăng lên về
tổng thu nhập, nhu cầu về nhập khẩu hàng hóa của nước đó sẽ tăng hơn. Các hàng hóa
này sẽ được xuất khẩu bởi các nước khác, từ đó sẽ làm tăng lên kim ngạch xuất khẩu ở
nước xuất khẩu. Ngược lại, nếu thu nhập của quốc gia đó bị giảm sút, xuất khẩu sang
các nước này cũng giảm, từ đó làm tăng nhập siêu ở nước xuất khẩu.
2.2.5.
Tác động của hiểm họa như sóng thần, động đất, lũ lụt:

Các hiểm họa, thiên tai là một phần của cuộc sống, đây là tác động của thiên
nhiên, con người không thể nào loại bỏ được tác động này. Sóng thân, động đất hay lũ
lụt xảy ra, sẽ làm đình trệ sản xuất của nước đó, ví dụ như thảm hóa kép ở Nhật Bản
năm 2011, đã làm cho các xí nghiệp sản xuất của quốc gia này ngưng sản xuất trong
một thời gian, từ đó sẽ làm giảm hụt mặt hàng xuất khẩu. Như vậy, tác động của thiên
tai sẽ làm cho sản xuất trong nước bị ngưng trệ, giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng kim
ngạch nhập khẩu, dẫn đến nhập siêu tăng.
3. TÁC ĐỘNG CỦA NHẬP SIÊU:
3.1. Tích cực:
Khi nói về nhập siêu, thông thường người ta chỉ cho rằng đây là hiện tượng
không tốt cho nền kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế nhận định rằng nhập siêu
cũng mang lại một số lợi ích.
Các nhà kinh tế này khẳng định nhập siêu dịch chuyển sản xuất của thế giới đến
những nơi có năng suất cao nhất, và nó cho phép quốc gia giữ mức tiêu dùng như cũ
trong khi vẫn gia tăng đầu tư trong suốt chu kỳ kinh tế. Theo quan điểm này, cán cân
thương mại bị thâm hụt dẫn đến nhập siêu khi những doanh nghiệp hay chính phủ của
một nước đầu tư nhiều vào nguồn vốn vật chất. Việc đầu tư này sẽ mở rộng cơ sở hạ
tầng, tăng thêm công suất khai thác nguồn lực tự nhiên và ứng dụng các công nghệ
mới. Lượng tiền cần cho đầu tư bị thiếu hụt được bù đắp bằng cách vay mượn trên thị
trường tài chính quốc tế. Như thế, việc vay mượn quốc tế sẽ giúp cho một quốc gia có
thể đầu tư thêm mà không gây ành hưởng đến lượng tiêu thụ hiện tại. Khi những khoản
vay mượn này được hoàn trả trong tương lai, cán cân thương mại sẽ được cải thiện và
tiến đến mức thặng dư. Như vậy, nhập siêu có thể là một dấu hiệu của một nền kinh tế
thịnh vượng đang trên đà phát triển.
Cụ thể, theo ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Bảo (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam), xét về mặt cân đối tổng thể của nền kinh tế, nhập siêu chính là một biểu hiện của
6


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

huy động nguồn lực bên ngoài vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tế phát triển
kinh tế quốc tế cho thấy các nước, nhất là các nước đang phát triển, trong thời kỳ đầu
phát triển đều phải huy động vốn đầu tư bên ngoài để hỗ trợ phát triển kinh tế trong
điều kiện nguồn vốn trong nước hạn chế.
Về trình độ phát triển của hàng hóa nhập khẩu, nhập siêu có thể là một kênh hỗ
trợ việc tạo năng lực mới và hiện đại hóa nền kinh tế. Để tạo ra sản phẩm có chất lượng
cao, có khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải được trang bị máy móc, thiết bị
phù hợp. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu phát triển, máy móc, thiết bị sản xuất trong nước
thường chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hóa có chất lượng, có khả năng cạnh
tranh. Nhập khẩu máy móc, thiết bị là cách thức giúp các doanh nghiệp có thể nhanh
chóng tạo dựng năng lực sản xuất hiện đại trong điều kiện trình độ công nghệ trong
nước chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc nhập khẩu các thiết bị dệt, may hiện đại và
công nghệ viễn thông là những ví dụ về tác động tích cực của nhập khẩu tới tạo ra năng
lực sản xuất mới, có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao.
Về đối tượng nhập khẩu, nhập siêu là hình thức thể hiện của quá trình hình
thành cơ sở sản xuất của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài là điều các nước đang phát triển thường thực hiện với mong
muốn có thêm nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, tiếp thu công nghệ hiện đại, kỹ năng
quản lý, tác phong công nghiệp và tiếp cận thị trường xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tăng mạnh và có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế nước ta trong
những năm qua.
Như vậy nhập siêu không phải lúc nào cũng xấu, vai trò của nhập siêu trong giai
đoạn tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam là
khá quan trọng.
3.2. Tiêu cực:
Nhập siêu ở một mức độ vừa phải sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên,
nếu nhập siêu lâu dài ở mức cao sẽ gây ra những hậu quả xấu.
Thứ nhất, nếu trong cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu, tỉ lệ hàng tiêu dùng chiếm
phần nhiều sẽ cho thấy tư tưởng thích tiêu dùng hàng “ ngoại” của người dân trong
nước. Thay vì tập trung nhập khẩu các loại máy móc trang thiết bị phuc vụ cho sản

xuất, việc nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng từ nước ngoài làm giảm lượng tiêu dùng
hàng hóa và dịch vụ nội đia, từ đó sẽ làm giảm GDP của quốc gia. Tâm lý sính hàng
ngoại sẽ đẩy các doanh nghiệp trong nước vào thế cạnh tranh gay gắt và khó khăn hơn,
đặc biệt là đối với doanh nghiệp ở các nước đang phát triển.
7


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Thứ hai, nhập siêu lâu dài sẽ làm cạn kiệt nguồn ngoại tệ dự trữ, khiến cho
chính phủ phải phát hành trái phiếu làm cho nợ công tăng cao. Trong một thời gian dài,
nhập siêu sẽ khiến con số nợ công của một nước ngày càng tăng vì suy cho cùng các
nước đều phải dựa vào xuất khẩu để trả nợ và lãi. Việc không có đủ ngoại tệ để chi trả
cho các khoản nhập khẩu của mình sẽ đẩy các quốc gia vào thế lệ thuộc và bị ảnh
hưởng nhiều hơn trong các quan hệ cả về kinh tế lẫn chính trị trên trường quốc tế.
Thứ ba, nhập siêu khiến cho nước ta phụ thuộc vào nguồn hàng hóa của nước
ngoài cũng như giá cả thế giới, khiến cho các doanh nghiệp trong nước luôn phải lo sợ
trước một cú shock nào đó, như khủng hoảng kinh tế.
Thứ tư, các chính sách tiền tệ của chính phủ sẽ mất hiệu lực, vì khi nhập siêu
quá lâu, khiến cho nguồn dự trữ ngoại tệ bị cạn kiệt, làm cho chính phủ không còn đủ
sức để điều chỉnh tỷ giá cũng như tỷ lệ lạm phát trong nước.
Thứ năm, nhập siêu gây bất ổn tới cán cân thanh toán tổng thể, tạo áp lực lên
cung cầu ngoại tệ và tỉ giá, đặc biệt là đối với các nước có cơ chế tỉ giá cố định.
Thứ sáu, nhập siêu làm công tác kiểm soát, dự báo tiền tệ, tín dụng gặp khó
khăn hơn. Nhập siêu làm giảm tài sản có nước ngoài ròng của Ngân hàng Nhà nước do
phải sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp trên thị trường ngoại tệ. Về lý thuyết, tổng
phương tiện thanh toán tăng lên do tài sản có nước ngoài ròng và/hoặc tài sản có trong
nước ròng của toàn bộ hệ thống ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, thực tế một số năm lại
không hoàn toàn diễn ra như vậy. Ví dụ,đối với nước ta, trong năm 2009, tổng phương
tiện thanh toán tăng 28%, nhưng tài sản có nước ngoài ròng của Ngân hàng Nhà nước
lại giảm 35%. Với những biến động trái chiều như vậy, việc dự báo tổng phương tiện

thanh toán từ tài sản có nước ngoài ròng sẽ khó khăn hơn.
Và cuối cùng nhập siêu gây biến động lớn trong chi tiêu ngoại tệ và cân đối vốn
của các ngân hàng thương mại.

8


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU TỪ NĂM 1986 ĐẾN 2012
Chương này sẽ được chia ra làm hai giai đoạn chính, đó là nhập siêu trong giai
đoạn từ 1986 đến hết năm 2005 là giai đoạn mà Việt Nam vừa mới cải cách nền kinh tế
trải qua 20 năm giai đoan phát triển và giai đoạn từ 2006 đến hết năm 2012 là giai đoạn
mà Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với thế giới.
1. THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU 1986-2005:
1.1.
Xuất nhập khẩu giai đoạn từ 1986 đến 2005:
Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự chuyển đổi
sâu sắc và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trước đây, ngoại
thương Việt Nam do Nhà Nước độc quyền quản lý và điều hành và chủ yếu được thực
hiện việc trao đổi hàng hóa theo nghị định thư giữa các Chính phủ do đó mà hoạt động
thương mại trở nên kém phát triển.
Bảng 1: Kim ngạch XNK của Việt Nam thời kỳ 1986 đến 2005

Năm
 

Tổng
KNXNK
 
(triệu

USD)
 

Mức tăng kim ngạch
XNK
 
Giá trị
(triệu
USD)
 

KNXK
 

Tốc độ
tăng(%)
 

Mức tăng giảm kim
ngạch XK
 
Giá
trị(triệu
USD)
 

KNNK
 

Tốc độ

tăng (%)
 

Mức tăng giảm kim
ngạch NK
 
Giá trị
(triệu
USD)
 

Tốc độ
tăng(%)
 

1986
 

2.944
 


 


 

789
 



 


 

2.155
 


 


 

1987
 

3.309
 

365
 

12,4
 

854
 


65
 

8,23
 

2.455
 

300
 

13,92
 

1988
 

3.795
 

486
 

14,68
 

1.038
 


184
 

2154
 

2.757
 

302
 

12,3
 

1989
 

4.512
 

717
 

18,89
 

1.946
 


908
 

87,47
 

2.566
 

-191
 

-6,92
 

1990
 

5.156
 

644
 

14,27
 

2.404
 


458
 

23,53
 

2.752
 

186
 

7,24
 

1991
 

4.425
 

-731
 

-14,17
 

2.087
 


-317
 

-13,18
 

2.338
 

-414
 

-15,04
 

1992
 

5.121
 

696
 

15,73
 

2.581
 


494
 

23,67
 

2.541
 

203
 

8,68
 

1993
 

6.909
 

1.788
 

34,91
 

2.985
 


404
 

15,65
 

3.924
 

1.383
 

54,42
 

1994
 

9.880
 

2.971
 

43
 

4.054
 


1.069
 

35,81
 

5.826
 

1.902
 

48,47
 

1995
 

13.604
 

3.724
 

37,69
 

5.449
 


1.395
 

34,41
 

8.155
 

2.329
 

39,97
 

1996
 

18.400
 

4.796
 

35,25
 

7.256
 


1.807
 

33,16
  11.144
 

2.989
 

36,65
 

1997
 

20.777
 

2.377
 

12,91
 

9.185
 

1.929
 


26,58
  11.592
 

448
 

4,02
 

1998
 

20.860
 

83
 

0,399
 

9.360
 

175
 

1,9

  11.500
 

-92
 

-0,79
 

9


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1999
 

23.283
 

2.423
 

11,61
  11.541
 

2.181
 

23,3

  11.742
 

242
 

2,104
 

2000
 

30.120
 

6.837
 

29,364
  14.483
 

2.942
 

25,49
  15.637
 

3.895

 

33,17
 

2001
 

31.247
 

1.127
 

3,74
  15.029
 

546
 

3,769
  16.218
 

581
 

3,7155
 


2002
 

36.451
 

5.204
 

16,654
  16.706
 

1.677
 

11,15
  19.745
 

3.527
 

21,74
 

2003
 


45.405
 

8.954
 

24,564
  20.149
 

3.443
 

20,6
  25.256
 

5.511
 

27,91
 

2004
 

58.458
 

13.053

 

28,747
  26.504
 

6.355
 

31,54
  31.954
 

6.698
 

26,52
 

2005
 

69.420
 

10.962
 

18,751
  32.442

 

5.938
 

22,4
  36.978
 

5.024
 

15,72
 

(nguồn: tổng cục thống kê)
Dựa vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy rằng, Kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng nhanh. Với kim ngạch năm 1986 là 2944 triệu USD năm 2005 đã
tăng lên gần 24 lần với. Sự chuyển đổi nền kinh tế đã thúc đẩy ngoại thương Việt Nam
phát triển mạnh mẽ cả về nhập khẩu và xuất khẩu. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng xuất
nhập khẩu không ổn định. Năm 1987, tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu 12,4%
nhưng đến năm 1991 lại bị giảm xuống -14,17% do sự sụp đổ của Liên Xô, còn trong
các năm 1996-1999 tốc độ tăng trưởng giảm sút là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ trong khu vực, nhưng bước sang năm 2000 tốc độ tăng trở lại. Mặc dù kim ngạch
xuất nhập khẩu của nước ta tăng không đều qua các năm song cũng thể hiện phần nào
sự phát triển kinh tế của nước ta.
1.1.1.
Xuất khẩu:
Bảng 2: Xuất khẩu và GDP
1986-1990

 

1991-1995
 

1996-2000
 

2001-2005
 

1.406
 

3.431
 

10.365
 

25.087
 

Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP
(%)
 

20,5
 


25,2
 

37,4
 

54
 

Xuất khẩu bình quân đầu người
(USD)
 

19,1
 

43,6
 

129,9
 

290
 


 

Xuất khẩu bình quân(triệu USD)
 


(nguồn: tổng cục thống kê)
Nghị quyết Đại hội Đảng đã được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách kinh tế vĩ
mô nhăm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu. Một trong những thành tựu quan trọng nhất
của chính sách đổi mới là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm thời kỳ
1986-2005 là 20,5% cao gấp gần 2 lần tăng trưởng GDP. Nếu xuất khẩu bình quân 1
năm ở giai đoạn trước đổi mới là 1,4 tỷ USD, thì giai đoạn 2001-2006 đã tăng lên 22,2
10


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
tỷ USD (gấp 16 lần). Với mục tiêu phát triển xuất khẩu cao làm động lực thúc đẩy tăng
trưởng GDP, tỷ trọng xuất khẩu chiếm trong GDP và xuất khẩu bình quân đầu người
ngày càng tăng thể hiện qua các thời kỳ từ 1986-2006.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam 1986-2005 (ĐVT: Triệu USD)

Kim
 ngach
 XNK
 
35000
 
30000
 
25000
 
20000
 
15000
 

10000
 

2005
 

2004
 

2003
 

2002
 

2001
 

2000
 

1999
 

1998
 

1997
 


1996
 

1995
 

1994
 

1993
 

1992
 

1991
 

1990
 

1989
 

1988
 

1987
 


0
 

1986
 

5000
 

(nguồn:tổng cục thống kê)

Xuất khẩu của Việt Nam vượt qua ngưỡng 10 tỷ USD vào năm 1999, trong khi
đó Hàn Quốc và Đài Loan vào năm 1978; Malaysia, Inđonexia và Thái Lan là Năm
1980. Hiện nay, trong khối ASEAN chúng ta đứng thứ 5, kim ngạch chiếm 0,5% so với
thế giới.
Những thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước cũng dần tao thế
chủ động trong điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Việc tham gia
trực tiếp của người sản xuất vào quá trình tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và
ngoài nước đã gắn bó chặt chẽ sản xuất với tiêu dùng, chất lượng sản phẩm nâng lên rõ
rệt, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
o Các mặt hàng xuất khẩu:
Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế biên sâu và tinh,
giảm tỷ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy hàng thô hay mới sơ chế còn khá cao
nhưng có thể nói xu hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến là rõ nét. Qua các giai đoạn
phát triển 5 năm: tỷ trọng hàng thô tăng lên vào giai đoạn 1990-1995 ở mức 74,6%,
phản ánh việc Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới với sức phát triển vô cùng
mạnh mẽ, các sản phẩm của chúng ta không đủ sức cạnh tranh, chỉ chủ yếu tập trung
11



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
vào cung cấp các nhu cầu về nguyên, nhiên vật liệu dạng thô của các nước trên thế
giới.
Tuy nhiên bước chuyển mình rõ nét vào các giai đoạn 5 năm sau đó, tỷ trọng so
với tổng kim ngạch xuất khẩu giảm xuống mức 54,8% ở 1996-2000 và giai đoạn 20012005 là 45,3%.
Bảng 3: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến.( ĐVT:%)
1986-1990

1991-1995

1996-2000

2001-2005

Tỷ trọng hàng thô hay mới sơ
chế

70,1

74,6

54,8

45,3

Tỷ trọng hàng chế biến hay tinh
chế

28,9


25,4

45,2

54,7

(nguồn: tổng cục thống kê)
Không những đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu còn
tạo ra những thay đổi quan trọng đối với sản xuất trong nước. Xem xét cơ cấu hàng
xuất khẩu theo phân ngành kinh tế quốc dân, có thể nhận thấy những kết quả thể hiện
định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế: trong tổng trị giá xuất khẩu, sản
phẩm nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất là giai đoạn đầu 1986-1990 là 35,7%
sau đó giảm liên tục vào dừng ở mức 15,3% ở thời kỳ 2001-2005, công nghiệp khai
thác tăng từ 16% ở 1986-1990 đến 33,1% giai đoạn 2001-2005, công nghiệp chế biến
giai đoạn hiện nay chiếm 40,4% tăng gần gấp 1.5 lần thời kỳ đâu 1986-1990. Điều
đáng chú ý là tốc độ tăng trường bình quân hàng năm từ 1986-2005, đứng đầu là nhóm
công nghiệp khai thác (29,4%), tiếp đến là sản phẩm công nghiệp chế biến (22,2%),
hàng thủy sản(19,1%). Đây là hướng đi đúng đắn, đặc biệt trong bối cảnh cần có những
hỗ trợ tích cực của sản xuất công nghiệp cho sản xuất nông, lâm, thủy sản, tạo đầu ra
cho sản phẩm, công ăn việc làm cho lực lượng lao động rất dồi dào của xã hội, tăng thu
nhập cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng xuất khẩu nào trên 200 triệu
USD thì đến nay con số này đã là xấp xỉ 15 mặt hàng. Trong đó có 4 mặt hàng vượt
qua mức 1 tỷ USD vào năm 2000 và đến 2005 có 7 mặt hàng là dầu thô, điện tử và linh
kiện điện tử, hàng may mặc, giày dép, thủy sản, gạo, và sản phẩm gỗ; riêng dầu thô
vượt mức 2 tỷ USD vào năm 1999, đến năm 2005 là 7.4 tỷ USD. Trị giá xuất khẩu của
7 mặt hàng này đã chiếm tới 68% tổng giá trị xuất khẩu năm 2005.

12



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Bảng 4: Tốc độ tăng (ĐVT:%) và trị giá bình quân các mặt hàng xuất khẩu
theo kế hoạch 5 năm
19861990
Dầu thô

Trị giá BQ
2001- năm(triệu
2005 USD)

19911995

19962000

17,1

27,7

16,1

2.216,4

Hàng dệt, may

31,2

28,6

17,4


20,7

1.391,8

Hàng thủy sản

35

21,1

18,9

13,1

951,7

Giày dép các loại

20,8

83,1

37,8

15,6

870,8

Gạo


93,6

11,7

4,7

16,1

574,7

12,6

775,9

Linh kiện điện tử và Tivi; máy
tính
Cà Phê

37,2

45,3

-3,5

8

337,1

Cao su


17,7

23,1

-2,4

37,1

191,1

42,9

13,5

24,6

124,5

-2

22,2

1,1

48,1

121,7

6,9


1,4

30,6

2

105

Hạt tiêu

32,4

23

30,2

0,6

62,1

Chè các loại

11,9

0,5

22,4

6,9


43

Lạc nhân

26,8

11,4

-10,1

-4,3

43,1

Thiếc

18,5

8,5

-3,4

-4,9

12,8

Quế

16,4


5

-5

7,4

5,9

Hạt điều nhân
Than đá
Rau quả tươi và chế biến

(nguồn: tổng cục thống kê)

13


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
o Các thị trường xuất khẩu chủ yếu
Biểu đồ 2: các thị trường xuất khẩu chủ yếu từ năm 2001-2005 (ĐVT:%)

1.42%
 
8.07%
 
Châu
 Á
 
Châu

 Âu
 

18.91%
 
50.90%
 

Châu
 Mỹ
 
Châu
 Phi
 
Châu
 Đại
 Dương
 

20.70%
 

Nguồn: Tính toán từ số liệu tổng cục thống kê
Thị trường xuất khẩu có thay đổi đáng kể: xuất khẩu sang Châu Âu giai đoạn
1986-1990 đứng đầu về tỷ trọng với 51,7%, giai đoạn 2001-2005 chỉ con 20,7%. Thay
vào đó tỷ trọng của Châu Á và Châu Mỹ tăng khá nhanh. Các thị trường xuất khẩu
quan trọng của Việt Nam theo thứ tự là: Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và
Australia. Xuất khẩu vào Mỹ tăng hơn 285 lần, vào EU tăng 6,3 lân. Đáng chú ý ở đây
là xuất khẩu sang thị trường Mỹ, có được kết quả này là nhờ Hiệp đinh thương mại
Việt Mỹ kí kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào cuối năm 2001.

Đinh hướng xuất khẩu của Việt Nam là đa dạng hóa thị trường, gia tăng xuất
khẩu sang các nước Châu Âu, Châu Mỹ và giảm xuất khẩu sang các nước Châu Á.
1.1.2.
Nhập khẩu:
Cùng với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, nhập khẩu với ý nghĩa là một trong
những nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng cũng tăng khá cao. Thời kỳ
1986-2000 tốc độ tăng bình quân là 15,5%. Tỷ lệ nhập khẩu/GDP trong 20 năm là
50,9%, trong đó thời kỳ 2001-2006 tỷ trọng lên tới 63,4%. Nhập khẩu của khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1994-2006 tăng bình quân 32,8% chiến tỷ trọng
27,7%, khu vực trong nước tăng 13,4% chiến tỷ trọng 72,3% tổng giá trị nhập khẩu

14


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Biểu đồ 3: Kim ngạch nhập khẩu 1986-2005 (ĐVT:triệu USD)
40000
 
35000
 
30000
 
25000
 
20000
 
15000
 
10000
 


2005
 

2004
 

2003
 

2002
 

2001
 

2000
 

1999
 

1998
 

1997
 

1996
 


1995
 

1994
 

1993
 

1992
 

1991
 

1990
 

1989
 

1988
 

1987
 

0
 


1986
 

5000
 

Nguồn: Tổng cục thống kê.
Những mặt tích cực của hoạt động nhập khẩu thời kỳ 1986-2005 thể hiện
trên một số nét:
Hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược phát triển xuất khẩu và đáp
ứng yêu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng trong nước
o

Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất,
giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng
Thị trường nhập khẩu mở rộng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng cao, góp
phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và quy trình sản xuất tiên tiến, nâng cao sức cạnh
tranh của hãng Việt Nam.
Chính sách và phương thức quản lý kinh tế mới đã làm thay đổi cách suy nghĩ
và điều hành hoạt động nhập khẩu. Trước đây, nhập khẩu của các đơn vị chuyên doanh
ngoại thương thực chất là đưa hàng về và phân phối cho người sử dụng theo kế hoạch
nhà nước mà không dựa trên yêu cầu sử dụng và tìm hiểu thị trường. Thời kỳ mở cửa,
công tác điều hành nhập khẩu của nhà nước đã dựa trên nhu cầu thực tế của sản xuất và
tiêu dùng trong nước.
Từ quan điểm đó, cơ cấu hàng nhập khẩu được kiểm soát theo hướng ưu tiên
phục vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.

15



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Bảng 5: Cơ cấu hàng nhập khẩu theo kế hoạch nhà nước (ĐVT:%)
19861990

19901995

19962000

20012005

I. Tư liệu sản xuất

87,3

85

91,1

96,6

-Máy móc thiết bị

33,3

25,4

29,8

28,5


-Nguyên nhiên vật
liệu

54,1

59,6

61,3

64,9

II. Vật phẩm tiêu
dùng

12,7

15

8,9

6,4


 
 

(nguồn: tổng cục thống kê)
Có thể thấy sự thay đổi cơ cấu hàng nhập khẩu, đặc biệt trong thời kỳ 19962005 theo hướng tăng tỷ trọng tư liệu sản xuất và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng
tiêu dùng ở mức 12,7% trong giai đoạn 1986-1990 xuống mực 8,9% giai đoạn 19962000 và trong giai đoạn 6,4% giai đoạn 2001-2005. Trong nhập khẩu tư liệu sản xuất,

máy móc thiết bị chiếm trên 30% và nguyên nhiên vật liệu là trên 70%. Nhằm đổi mới
trang thiết bị lạc hậu, nhà nưuóc chủ tưởng hạn chế nhập khẩu thiết bị cũ, mở rộng thị
trường sang các nước có trình độ kỹ thuật tiên tiến.
o Các mặt hàng nhập khẩu:
Biểu đồ 4: Trị giá bình quân 5 năm từ 1986-2005 (ĐVT: triệu USD)
Bông
 xơ
 
Thuốc
 trừ
 sâu
 
Tơ,
 xơ,
 sợi
 dêt
 các
 loai
 
Tân
 dược
 
Ô
 tô
 các
 loại
 
Xe
 máy
 

Chất
 dẻo
 
Phân
 bón
 
Vải
 
Sắt
 thép
 
Nguyên
 phụ
 liệu
 may
 
xăng
 dầu
 
0
 

200
 

400
 

600
 


800
  1000
  1200
  1400
  1600
 

Nguồn: tổng cục thống kê.

16


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
So với thời kỳ 1986-1995, mức độ nhập khẩu các nguyên liệu, hàng hóa chủ yếu
thời kỳ 1996-2005 ( khoảng 45-50% trị giá nhập khẩu) phần nào thể hiện sự phát triển
nhanh chóng của sản xuất và tiêu dùng xã hội. Với những hàng hóa thiết yếu phục vụ
nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, công nghiệp như xăng dầu, sắt thép, phân bón,
thuốc trừ sâu, nguyên liệu cho ngành dệt, may, nhìn chúng công tác điều hành đáp ứng
nhu cầu trong nước. Trong số các mặt hàng trên, tốc độ tăng cao nhất thuộc về ô tô, sắt
thép, vải, chất dẻo, xăng dâu..
o Các thị trường nhập khẩu:
Trong thời gian này, hàng hóa nước ta được nhập khẩu từ khoảng trên 200 nước.
So với thị trường nhập khẩu trước khi mở cửa, tỷ trọng nhập khẩu từ châu Á tăng
nhanh chóng, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc, các nước ASEAN luôn chiếm vị trí
quan trọng. Ngoài ý nghĩa mở rộng giao lưu buôn bán, cơ cấu thị trường phần nào cũng
thể hiện sự tính toán hiệu quả nhập khẩu phù hợp với đặc điểm tiêu dùng và khả năng
đầu tư, năng lực vận tải còn hạn chế của sản xuất và tiêu dùng nước ta.
Bảng 6: Nhập khẩu với các châu lục:
1986-1990


1990-1995 1996-2000

2001-2005

Tổng số (triệu USD)

12.685

22.784

61.613,5

130.151,3

Châu Á (triệu USD)

1.981,6

16.052,5

48.912,9

103.426,8

15,6

70.5

79,4


79,5

9.235,6

3.916

8.288,3

17.356,7

Tỷ trọng(%)

72,8

17,2

13,5

13,3

Châu Mỹ(triệu USD)

47,3

307,7

1.893,4

5.877,5


Tỷ trọng(%)

0,4

1,4

3,1

4,5

Châu Phi(triệu USD)

5,3

18,3

138,8

684,8

0

0,1

0,2

0,5

45,2


236,9

1.301,2

2.362,5

0,4

1

2,1

1,8

Tỷ trọng (%)
Châu Âu (triệu USD)

Tỷ trọng(%)
Đại Dương(triệu
USD)
Tỷ trọng(%)

(nguồn: tổng cục thống kê)
1.2.
Thực trạng nhập siêu giai đoạn 1986-2005:
Tỷ lệ nhập siêu trung bình trong 20 năm qua là 21,6%, nhưng đang theo xu
hướng tích cực qua từng giai đoạn. Tỷ lệ nhập siêu thời kỳ 2001-2005 ở mức 17,4%,
17



×