Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
MỞ ĐẦU
Thời cận đại là thời kì lịch sử gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản,cũngnhư sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân vào phương Đông.Việt Nam là
một quốc gia nằm trong khu vực châu Á có điều kiện hết sức thuận lợi, vì vậy đối
với Việt Nam nói riêng và các nước trong khu vực nói chung trở thành đối tượng
để cho các nước thực dân phương Tây nhòm ngó. Việc chủ nghĩa tư bản phát triển
đi kèm với nó là tìm kiếm thị trường và nguồn tài nguyên.Chính vì lẽ đó mà Việt
Nam trở thành miếng mồi ngon cho các nước thực dân, đặc biệt là thực dân Pháp.
Thực dân Pháp đặt chính sách cai trị nước ta làm cho mâu thuẫn của toàn thể dân
tộc ta trở nên gay gắt. Cũng đúng vào lúc đó chế độ phong kiến ở Việt Nam đang
bị khủng hoảng trầm trọng trên tất cả các lĩnh vực.Để giải quyết vấn đề đó nhiều
phong trào nổ ra nhằm chống lại chế độ phong kiến thối nát,cũng nhưách thống trị
hà khắc của thực dân Pháp.
Bằng nhiều con đường khác nhau, trải qua nhiều phong trào khác nhau, dưới sự
lãnh đạo của của nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, cùng với sự ủng hộ của
đông đảo quần chúng nhân dân thì đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời.
NỘI DUNG
1. Giải thích một số thuật ngữ, khái niệm
chủ nghĩa cộng sản (gốc tiếng Latin: commūnis - chung), là một cấu trúc kinh tế
xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập một xã hội phi nhà nước,
không giai cấp, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với
các phương tiện sản xuất và tài sản nói chung. Karl Marx cho rằng chủ nghĩa cộng
sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của xã hội loài người, đạt được qua một cuộc cách
mạng vô sản. "Chủ nghĩa cộng sản thuần túy" theo thuyết của Marx nói đến một xã
hội không có giai cấp, không có nhà nước và không có áp bức, mà trong đó các
quyết định về việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn
một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình
quyết định ở cả hai mặt chính trị và kinh tế. Việc sản xuất và phân phối của cải
được tiến hành công bằng giữa các công dân.
1
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Cách mạng vô sản là một cách mạng xã hội hoặc và chính trị mà theo đó giai cấp
công nhân tiến hành lật đổ tư bản. Cách mạng vô sản thường được những người
theochủ nghĩa xã hộivà chủ nghĩa cộng sản ủng hộ. Chủ nghĩa Marl cho rằng là
bước đầu tiên tiến đến loại bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Lênin cho
rằng để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, đảm bảo cho các dân tộc giành lại
được độc lập, thì phải thực hiện sự liên minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Ông khẳng định rằng, không
có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản,
rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc
trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản
được.Nguyễn Ái Quốc cho rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Bất bạo động là một triết lý hoặc chiến lược nhằm biến đổi xã hội mà không dùng
đến bạo lực. Do đó, đấu tranh bất bạo động là chấp nhận một cách thụ động sự đàn
áp của phía đối lập kể cả bằng vũ trang. Người tham gia đấu tranh bất bạo động có
thể dùng nhiều phương pháp khác nhau để thay đổi xã hội bao gồm nhiều dạng
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, bất phục tùng, hành động bất bạo động trực
tiếp và phát biểu trên thông tin đại chúng.
I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC KHI PHÁP XÂM LƯỢC
1. Tình hình thế giới.
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các nước đế quốc
không ngừng xâm lược khai thác thuộc địa, gây ra chiến tranh... Do đó đã làm xuất
hiện những mâu thuẩn cơ bản và gay gắt của thời đại như mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản với giai cấp công nhân, giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa...
Vấn đề thị trường, thuộc địa và tài nguyên trở nên bức thiết đối với nhiều nước đế
quốc. Các nước đế quốc luôn tìm cách xâm lược các nước thuộc địa nhằm độc
chiếm thị trường tài nguyên. Châu Á là một châu lục giàu tài nguyên, có thị trường
tiêu thụ rộng lớn, chính vì vậy Châu Á trở thành một miếng mối béo bở cho các
thực dân phương Tây xâm lược, Việt Nam là một trong những đích ngắm mà các
nước thực dân hướng tới.
2. Tình hình Việt Nam
2
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX thực sự là một quốc gia thống nhất với sự hoàn chỉnh
cương vực quốc gia, thống nhất thị trường, tiền tệ, có thể xây dựng kinh tế xã hội
mạnh mẽ, mở rộng những quan hệ giao thương quốc tế, canh tân đất nước vượt qua
sự can thiệp, xâm lược của các thế lực thực dân phương Tây...
Khác với các triều đại trước thường được thiết lập trên cơ sở thắng lợi của những
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi hoàn thành những nhiệm vụ
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, củng cố quốc gia... Còn triều Nguyễn,vương
triều cuối cùng lại được dựng lên bằng một cuộc nội chiến mà kẻ chiến thắng đã
dựa một phần vào thế lực ngoại bang, và như vậy về khách quan là đi ngược lại
nguyện vọng và quyền lợi dân tộc.
Chính vì thế, nhìn toàn diệnthì bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội thời nhà Nguyễn
là đa dạng, phức tạp, đôi khi như tự mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và bảo thủ, lạc hậu,
giữa cái mạnh và cái yếu...
Về tình hình kinh tế:
Kinh tế nông nghiệp vẫn dĩ nhiên được coi là nền tản. Về mặt ruộng đất, thực ra
sức ép dân số chưa lớn.Nhưng với sự thắng thế của giai cấp địa chủ cường hào,
ruộng tư ngày càng lấn ruộng công làng xã,khiến cho số dân mất đất phải đi lưu tán
ngày càng đông và trở thành một hiện tượng xã hội trầm trọng.Với chế độ phong
kiến, địa tô luôn là nguồn lợi hàng đầu của quốc gia.Chính sách địa tô của nhà
Nguyễn có lợi cho bọn địa chủ cường hào, ruộng công bị đánh thuế nặng, mất ý
nghĩa truyền thống loại ruộng đất này ở làng xã.
Nông nghiệp ngày càng suy thoái.Ruộng đất phần lớn tập trung vào tay quan lại,
địa chủ. Nông dân chỉ được phần đất nhỏ và xấu, năng suất thấp, đời sống do đó
rất khổ cực. Từng đoàn người phiêu tán, bỏ làng đi nơi khác kiếm sống. Những
người ở lại phải làm công cho địa chủ, hoặc nhận đất chịu tô cao, thuế nặng, phu
phen tạp dịch. Đó là chưa kể tới thiên tai, lũ lụt làm mất mùa.
Các ngành thủ công truyền thống trong nhân dân không có điều kiện phát triển.
Triều đình đề ra những luật lệ ngặt nghèo làm thui chột tài năng, sáng kiến của
người thợ, buộc phải đóng thuế bằng sản vật,.... Do đời sống nhân dân đói khổ nên
sức mua rất thấp, thị trường trong nước hầu như tê liệt, trong thị trường ngoài nước
bị ngăn cấm. Tình hình đó ảnh hưởng trầm trọng đến nội thương lẫn ngoại thương.
3
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Tương đối phát triển, nhà nước cho phép tư nhân đúc vàng bạc, trong số chủ khai
mỏ,thấp thoáng đã có tên người Việt.Nhưng về cơ bản, xu hướng độc quyền công
thương của nhà nước vẫn chế ngự, đại thương không thể phát triển được.
Thế kỉ XIX được coi là thế kỉ bản lề với xã hội châu Á.Lúc đó, trước áp lực của
chủ nghĩa thực dân phương Tây, việc mở cửa, khai phóng những nhân tố kinh tế tư
bản chủ nghĩa là con đường duy nhất đúng để tăng sức mạnh bảo vệ nền độc lập.
Hai ngành công và thương nghiệp cũng ngày càng thêm bế tắc. Các công trường
xây dựng, công trường sản xuất, cả những thợ giỏi ở các địa phương... đều do triều
đình nắm giữ, sử dụng vào việc xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm... làm
đồ dùng và đồ trang sức cho vua chúa. Triều đình giữ độc quyền khai mỏ trong cả
nước, khai thác theo lối thủ công nên năng suất thấp. Đối với một số mỏ cho Hoa
kiều hoặc người Việt khai thác thì đánh thuế sản vật rất nặng, lại còn độc quyền
thu mua các kim loại khai thác được theo giá ấn định.
Về tình hình chính trị- xã hội:
Về chính trị, dựa vào sự ủng hộ của tập đoàn địa chủ miền Nam và sự giúp đỡ quân
sự của tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn để lên ngôi hoàng đế với
niên hiệu Gia Long (1802).
Sau Nguyễn Ánh, các vua kế tiếp (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) ra sức xây
dựng và tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế, nhằm duy trì quyền thống trị lâu
dài của dòng họ. Mọi quyền hành đều tập trung vào tay vua, các quan lại chỉ thừa
hành lệnh vua. Nhà nước mang nặng tính bảo thủ, lo ngại đổi mới, đã gạt bỏ nhiều
đề nghị cải cách duy tân của một số quan lại, sĩ phu yêu nước tiến bộ.
Một chính quyền thống nhất trong cả nước, nhưng lại mang nặng tính quan liêu,
độc đoán, tham nhũng đè nặng lên đầu nhân dân. Năm 1815, bộ luật Gia Long mô
phỏng bộ luật phản động của phong kiến nhà Thanh ( Trung Quốc) được ban hành
đã đề cao tuyệt đối quyền thống trị của vua quan, bảo vệ quyền bóc lột của giai cấp
địa chủ phong kiến đối với nhân dân lao động.
Vua quan nhà Nguyễn từ đầu đã huy động công sức của nhân dân vào việc xây
dựng thành lũy kiên cố ở trung ương và các địa phương, đóng đô ở Phú Xuân
4
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
(Huế) là vùng đất cơ sở của dòng họ. Còn đối với nước ngoài thì đóng cửa, không
tiếp xúc với tư bản phương Tây, trong khi đó lại thần phục phong kiến nhà Thanh.
Các vua triều Nguyễn khi lên cầm quyền đều có ý thức nắm các hoạt động văn hóa
để tuyên truyền tư tưởng Nho giáo, trên cơ sở đó củng cố trật tự phong kiến, bảo
vệ chính quyền chuyên chế.
Kể từ năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, nhà Nguyễn đã đối lập gay gắt
với nhân dân. Triều Nguyễn thi hành nhiều chính sách bảo thủ và phản động trên
tất cả các mặt, càng làm cho mâu thuẫn xã hội thêm gay gắt, dẫn tới bùng nổ quyết
liệt.
Nhiều cuộc nổi dậy của nông dân và các tầng lớp nhân dân khác liên tục diễn ra
suốt các triều vua nhà Nguyễn. Chỉ trong khoảng mười năm từ khi Tự Đức lên
ngôi (1848) đến khi thực dân Pháp bắt đầu chiiesm Nam Kỳ (1859) đã có tới mười
cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyễn. Triều đình đã dập tắt phong trào đấu
tranh trong biển máu.
Rõ ràng, chính sách của triều Nguyễn đã làm cho nước, cho dân “sức mòn, lực
kiệt”, nội bộ chia rẽ sâu sắc, đặt dân tộc ta vào thế bất lợi trước cuộc xâm lược vũ
trang của Pháp.
3. Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển giao lưu, thông thương. Là
một nước nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, có vùng biển rộng, nơi các con
đường hàng hải quốc tế đi qua. Ở thế kỉ XVI,XVII các thương cảng của Việt Nam
phát triển mạnh mẽ như Hội An, các con phố nổi tiếng như phố Hiến...
Là nước giàu tài nguyên, khoáng sản (than, sắt, đồng…) và có nguồn nhân công
dồi dào.
Có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, có tinh thần đoàn kết, như Bác Hồ đã
từng khẳng định sau này: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là
truyền thống quý báu của dân tộc ta, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy
5
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
Sau khi xây dựng vương triều các vua nhà Nguyễn có rất nhiều cố gắng xây dựng
chính quyền, củng cố đất nước, triều Nguyễn có công trong hoàn thành công cuộc
thống nhất đất nước cả về mặt lãnh thổ, chủ quyền và chính trị, có nhiều điều kiện
để thuận lợi để phát triển đất nước.
b. Khó khăn:
Ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng là một thị trường rộng lớn để tiêu
thụ hàng hóa, nguồn nhân công rẻ mạt, nguyên liệu dồi dào: than, sắt,… nên Việt
Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân phương Tây là đối tượng của chủ nghĩa tư
bản đang trên đà phát triển.
Chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng suy
yếu nghiêm trọng, không có những biện pháp tích cực để phát triển canh tân đất
nước mà những biện pháp sai lầm trong vấn đề đối nội cũng như đối ngoại, không
có những chính sách để phát triển kinh tế mà còn bóp chết sự ra đời của nền sản
xuất mới, cũng như hạn chế phát triển ngoại thương, độc chiếm một số ngành quan
trọng.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn từ đầu đã mang nặng tính chất quan liêu, độc đoán
và sâu mọt. Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ
với một bộ máy chính trị lạc hậu, phản động. Mọi quyền hành điều tập trung vào
tay vua.
Lạc hậu do nhà nước thực hiện chính sách “ bế quan tỏa cảng”. Xu hướng độc
quyền công thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương
mại. Trong khi nông nghiệp đang lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thì
công nghiệp nằm trong tay bọn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày một bế tắc.
Chính sách “ Trọng nông ức thương” của triều đình đã kìm hãm thương nghiệp.Về
nội thương, một mặt chúng nắm độc quyền buôn bán nguyên liệu công nghiệp như
đồng, thiếc, chì, kẽm, nhất là lưu hoàng, điêm tiêu. Vì sợ nhân dân chế vũ khí
chống lại triều đình, hạn chế việc chuyên chở trao đổi giữa các vùng trong nước,
6
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
cấm nhân dân hợp chợ.Việc giao lưu giữa các địa phương vì vậy gặp rất nhiều khó
khăn, thị trường trong nước không tập trung và thống nhất.
Triều đình chỉ mở nhỏ giọt một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới buôn bán.
Chỉ được nhập vào những hàng hóa triều đình cần như sắt, chì, gang, lưu hoàng để
làm súng đạn, còn xuất cảng thì cấm tàu thuyền nước ngoài không được mua tơ
lụa, thóc gạo trong nhân dân. Tàu buôn nước ngoài tới buôn bán còn bị khám xét
rất kĩ để họ đánh thuế.
II. Quá trình xâm lược và chính sách cai trị của Pháp
1.Quá trình xâm lược
Ngày 31 tháng 8 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công vào biển Đà Nẵng mở
đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh ở Đà Nẵng nhưng vừa đổ bộ đã vấp phải sự kháng cự của quân đội triều
đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy kế hoạch thất bại.
Ngày 10 tháng 2 năm 1859 quân đội Pháp tập trung ở Vũng Tàu mở đường ngược
sông Cần Giờ, ngày 16 tháng 2 ngược sông Bến Nghé và đậu sát thành Gia Định
bắt đầu tấn công đến trưa thì chiếm được thành. Trước tình hình hình đó triều đình
cử Nguyễn Tri Phương từ Đà Nẵng vào chỉ huy mặt trận Gia Định.
Phía Pháp với với mục đích chiếm Gia Định sẽ chiếm cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì
nên Pháp đánh rộng ra nhiều nơi. Nhưng với lòng yêu nước nhiều cuộc đấu tranh
của nhân nổ ra làm địch lo sợ, trước tình hình đó tháng 6 năm 1862 triều đình Huế
kí hiệp ước ngày 5 tháng 6 cắt ba tỉnh miền Đông cùng những điều khoản nặng nề.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867 Pháp lấy cớ triều đình vi phạm hiệp ước chiếm nốt ba
tỉnh miền Tây.
Chớp thời cơ triều đình yêu cầu Pháp giải quyết vụ Đuypre kiếm cớ can thiệp vào
Bắc Kì. Từ năm 1873 đến năm 1874 nhiều cuộc xung đột thực dân Pháp và nhân
dân ta nhưng vì tính nhu nhược của triều đình một điều ước nữa được kí kết công
nhận cả miền Nam thuộc Pháp. Chưa hoàn thành mục đích chiếm toàn bộ Việt
Nam Pháp tấn công Hà Nội lần hai ngày 25 tháng 4 năm 1882. Nhiều cuộc tấn
công của Pháp, sự phản công yếu ớt của nhân dân ta và thương thuyết triều đình
Huế đã kí thêm hai bản hiệp ước liên tiếp là Hácmăng(1883) và Patơnốt(1884).
7
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Đến đây nhà nước phong kiến Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm
lược.
Năm 1885 với hi vọng khôi phục chủ quyền các quan lại Việt Nam tổ chức phong
trào kháng chiến Cần Vương. Hưởng ứng chiếu Cần Vương nhiều cuộc đấu tranh
diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại. Năm 1887, Pháp hoàn tất quá trình xâm lược
Việt Nam. Đến năm 1893 kiểm soát toàn quyền Đông Dương và mở rộng bao gồm
cả Ai Lào. Thất bại của phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX Pháp đã hoàn toàn
cai trị Việt Nam.
2. Chính sách cai trị
2.1 Về chính trị:
Chúng thực hiện chính sách cai trị mang tính chất vừa thống nhất vừa chia rẽ.
Dùng chính sách cai trị trực tiếp, duy trì bộ máy chính quyền phong kiến từ trung
ương xuống địa phương làm tay sai đắc lực cho chúng.
Chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau. Bên cạnh đó chúng còn
duy trì chế độ phong kiến làm chỗ dựa cho chúng để bóc lột nhân dân ta.
Chúng thực hiện chính sách ngoại giao, quân sự, nội trị, chính trị của triều đình
Huế, biến bộ máy triều đình thành bù nhìn, tay sai để dễ dàng thực hiện chính sách
bóc lột.
Ngoài việc chia cắt nước ta thành ba kỳ chúng còn dùng thủ đoạn chia rẽ dân tộc,
tôn giáo…nhằm phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc ta.
Bộ máy cai trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai chủ yếu dựa vào sức mạnh
quân sự, dùng vũ khí đàn áp cuộc đấu tranh đòi tự do, giành độc lập cho dân tộc ta.
Chính sách “hợp tác”, “Pháp-Việt đề huề” mà chúng ra sức tuyên truyền chỉ là
những trò bịp chính trị.
2.2 Về kinh tế:
Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân phản động và bảo thủ nhằm
biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa và cung cấp nguyên vật liệu
cho chúng.
8
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế trên tất cả các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, thương nghiệp.
Nông nghiệp: đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, ép triều đình Nguyễn nhượng
quyền khai khẩn đất hoang cho chúng. Ở Bắc kỳ, năm 1902 Pháp chiếm 182 nghìn
ha.Ở Nam kỳ giáo hội Pháp chiếm ruộng đất. Số liệu ruộng đất bị Pháp chiếm: cả
nước 10900 ha/năm, Bắc kỳ 470 ha, Nam kỳ 1528000 ha.
Công nghiệp: công nghiệp khai thác than, kim loại, một số ngành khác như xi
măng, điện nước. Tổng sản lượng khai thác ngày một nhiều.
Đặt ra nhiều thứ thuế vô lí (thuế thân, thuế chợ, thuế đò…) duy trì phương thức sản
xuất lạc hậu nhăm mục đích bóc lột tối đa, kìm hãm nền kinh tế nước ta trong vòng
lạc hậu.
2.3 Về văn hóa:
Thực dân Pháp thực hiện chính sách kìm hãm và nô dịch nhân dân ta về văn hoá
gây tâm lý tự ty vong bản, giam hãm và đầu độc nhân dân ta trong bề tăm tối, làm
cho nhân dân ta ngu để dễ bề cai trị để phục vụ cho chính sách thuộc địa của mình
mục đích của những chính sách đó là nhằm nô dịch tinh thần quần chúng, biến
quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của thực dân
Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc cắt đứt mọi truyền thống
tốt đẹp phục vụ trung thần cho quyền lợi của đế quốc.
Ngu dân về giáo dục và đầu độc về văn hóa là một trong những biện pháp hỗ trợ
đắt lực trong công cuộc khai thác ở Việt Nam. Ban đầu thực dân Pháp thực hiện
chính sách giáo dục chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thông dịch viên và những
người phục vụ trong bộ máy chính quyền thuộc địa, đồng thời từng bước truyền bá
chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán. Các trường học được
tổ chức với ba bậc: bậc ấu học ở xã, bậc tiểu học ở phủ huyện và bậc trung học ở
tình. Học sinh theo học trong hệ thống các bậc học này, ngoài việc được trang bị
các kiến thức khoa học phổ thông còn phải học tiếng Pháp. Các bậc học càng cao
thì môn học tiếng Pháp và các kiến thức văn hóa Pháp càng trở nên bắt buộc.Các
khoa thi hương, hội, đình vẫn được tổ chức như cũ.
9
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Sang đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp vừa ra sức xây dựng một nền giáo dục mới,
vừa tìm cách thủ tiêu nền giáo dục cũ.Hệ thống các trường tiểu học Pháp – Việt
được mở rộng nhằm thay thế dần nền Hán học. Các khoa thi hương ,hội, đình bị
bãi bỏ với mục đích chấm dứt vai trò của sĩ phu phong kiến…
Bên cạnh đó thực dân Pháp còn cho xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách
đầu độc trụy lạc hóa đối với người dân đặc biệt là thanh niên với mọi thủ đoạn,
những thói hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng khuyến khích
các tệ nạn xã hội, các nguồn văn hóa ngoại lai đồi trụy vào nhân dân Việt Nam.
Nạn cờ bạc được khuyến khích bằng cách cho mở các sòng bạc để thu thuế. Ngoài
những sòng bạc công khai có chính sách thường xuyên tổ chức qui mô ở chợ lớn,
Lạng sơn, Móng cái…còn có nhiều sòng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên,
ở những vòng đua ngựa ở Hà Nội, Hải Phòng...
-Tệ nạn uống rượu không bị hạn chế mà ngày càng tăng lên, nhiều đại lý được mở
ra cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện nhưng trong số
1000 làng thì chỉ có vỏn vẹn 10 trường học…Hàng năm người ta đã tặng từ 23 đến
24 triệu lít rượu cho 1200000 người bản sứ kể cả đàn bà và trẻ con.
Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân đặc biệt là
giới trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ti bán thuốc phiện một cách
công khai.
-Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các thành
phố lớn…ở nông thôn và miền núi các thủ tục ma chay cưới xin còn tồn tại, nạn
bối toán mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.
Thực dân Pháp đã lợi dụng vũ khí báo chí để tuyên truyền cho chính sách “khai
hóa” thống trị của chúng tại Việt Nam.Chúng đã cấp phép cho nhiều tờ báo được
xuất bản.Hàng loạt tờ báo được xuất bản bằng chữ Hán, Pháp, Quốc ngữ.Ngoài ra
chúng còn sử dụng sách báo để xuyên tạc và công kích cách mạng tháng mười Nga
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
-Ngăn chặn sự ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ vào Việt Nam kể cả văn hóa tiến bộ
Pháp.
3. Những hệ quả từ chính sách cai trị của thực dân Pháp
10
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
3.1. Về mặt tích cực:
Phương thức Tư Bản Chủ Nghĩa được du nhập vào Việt Nam. Xuất hiện các nhà
máy, xí nghiệp với quy mô nhỏ. Từ đó, xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới trong
xã hội: giai cấp công nhân, giai cấp tư sản. Để rồi sau này giai cấp công nhân dần
dần tiến bộ trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi sau
này.
3.2. Về mặt tiêu cực
Chính trị:
Những chính sách cai trị của Pháp đã làm sụp đổ nền kinh tế làng xã cổ truyền.
Phá vỡ chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở Việt Nam. Việt Nam ngày càng phụ
thuộc vào Pháp, trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Hơn nữa,
những tàn dư của xã hội cũ vẫn còn đã làm hạn chế sự phát triển của xã hội.
Kinh tế:
Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt.
Nông nghiệp ngày càng lạc hậu. Nông dân bị bốc lột tàn nhẫn, bị mất ruộng đất.
Công nghiệp phát triển nhỏ giọt (trong đó công nghiệp nặng không phát triển)
Văn hóa-Xã hội:
Xã hội bất ổn định .Các tệ nạn xã hội như: ma túy, cờ bạc, mại dâm…. và mê tín
dị đoan ngày càng gia tăng.
Xã hội phân hóa thành nhiều giai cấp, tầng lớp mới.
Giáo dục:
Tỉ lệ dân mù chữ ngày càng gia tăng .Các trường học mở ra thì ít mà chỉ nhằm
mục đích đào tạo tay sai, dạy tiếng Pháp. Đồng thời xóa bỏ nền văn hóa Nho học,
tiếng Hán ở Việt Nam.
III Con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam
11
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến việc xâm chiếm các nước Á, Phi, Mỹ
La Tinh làm thuộc địa. Công cuộc xâm lược này của chủ nghĩa thực dân đã hoàn
thành vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu 20 cũng từ đấy những phong trào yêu
nước chống thực dân giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa. Các dân tộc
thuộc địa đã trăn trở tìm con đường đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc
mình. Tùy theo những hoàn cảnh lịch sử, những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa
khác nhau... mà mỗi dân tộc có một con đường đi tới độc lập khác nhau.
1. Phong trào mang ý thức hệ phong kiến
1.1. Phong trào do giai cấp phong kiến lãnh đạo
Đối với triều đình nhà Nguyễn trong quá trình xâm lược của thực dân pháp. Đã có
những sự lựa chọn các xu hướng cứu nước khác nhau:
Khi Pháp đánh chiếm Đà Nẵng (1858-1859) với kế hoạch đánh chiếm Đà Nẵng
nhanh rồi làm bàn đạp, đánh kinh thành Huế buộc triều đình đầu hàng. Nhưng vừa
đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà quân Pháp đã vấp phải sức kháng cự của quân đội triều
đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy và có nhiều đội quân nông dân kéo tới phối
hợp với triều đình đánh giặc . Sau 5 tháng bị giam chân tại chỗ khó khăn lại chồng
chất khó khăn, liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút quân khỏi Đà Nẵng,xuống
tàu đi vào Nam, mở mặt trận mới ở Gia Định (2/1859). Kế hoạch" đánh nhanh
thắng nhanh" của địch tại Đà Nẵng bị thất bại.
Từ 1858-1884 về phía triều Đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp với pháp thông
qua việc ký kết các hiệp ước Hacmăng năm 1883 và Patơnốt năm 1884, đầu hàng
thực dân Pháp. Triều đình Huế ký ước với đối phương trong lúc thực dân Pháp hết
sức khó khăn, gây go. Điều đó cho thấy triều đình Huế nhân nhượng cho kẻ thù,
từng bước thỏa hiệp, nhân nhượng của triều đình Huế là sự phản bội tệ hại nhất của
triều đình Huế đối với nhân dân làm cho mâu thuẫn gây gắt giữa triều đình nhà
Nguyễn với nhân dân. Nhưng trước tình hình thực dân Pháp xâm lược, nhân dân
nhanh chóng gác lại mối thù giai cấp, cùng với bộ phận yêu nước thương dân
không chịu thỏa hiệp, đứng lên đấu tranh thực hiện nhiệm vụ dân tộc .
Ở các tỉnh phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi, tiêu biểu trận đánh 1861 của nghĩa
quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu Etperai trên Sông Nhật Tảo, nhiều trung tâm
kháng chiến hình thành, tiêu biểu là căn cứ Gò công Tân Hòa của Trương Định
12
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa của Phan Tam -Phan Ngũ với trung tâm Ba
Tri(Bến Tre) hoạt động mạnh , dọc theo sông Cửu Long.Cuối 1867 cuộc khởi
nghĩa Nguyễn Trung Trực, người anh hùng nông dân với chiến công Nhật
Tảo(10/12/1864) có căn cứ ở Hòn Chông, hoạt độnh mạnh ở Hà Tiên, Rạch Gía,
Phú Quốc (1867-1868) cuộc khởi nghĩa Long Trì (Mỹ Tho) 1875 của Nguyễn Hữu
Huân.
Phong trào chống Pháp của nhân dân miền Nam dấy lên từ Đông sau đó lan sang
toàn miền, khiến cho kẻ thù khiếp sợ, cuối cùng do triều Đình bỏ rơi, tìm cách
ngăn cản, thậm chí tiếp tay cho Pháp đàn áp phong trào. Các cuộc khởi nghĩa lần
lượt thất bại,nhưng phong trào chỉ tạm thời lắng xuống để đến khi thời cơ thuận lợi
sẽ bùng nổ trở lại đúng như lời Nguyễn Trung Trực đã tuyên bố trước kẻ thù" Bao
giờ người tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nam đánh Tây".
Không chỉ ở các tỉnh Nam Kỳ mà còn có ở các tỉnh Bắc Kỳ .Khi quân Pháp mở các
cuộc đánh chiếm các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Phủ Lý, Ninh Bình, đã gặp
phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà Nội và khắp nơi trên miền Bắc, nhân
dân Hà Nội đã đứng lên tự vệ võ trang, tiến hành những hoạt động đốt phá, những
đợt đột kích vào quân địch từ hai phía Gia Lâm và Hòa Đức, quân ta nhiều nơi ở
miền Bắc cũng đã nổi lên vây đánh địch như ở Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình,
tiêu biểu nhất trận Cầu Giấy.
Trong giai đoạn ở thời kỳ đầu,Triều đình nhà Ngyễn đã cùng nhân dân đứng lên
đấu tranh chống thực dân Pháp, nhưng khi phong trào nhân dân dâng cao triều đình
Nguyễn đã có những thỏa hiệp làm cho những người yêu nước và nhân dân cả
nước hết sức phẫn nộ, tuy nhiên khi có giặc ngoại xâm, nhân dân cũng đã tạm gác
lại mối thù giai cấp và cùng triều Nguyễn đứng lên đấu tranh chống thực dân xâm
lược để bảo vệ độc lập dân tộc.
Sau hiệp uước Hắcmang và Patơnốt. Ở triều đình phái chống Pháp do thượng thư
bộ binh Tôn Thất Thuyết đứng đầu ngày càng có hành động quyết liệt, như phế
truất các vua có xu hướng thân Pháp. Nhiều quan lại ở địa phương không chịu về
Huế theo lệnh triều đình mà ở lại mộ quân đánh giặc.
Trong giai đoạn này diễn ra sự phân hóa sâu sắc nhưng chưa phải phân hóa sâu sắc
tất cả giai cấp mà là tầng lớp sĩ phu phong kiến, trở thành tay sai chỗ dựa cho
Pháp. Tuy nhiên vẫn còn bộ phận khác yêu nước thương dân đứng về giai cấp nhân
13
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
dân, bộ phận này trở thành lực lượng lãnh đạo giải phóng dân tộc. Phong trào
chống Pháp giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX vẫn chưa thoát khỏi chế độ phong
kiến.
Trước sự thất bại ở hoàng thành, Tôn Thất Thuyết cùng một số văn thân, xung
quanh xa giá Hàm Nghi. Việc xuất bôn của Hàm Nghi để phát động lên phong trào
chống Pháp. Năm 1885 không có nơi nào là không có những cuộc nổi dậy của
nông dân do văn thân sĩ phu lãnh đạo hưởng ứng.
Tiêu biểu Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết lãnh đạo. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tôn Thất
thuyết chủ chiến đánh Đồn Mang Cá, sau khi bị thất thủ ông đưa vua Hàm Nghi
vào Quảng Trị ra chiếu Cần Vương (3/7/1885)kêu gọi văn thân sĩ phu yêu nước
đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hưởng ứng lời kêu gọi của phong trào Cần
Vương đã có những cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để hưởng ứng, phong trào này có các
cuộc khởi nghĩa như: Khởi nghĩa Phùng Hùng Lĩnh diễn ra ở Thanh Hóa,khởi
nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo diễn ra ở
Thanh Hóa, khởi nghĩa Bãy Sậy 91883-1892)do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo,
diễn ra ở tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình....
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành được lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
1.2.Phong trào nông dân:
Bên cạnh phong trào văn thân, sĩ phu kháng chiến chống Pháp, hưởng ứng chiếu
Cần Vương (1885-1896).Còn có phong trào nhân dân tự động nhằm đánh đuổi giặc
ngoại xâm, bảo vệ quyền lợi thiết thân trước mắt: giữ đất, giữ làng, giữ bản, giữ
rẫy...phong trào nổ ra khắp nơi trong nước, lan dần theo bước chân xâm lược của
thực dân Pháp, từ đồng bằng lên trung du, rồi thượng du. Phong trào nhân dân tự
động chống Pháp diễn ra cùng lúc phong trào Cần Vương. Tiêu biểu nhất là phong
trào của nông dân Yên Thế (Bắc Giang) với lãnh tụ là Hoàng Hoa Thám. Là phong
trào đấu tranh lớn nhất trong toàn bộ phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống
thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ngoài phong trào của nông dân
Yên Thế còn có phong trào nhân dân các vùng thượng du Bắc Kỳ .
14
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Tiếp đó cuối 1895 sang 1896 sau khở nghĩa Hưng Khê bị dập tắt phong trào miền
núi tan rã thì có thể nói về cơ bản đã kết thúc thời kỳ khởi nghĩa vũ trang chống
xâm lượt quyết liệt của nhân dân ta.
Vai trò của giai cấp nông dân đối với tiến trình cách mạng :
Cuộc đấu tranh giữ nước của nhân dân Việt Nam không lúc nào ngừng,khí thế
chiến đấu chống giặc,giữ nước được duy trì từ khi Pháp-Tây Ban Nha nổ súng
đánh Đà Nẵng cho đến khi nhà Nguyễn từ bỏ chiến đấu ký các điều ước đầu hàng
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược ở Đà Nẵng, nhân dân Đà Nẵng và
Quảng Nam đã hăng hái theo lời kêu gọi của quân đội triều đình tham gia chiến
đấu và phục vụ chiến đấu, thành lập những đội dân binh, đóng góp của cải, nhân
lực cho cuộc chiến chống xâm lược
Ở những vùng lân cận những thanh niên trai tráng tự nguyện lên đường vào quân
thứ đánh giặc.Một số quan lại trong cả nước cũng tình nguyện ra chiến trường.Đốc
học Nam Định,thiến sĩ phạm văn Nghị cũng đem 300 quân vào Nam đánh giặc
Khi Pháp xâm lược Gia Định, lập tức nhân dân trong vùng liền gia nhập các đội
dân anh dũng, chiến đấu bảo vệ quê hương , trận đánh chùa, chợ rẫy (2/7/1860)do
Đinh Bình Tâm chỉ huy, có tới hai nghìn dân anh dũng tham gia chiến đấu.
Tất cả với tinh thần giữ nước ,người dân đã tham gia chống giặc bằng mọi hình
thức, tù tòng quân, đào hào, đắp lũy,đóng góp tiền gạo,đánh địch bằng nhiều thứ vũ
khí.
Không chỉ là lực lượng tham gia mà còn nắm ngọn cờ lãnh đạo (khởi nghĩa Yên
Thế)
Mang ý thức hệ phong kiến, không có tư tưởng tiến bộ hơn, sau khi giành thắng lợi
họ vẫn đi vào con đường phong kiến hóa, họ không đại diện cho một phương thức
sản xuất nào mà họ đi theo chế độ phong kiến trong một thời gian mang bản chất
tư hữu và trở thành cố hữu. Các triều đại mà nông dân thành lập cũng đi theo vết
xe đổ của các triều đại phong kiến trước.
Ngọn cờ nông dân không thể đem lại thắng lợi và đưa đất nước thoát khỏi ách
thống trị.
15
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Vai trò của văn thân sĩ phu:
Tầng lớp văn thân sĩ phu cuối thế kỷ XIX là tầng lớp tiến bộ nhất đóng vai trò lãnh
đạo mà không phải tầng lớp nào khác.
Họ là những người hiểu biết có trình độ trong xã hội tri thức,có lòng trung thành
với giang sơn,đất nước,luôn đứng về phía nhân dân,đấu tranh giành độc lập cho đất
nước.
Là tầng lớp tập hợp quần chúng đấu tranh chống thực dân
=> Tất cả những phong trào chống Pháp trong những năm cuối thế kỷ XIX đều lần
lượt thất bại,là do điều kiện khách quan và chủ quan lúc bấy giờ có lợi cho phong
trào.Tuy nhiên,các phong trào đã nêu cao truyền thống yêu nước,tinh thần đấu
tranh bất khuất,bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc.Các phong trào yêu nước và
phong trào trước đó đồng thời chứng minh sự bất lực của ngọn cờ phong kiến.Yêu
cầu của lịch sử lúc bấy giờ cần phải có con đường,khuynh hướng mới để đưa
phong trào đấu tranh giải phong dân tộc đi lên và đến thắng lợi.
2.Phong
trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
Vào cuối thế kỷ XIX nhất là đầu thế kỷ XX, những phong trào dân tộc và cải cách
dân chủ theo khuynh hướng tư sản trở thành trào lưu phổ biến và nổi bật ở nhiều
nước Châu Á.Có thể kể đến phong trào Duy Tân ở Nhật Bản,cuộc vận động Duy
Tân và cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, cải cách Rama V ở Xiêm,phong trào
''Lương Tri Xã" ở Inđônêxia, tổ chức "Đồng Minh Hội " ở Singapo " Hội Liên
Hiệp Phật giáo"ở Mianma, phong trào "Thổ Nhĩ Kỳ trẻ" ở Thổ Nhĩ Kỳ...
Ở nước ta có sự chuyển biến về kinh tế - xã hội do tác động của chính sách đầu
tư,khai thác thuộc địa của Pháp,ngoài ra còn do quá trình giao lưu buôn bán và
giao thông thông tin ngày càng tân tiến .quan trọng hơn hết là với những biến
chuyển của xã hội Việt Nam,đã tạo điều kiện tiếp thu những luồng tư tưởng mới
của các cuộc cách mạng tư sản từ ngoài vào,đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản
Pháp 1789 phong trào Duy Tân ở Nhật 1868 và cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung
Quốc.
Đi tiên phong trong việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng mới-dân chủ -tư sản-là
những sĩ phu yêu nước. Với hai gương mặt tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan
16
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Châu Trinh. Họ được sự ủng hộ của giới công thương, của những nhà tư sản và
tầng lớp tiểu tư sản mới nảy sinh trong các đô thị, cùng toàn thể đồng bào yêu
nước.
Gắn với tư tưởng - chính trị mới là những biện pháp, hình thức đấu tranh và tổ
chức mới, thuộc phạm trù tư sản,ngoài hình thức bạo động vũ trang, còn sử dụng
cả hình thức đấu tranh chính trị, tư tưởng, văn hóa, ngoại giao ....trên quy mô toàn
quốc.Thành lập những hội yêu nước, mở trường học,sản xuất sách báo. Động lực
cách mạng được mở rộng, không chỉ có giai cấp nông dân, mà cả những lực lượng
xã hội và giai cấp mới ra đời như tiểu tư sản,tư sản, giai cấp công nhân.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các nhà yêu nước của ta tiếp nhận với luồng văn
hóa dân chủ tư sản. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng tư tưởng của Khang Hữu Vy và
Lương Khả Siêu v.v…,cách mạng Minh Trị ở Nhật Bản.
2.1.Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu đại diện:
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Phan Bội Châu, ông chủ trương dựa vào Nhật
để đánh Pháp, ông cho rằng nước Nhật là đồng văn đồng chủng với ta.
Phan Bội Châu sinh năm 1867 quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An một vùng đất có
truyền thống đấu tranh chống Pháp. Phan Bội Châu chủ trương dùng bạo động
cách mạng để đánh đuổi thực dân Pháp để khôi phục độc lập dân tộc và tích cực
chuẩn bị cho công cuộc bạo động.
Ban đầu khi thực dân pháp đánh chiếm Bắc kỳ ông đã cùng bạn học ở quê lập
"đội thiếu sinh quân" viết bài hịch "Bình Tây Thu Bắc"để kêu gọi quần chúng
hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, nhưng ông nhận thấy phải có
danh vọng mới tập hợp được dân chúng đứng lên đánh giặc. Năm 1890 ông thi đỗ
thủ khoa kỳ thi hương ở Nghệ An.
* Hoạt động:
23/2/1905 Phan Bội Châu cùng người hướng đạo là Tăng Bạc Hổ xuất dương cầu
viện, kể từ chuyến đi đó ta thấy rằng sau khi đàm đạo với Lương Khả Siêu bằng
17
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
bút pháp, ông nhận ra rằng muốn giải phóng dân tộc trước tiên phải thực hiện ba
nhiệm vụ:
+ làm cho con người Việt Nam hiểu biết trách nhiệm của mình(vấn đề dân trí)
+Khôi phục tinh thần yêu nước, ý chí dân tộc (chấn hưng khí)
+Muốn làm cách mạng, cứu nước phải có nhân tài,muốn có nhân tài thì phải đào
tạo
Khi cách mạng Trung Quốc thành công nước Trung Hoa ra đời sẽ giúp chính
quốc một tay,Phan Bội Châu nhận thức được vấn đề đó và cho rằng Lương Khả
Siêu nói đúng,nhưng lỡ sang đay rồi thì dù sao cũng phải gặp được chính sách
Nhật Bản.Khuyến Dưỡng Nghị,Trọng Tín, Đại Bá Tước,Trọng tín sau khi nghe
Phan Bội Châu trình bày,hai người đồng ý giúp đỡ tổ chức hội Duy Tân,tuy nhiên
chỉ giúp đỡ đào tạo nhân tài, không lấy tư cách chính phủ giúp đỡ mà lấy tư cách
cá nhân để giúp đỡ. Khi tổ cức Duy Tân cầu viện: vũ khí, lương thực, phương tiện,
con người, nhưng Nhật Bản chỉ đào tạo người. Phan Bội Châu đồng ý và Nhật Bản
mở Chấn Võ Học Liệu à Đông Á Đồng Văn Thư Viện.
Lấy tư cách cá nhân giúp đỡ chính là giả tâm của Tư Bản chủ nghĩa
Năm 1908 Pháp phát hiện có tổ chức Duy Tân trên đất Nhật Bản,Pháp can
thiệp với chính phủ Nhật Bản, trục xuất tổ chức này và trục xuất Phan Bội Châu,
Cường Để, Pháp đã thỏa hiệp với Nhật Bản một số quyền lợi Nhật Bản đã biến
Phan Bội Châu và Cường Để thành món hàng trao đổi.
Phong trào Đông du thất bại sau khi tồn tại bốn năm. Tuy thất bại nhưng nó là
cơ sở cho các phong trào, tổ chức nối tiếp phát triển về sau, Phan Bội Châu mở
mang tầm mắt.
Sau khi phong trào Đông Du thất bại ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tân Hợi
ở Trung Quốc ông thành lập Việt Nam Quang Phục Hội(1912).
2.2.Xu hướng bất bạo động của Phan Châu Trinh:
Xu hướng bất bạo động: người đứng đầu Duy Tân dùng phương pháp ôn hòa thực
hiện cải cách để mở đường tiến lên mà không cầu viện nước ngoài, hô hào vận
động, đề ra cải cách mà không sử dụng bạo lực.
18
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Phan Châu Trinh 1872 ở Tây Lộc Tiên Phước phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam, hiệu
Tây Hồ. Tuổi nhỏ Phan Chu Trinh thông minh, năm 1900 đỗ cử nhân, năm 1901
đỗ phó bảng, năm 1902 làm quan dưới triều Nguyễn, giữ chức bộ lễ.Trong thời
gian làm quan ngắn ngủi, ông thấy sự thối nát của triều đình nhà Nguyễn. Phan
Châu Trinh từ chức về làng ông tiếp xúc những người yêu nước, dốc lòng cứu
nước.
Sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân,Phan Châu Trinh từ quan (1904) rồi làm cuộc
Nam Du, Bắc Du với tình hình xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng hướng.Sau
đó ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu,trao đổi ý kiến
rồi sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây(trong số đó có Lương
Khả Siêu)và xem xét công cuộc Duy Tân ở xứ sở này. Từ đó ông thấy được rằng
muốn cứu nước nhà, phải đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc
nâng cao dân trí và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.
Phong trào Duy Tân còn gọi là Minh Xã (hội ngoài ánh sáng) vì hoạt động công
khai,theo đường lối dân chủ, chủ trương "ý Pháp tự cường"(dựa vào Pháp để giàu
mạnh). Còn Duy Tân Hội do Phan Bội Châu sáng lập còn gọi là Ám Xã (xã hội
trong bóng tối) vì hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "Bài
Pháp giành độc lập".
Tuy nhiên, hai khuynh hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một
cách tuyệt đối, mà đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
+ hoạt động:
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức
thư chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu
cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi
chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Liền theo đó, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan
Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Khoáng,Trần Qúy Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và
các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ
là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Để hưởng ứng cuộc vận động ở miền Trung Việt Nam giới sĩ phu và dân chúng
hưởng ứng đông đảo, nên ngày càng phát triển mạnh.Bởi vậy, chính quyền thực
19
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
dân và phong kiến tìm mọi cách ngăn cấm. Như việc tổng đốc Quảng Nam là Hồ
Đắc Trung cấm không cho dân chúng tụ tập nghe diễn thuyết, Đặng Nguyên
Cẩn đang là đốc học Hà Tĩnh bị đổi vào Bình Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức
Kế bị bắt vì ám sát Cao Ngọc Lễ vu cho tội mưu loạn, Lê Đình Cẩn bị công
sứ Quảng Ngãi xét hỏi nhiều lần...Phong trào bị đàn áp và giải tán.
Ngoài ra còn có phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ, do các lãnh đạo chủ chốt
của phong trào kháng thuế cũng đồng thời tham gia phong trào Duy Tân như Trần
Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan...lãnh đạo.
Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã
khẳng định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến trình
độ giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt.
Bên cạnh đó, qua phong trào còn cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến
bộ...
+Đánh giá: tóm lại các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và
dân chủ tư sản cuối cùng đều thất bại.Điều đó chứng tỏ cách mạng Việt Nam đứng
trước sự khủng hoảng đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo yêu cầu cần phải có
đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhâ dân ta, bồi đắp thêm
cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là
thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới,
một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu
mới của nhân dân Việt Nam.
3.Phong trào tư sản và tiểu tư sản
Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp
trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc
quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi
thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư
sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi
kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số
quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản
thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa
20
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều
nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan
hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée),
Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào
đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu
(1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước
Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản
Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi
những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều
kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu
hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (nhưNam Đồng thư xã), có bộ phận
chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và
hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là
Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu
và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư
sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ
quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế
quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một
đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ
trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có
một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm
mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội.Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong
trào yêu nước.Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất.Trong tình thế hết
sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận
chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với
cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một số địa phương như Thái
Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng
ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài
họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế".Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng
21
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa
Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những
hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc
của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt
Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ
lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước,
nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con
đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và
nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
3. Phong trào vô sản
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp công
nhân Việt Nam vẫn hết sức thấp kém.Cuộc khai thác thuộc địa lần hai chỉ chú ý mở
rộng vốn và quy mô sản xuất, nhưng không tăng cường các phương tiện máy móc
và không cải thiện các điều kiện làm việc cho công nhân, nhất là các đồn điền và
hầm mỏ rất thấp kém.Thêm vào đó, thời gian làm việc càng kéo dài từ 9 đến 10 giờ
trong một ngày. Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của công nhân trong
năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ.Công nhân không được hưởng bất kì
một chế độ bảo hiểm thân thể nào.Tiền lương của công nhân rất thấp. Chẳng hạn,
lương công nhật của công nhân dệt ở Nam Định từ 0,25 đến 0,35 đồng ; ở mỏ than
Hồng Gai từ 0,30 đến 0,40 đồng. Bình quân thu nhập hàng tháng của một công
nhân là khoảng 10 đồng. Trong khi đó, lương tháng của một công chức (thư kí, kế
toán) từ 30 đến 40 đồng. Ngoài đồng lương rẻ mạt, điều kiện làm việc cực khổ,
công nhân còn bị đánh đập, ngược đãi như nô lệ.Tình hình đó dẫn tới cuộc sống
cùng quẫn, thậm chí dẫn đến cái chết của nhiều công nhân. Chính cảnh sống cùng
cực ấy đã thúc đẩy công nhân hăng hái đứng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột và
cường quyền.
3.1.Phong trào 1919-1925
Phong trào công nhân giai đoạn này đã có thêm những điều kiện mới. Về số lượng,
đội ngũ công nhân được bổ sung thêm hơn 12 vạn người. Về chất lượng, sau chiến
22
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
tranh nhiều thủy thủ, línhthợ được hồi hương; trong hành trang nghèo khó của
mình mang về nước có cả những hiểu biết mới, tư tưởng mới và cả những kinh
nghiệm tổ chức và đấu tranh của giai cấp công nhân châu Âu.Trong khi đó, cuộc
sống của họ càng trở nên cùng quẫn.Những điều kiện đó đã thôi thúc họ đứng dậy
đấu tranh. Những hình thức đấu tranh thấp như: bỏ việc, phá giao kèo vẫn được
tiếp tục, nhưng công nhân cũng đã sử dụng thường xuyên hơn hình thức đấu tranh
đặc thù là bãi công. Theo thống kê của chính quyền thực dân, từ 1920-1925 đã nổ
ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu có những sự kiện sau :
- Năm 1919 nổ ra cuộc bãi công của thủy thủ tàu Sácnô đang đậu ở cảng Hải
Phòng đòi tăng lương và phản đối việc đưa lính Việt Nam sang đàn áp nhân dân
Xyri.
- Năm 1920, hơn 200 thủy thủ của 5 chiếc tàu Pháp đang buông neo ở cảng Sài
Gòn đã bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ.
- Năm 1921, Liên đoàn công nhân tàu biển Viễn Đông được thành lập và tổ chức
được nhiều cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Công nhân Việt Nam làm
việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập tổ chức này. Họ đã góp phần đưa đón
cán bộ, tài liệu cách mạng từ nước ngoài về nước.
Từ năm 1922, phong trào công nhân có bước phát triển mới. Trước hết là cuộc đấu
tranh của 600 công nhân nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn. Nét mới ở cuộc đấu tranh này
là sự tập hợp đông đảo thợ nhuộm của nhiều cơ sở nhuộm trên đất Sài Gòn - Chợ
Lớn. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cuộc bãi công đó như là "dấu hiệu của
thời đại mới". Tiếp đó, 3 cuộc đấu tranh của công nhân 3 nhà máy dệt trên 3 địa
bàn khác nhau là Hải Dương, Hà Nội và Nam Định, ở những thời điểm khác nhau,
nhưng cùng theo đuổi một mục đích: đòi tống cổ tên đốc công tàn ác. Tiêu biểu
nhất cho phong trào công nhân giai đoạn này là cuộc bãi công của 1000 công nhân
xưởng Ba Son (Sài Gòn) tháng 8-1925. Cuộc bãi công này gắn liền với sự tổ chức
và lãnh đạo của Công hội do Tôn Đức Thắng thành lập. Mục đích cuộc bãi công
này của công nhân Ba Son là làm chậm việc sửa chữa chiếc tàu Misơlê (Michelet)
mà thực dân Pháp dùng chở lính sang đàn áp phong trào cách mạng Trung Quốc.
Ngày 4-8-1925, cuộc bãi công nổ ra với yêu sách "tăng 20% lương, đưa số thợ bị
đuổi trở lại làm việc và giữ lệ nghỉ 30 phút vào ngày lãnh lương".Để đảm bảo
thắng lợi, ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân, viên chức trong thành
phố ủng hộ vật chất và tinh thần cho công nhân Ba Son.Sau 8 ngày đấu tranh, cuộc
bãi công đã giành được thắng lợi.Ngày 12-8 công nhân trở lại làm việc, nhưng tiếp
lục lãn công làm chậm việc sửa chữa tàu Misơlê đến tháng 1 1-1925 mới xong.
23
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Như vậy, cuộc bãi công Ba Son tháng 8-1925 là cuộc đấu tranh đầu tiên có tổ chức
và lãnh đạo.Hơn thế nữa, cuộc đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn
nhằm vào mục đích chính trị thể hiện tình đoàn kết vô sản quốc tế của công nhân
Việt Nam. Với tính chất đó, cuộc bãi công Ba Son vạch một mốc lớn trong phong
trào công nhân Việt Nam - giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh
có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng.
Nhận xét về con đường cứu nước giai đoạn 1919-1925
Hình thức đấu tranh:chủ yếu là phá máy móc, đánh chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn
tập thể.
Mục tiêu đấu tranh chủ yếu là đòi quyền lợi kinh tế như đòi tăng lương, giảm giờ
làm, chống đánh đập, cúp phạt
Quy mô: nhỏ bé, lẻ tẻ, rời rạc.
Tính chất:tự phát và phụ thuộc vào phong trào yêu nước.
Phong trào công nhân (1919 -1925) đã có bước phát triển mới so với trước
đây.Cong nhân đã tiến lên sử dụng hình thức đấu tranh đặc trưng là bãi công.
Thêm nữa, từ phong trào đấu tranh, những tổ chức chính trị đầu tiên đại diện cho
quyền lợi của giai cấp công nhân Việt Nam đã xuất hiện như công hội đỏ (1920),
một công nhân gia nhập liên đoàn công nhân tàu biển Viễn Đông (1921).
Tuy nhiên, phong trào công nhân giai đoạn này vẫn còn những hạn chế về mục
đích các cuộc đấu tranh mới chỉ tập trung vào các nôi dung kinh tế.Về quy mô,
phong trào bị bó hẹp trong các hàng rào của một nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, diễn
ra lẻ tẻ. Về tổ chức chỉ có duy nhất 1/25 cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra là có
sự lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ (Cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son 8/1925)
3.2. Giai đoạn 1925_1930
Từ năm 1925 trở đi, nhờ sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của tổ chức cách
mạng HVNCMTN, các tư tưởng của cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa
cộng sản đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân lao động. Nhờ
vậy, phong trào công nhân ngày càng phát triển và chuyển biến nhanh chóng về
chất.Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi.Trong hai năm 19261927 đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là bãi công của công
nhân Bưu điện Sài Gòn, công nhân dệt Nam Định, công nhân đồn điền Cam Tiêm
(1926); đấu tranh của công nhân đồn điền ở Đà Lạt, ở Thái Nguyên (1927)… các
cuộc đấu tranh này đều nhằm vào hai mục tiêu chung là đòi tăng lương từ 20%40% và đòi thực hiện ngày làm 8 giờ như công nhân bên Pháp. Điều này chứng tỏ
công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu cầu và lợi ích cục
24
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
bộ, địa phương mà đã biết chú ý đến lợi ích chung của giai cấp, bằng cách đề ra
các yêu sách phù hợp về cơ bản với nguyện vọng của đông đảo công nhân.
Nhận xét
Hình thức đấu tranh: bãi công được sử dụng phổ biến.
Mục tiêu đấu tranh: không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế mà còn nhằm cả mục
đích chính trị (mục tiêu kinh tế chống lại các chính sách áp bức bóc lột của bọn tư
bản và chính quyền thực dân phong kiến)
Quy mô: liên tục, rộng khắp, có sự lãnh đạo, chỉ huy và phối hợp đấu tranh, tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân. Mức độ đấu tranh sôi nổi, quyết liệt hơn, tính tự phát
trong đấu tranh giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ
chức với quy mô ngày càng lớn.
Tính chất: mang tính tự giác cao
Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp còn có nhiều
hoạt động biểu lộ tinh thần cách mạng, ý chí quốc tế của mình.Trong các dịp kỉ
niệm ngày Quốc tế lao động ( 1-5-1929) và Cách mạng tháng Mười Nga (7-111929), công nhân nhiều nơi đã tổ chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên
truyền cách mạng.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút, lôi
cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân, đi vào cuộc
đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
Tư tưởng Mác – Lênin được truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, với
chủ trương “vô sản hóa”, những người cộng sản thâm nhập vào đời sống công
nhân tại các khu hầm mỏ, đồn điền trong những năm 1925, đã có tác động mạnh
đến tư tưởng của giai cấp công nhân, làm cho họ tin theo chủ nghĩa Mác, tin vào
đường lối cứu nước vô sản.
Trong giai đoạn này giai cấp công nhân đã trưởng thành về mặt số lượng và chất
lượng, với tác động của cuộc khai thác thuộc địa, số lượng công nhân trong công
nghiệp tăng lên đáng kể.
Giai đoạn trước các cuộc đấu tranh thường nổ ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ hẹp thì nay các
cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra một cách liên tục và có quy mô lớn,
phong trào đã vượt ra khỏi phạm vi một nhà máy xí nghiệp để hình thành thế liên
kết ngành, liên kết địa phương. Theo đó, sức mạnh của phong trào công nhân đã
tăng lên gấp bội.
Giai đoạn này tất cả các cuộc đấu tranh của công nhân điều được đặt dưới sự lãnh
đạo của các tổ chức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam như Công hội
25