Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.21 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta đã chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội; phân phối lợi ích công
bằng. ...”. Sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề đang được Chính phủ, Ngân hàng
và các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đánh dấu một bước ngoặt đổi mới chính
sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và sản xuất kinh doanh nói riêng.
Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng
cùng với nó, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Trong cuộc cạnh tranh này DNNN có những vị thế bất lợi đó là thiếu vốn, bộ
máy chậm thích ứng với sự biến đổi của thị trường, lắm tầng nấc trung gian, và
nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần lớn đội ngũ cán bộ rất thụ động.
DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong quá
trình hội nhập. Tuy nhiên hiện nay các DNNN đang phải đối đầu với nhiều vấn
đề nan giải, trong đó vốn và hiệu quả sử dụng vốn luôn là bài toán hóc búa với
hầu hết các DNNN.
Vậy vốn được đưa vào sử dụng như thế nào?. Đó là câu hỏi không chỉ các
DNNN quan tâm, mà là vấn đề bức thiết với hầu hết các doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế thị trường. Do đó đi tìm lời giải về vốn và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cho khu vực DNNN là một vấn đề mang tính thời sự và thiết thực.
Qua nghiên cứu và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Mai Văn Bưu,
em quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN ở
Việt Nam hiện nay”. Do thời gian hạn chế,kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. Do
đó đề tài nay không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý
kiến quý báu của thầy giáo để việc nghiên cứu của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1



MỤC LỤC

2


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN
1.Vốn và vai trò của vốn đối với DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.Khái quát về vốn.
Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi một quan
điểm đều có cách tiếp cận riêng. Nhưng có thể nói, thực chất vốn chính là biểu
hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và trong
các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy vốn là yếu tố số một
của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn có các đặc trưng cơ bản là: thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng tài
sản nhất định, có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và
vô hình của doanh nghiệp. Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục
tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn phải được tích tụ và tập trung đến
một lượng nhất định, có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Thứ tư, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể
có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý. Thứ năm, vốn được quan niệm như một
hàng hóa đặc biệt, có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
1.2.Phân loại vốn
Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại vốn theo các giác độ tiếp cận khác nhau.
Theo nguồn hình thành có vốn chủ sở hữu và vốn huy động của doanh nghiệp.
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ vốn pháp định và vốn tự bổ sung
từ nhiều nguồn như lợi nhuận giữ lại hoặc từ các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính.…Ngoài ra, đối với DNNN còn được để lại toàn bộ khấu hao cơ

bản sử dụng tài sản cố định để đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Đối với
một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường vốn chủ sở hữu có vai
trò quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để đáp ứng nhu

3


cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng cường huy động các
nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu
và các hình thức khác.
Trên giác độ phương thức chu chuyển của vốn, người ta chia thành vốn cố
định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ). VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về tài sản cố định. Nó luân chuyển dần dần, từng phần trong nhiều chu kỳ
sản xuất. Hiện nay Nhà nước quy định VCĐ phải có thời gian sử dụng ít nhất là 1
năm và có giá trị trên 5 triệu đồng. VCĐ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất
kinh doanh, đặc biệt là với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. VLĐ
của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
1.3.Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dù bất kỳ quy mô nào cũng cần
phải có một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các
doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: DNNN khi muốn thành lập, điều kiện đầu tiên là doanh
nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng
vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật qui định cho từng loại DNNN).
Khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành
lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Theo điều 4- chương II Quy chế
quản lý Tài chính và Hạch toán kinh doanh đối với DNNN, nếu trong quá trình
hoạt động kinh doanh, vốn điều lệ của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp
luật quy định, tức là thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà

doanh nghiệp đó kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập
doanh nghiệp đó phải cấp bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp, hoặc giảm
ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động
như: phá sản, giải thể, sát nhập(2)…Như vậy, vốn có thể được xem như là điều
kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước
pháp luật.
4


Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để
phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra thường xuyên liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên
thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay
với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc
thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Vốn cũng là yếu tố quyết
định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Có vốn giúp doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, thâm nhập vào thị trường mới, từ đó mở rộng thị
trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy, doanh nghiệp cần phải có
những biện pháp hữu hiệu đảm bảo việc sử dụng vốn cho doanh nghiệp đạt hiệu
quả cao.
2. Hiệu quả sử dụng vốn
2.1.Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn
Để đánh giá trình độ quản trị điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ : hiệu quả kinh tế và

hiệu quả xã hội.Trong phạm vi quản trị doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm
đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất.
Do đó các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác
động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc
đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính
thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng
5


vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản
trị sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ khai thác, sử dụng và quản trị vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm
mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn…. Nó phản ánh quan
hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo
tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để
thực hiện sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì
hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều
kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi
mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai
mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử

dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát
huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử dụng vốn.
2.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
2.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất
người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử dụng toàn bộ
vốn, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó:
Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn =

6


Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một đồng
vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, vì vậy nó càng lớn càng tốt.
Doanh lợi vốn =
Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh khả năng
sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn
của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên chỉ
tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến diện. Do mẫu số chỉ đề cập
đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp
nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn
vốn. Do đó nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất
thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu…. Tuy nhiên như ta đă
biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định(VCĐ) và
vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo

lường hiệu quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả
sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và
VLĐ.
2.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu
thuần trong một năm.
Sức sinh lợi của vốn cố định =

7


Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có hiệu quả.
Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá
hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ số loại bỏ tài sản
cố định….
2.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng các chỉ
tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu thuần.
Sức sinh lợi của VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ tiêu này càng lớn
càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt quan
tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh,VLĐ

không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử
dụng các chỉ tiêu sau:
Số vòng quay của VLĐ =
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ được
quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng
VLĐ tăng và ngược lại.
Thời gian của một vòng luân chuyển=
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng, thời
gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng
lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.
8


2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN trong cơ chế
thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều
mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu
được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá
giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn
tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động
kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy
doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp
phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều
doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà

nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn
đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy
việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ
hoạt động 1 ca trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo
cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các
thành phần kinh tế khác trở lên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
có vị trí quan trọng hàng dầu của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị
trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an
toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển

9


của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp doanh nghiệp nâng cao khả
năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm….
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa
dạng hoá mẫu mã sản phẩm… doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của
doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết. Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài
sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường , nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt
động kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất,
tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động
cũng ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp
cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những

đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh
hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh
nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN
3.1. Nhóm các nhân tố khách quan.
3.1.1. Nhân tố kinh tế.
Yếu tố này thuộc môi trường vĩ mô, nó là tổng hợp các yếu tố
tốc độ tăng trưởng của nên kinh tế đất nước, tỷ lệ lạm phát, lãi
suất ngân hàng, mức độ thất nghiệp... tác động đến tốc độ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó tác động đến hiệu
quả sử dụng vốn.
3.1.2 Nhân tố pháp lý.
Là hệ thống các chủ trương, chính sách, hệ thống pháp luật
do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh hoạt động kinh doanh của
10


doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định
của pháp luật về thuế, về lao động, bảo vệ môi trường, an toàn
lao động... Các quy định này trực tiếp và gián tiếp tác động lên
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh
doanh theo những lĩnh vực được nhà nước khuyến khích thì họ sẽ
có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Ngược lại, doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn khi kinh doanh theo lĩnh vực bị nhà nước
hạn chế. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mọi doanh
nghiệp được lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo quy định của
pháp
luật, Nhà nước tạo môi trường và hàng lang pháp lý cho hoạt
động của doanh nghiệp, hướng hoạt động của các doanh nghiệp

thông qua các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Do vậy, chỉ một
sự thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý của Nhà nước sẽ làm ảnh
hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu Nhà nước tạo
ra cơ chế chặt chẽ, đồng bộ và ổn định sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
3.1.3. Nhân tố công nghệ.
Nhân tố công nghệ ít có ngành công nghiệp và doanh nghiệp
nào mà
không phụ thuộc vào. Chắc chắn sẽ có nhiều công nghệ tiên tiến
tiếp tục ra đời, tạo ra các cơ hội cũng như nguy cơ với tất cả các
ngành công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Công nghệ mới ra đời làm cho máy móc đã được đầu tư với
lượng vốn lớn của doanh nghiệp trở nên lạc hậu. So với công
nghệ mới, công nghệ cũ đòi hỏi chi phí bỏ ra cao hơn nhưng lại
đạt hiệu quả thấp hơn làm cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp
giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả sử dụng vốn

11


thấp. Vì vậy, việc luôn đầu tư thêm công nghệ mới thì sẽ thu
được lợi nhuận cao hơn. Hiện nay, chúng ta đang sống trong kỷ
nguyên của thông tin và “nền kinh tế tri thức”. Sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra những
thời cơ thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản
xuất kinh doanh. Nhưng mặt khác, nó cũng đem đến những nguy
cơ cho các doanh nghiệp nếu như các doanh nghiệp không bắt
kịp được tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Vì khi đó, các
tài sản của doanh nghiệp sẽ xảy ra hiện tượng hao mòn vô hình
và doanh nghiệp sẽ bị mất vốn kinh doanh.

3.1.4. Nhân tố khách hàng.
Khách hàng gồm có những người có nhu cầu mua và có khả
năng thanh toán. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ
thuộc vào số lượng khách hàng và sức mua của họ. Doanh
nghiệp bán được nhiều hàng hơn khi sản phẩm có uy tín, công
tác quảng cáo tốt và thu được nhiều lợi nhuận nhờ thoả mãn tốt
các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Mặt khác người mua có
ưu thế cũng có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng
cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn, phải làm
nhiều công việc dịch vụ hơn.
3.1.5. Nhân tố giá cả.
Giá cả biểu hiện của quan hệ cung cầu trên thị trường tác
động lớn tới
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất là đối với giá cả của các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp như giá vật tư, tiền công lao động... biến động sẽ làm
thay đổi chi phí sản xuất; Thứ hai là đối với giá cả sản phẩm
hàng hoá đầu ra của doanh nghiệp trên thị trường, nếu biến

12


động sẽ làm thay đổi khối lượng tiêu thụ, thay đổi doanh thu. Cả
hai sự thay đổi này đều dẫn đến kết quả lợi nhuận của doanh
nghiệp thay đổi. Do đó hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
cũng thay đổi. Sự cạnh tranh trên thị trường là nhân tố ảnh
hưởng lớn tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cảu doanh
nghiệp từ đó làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Đây là
một nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện đầu ra không đổi, nếu

giá cả của các yếu tố đầu vào biến động theo chiều hướng
tăng lên sẽ làm chi phí và làm giảm lợi nhuận, từ đó cho hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp giảm xuống. Mặt
khác, nếu đầu tư ra của doanh nghiệp bị ách tắc, sản phẩm sản
xuất ra không tiêu thụ được, khi đó doanh thu được sẽ không đủ
để bù đắp chi phí bỏ ra và hiệu quả sử dụng vốn sẽ là con số âm.
3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan.
3.2.1. Nhân tố con người.
Con người là chủ thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Do
vậy nhân tố con người được thể hiện qua vai trò nhà quản lý và
người lao động.
Vai trò của nhà quản lý thể hiện thông qua khả năng kết hợp
một cách tối ưu các yếu tố sản xuất để tạo lợi nhuận kinh doanh
cao, giảm thiếu những chi phí cho doanh nghiệp. Vai trò nhà
quản lý còn được thể hiện qua sự nhanh nhậy nắm bắt các cơ hội
kinh doanh và tận dụng chúng một cách có hiệu quả nhất.
Vai trò của người lao động được thể hiện ở trình độ kinh tế
cao, ý thức

13


trách nhiệm và lòng nhiệt tình công việc. Nếu hội đủ các yếu tố
này, người lao động sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh
phát triển, hạn chế hao phí nguyên vật liệu giữ gìn và bảo quản
tốt tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đó chính là yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
3.2.2. Khả năng tài chính.

Nhân tố khả năng tài chính của doanh nghiệp bao gồm các
yếu tố như:
- Quy mô vốn đầu tư.
- Khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn.
- Tính linh hoạt của cơ cấu vốn đầu tư.
- Trình độ quản lý tài chính, kế toán của doanh nghiệp...
Tài chính là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng hầu như đến tất cả
các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Quy mô vốn đầu tư và
khả năng huy động vốn quyết định quy mô các hoạt động của
công ty trên thị trường. Nó ảnh hưởng đến việc nắm bắt các cơ
hội kinh doanh lớn, mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Nó ảnh
hưởng tới việc áp dụng các công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh
doanh, ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường.
Bộ phận tài chính – kế toán làm việc có hiệu quả đóng vai trò
hết sức
quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó làm nhiệm vụ kiểm soát chế độ chi tiêu tài chính,
quản lý các nguồn lực của doanh nghiệp trên hệ thống sổ sách
một cách chặt chẽ, cụng cấp thông tin cần thiết, chính xác cho
nhà quản trị.

14


3.2.3. Trình độ trang bị kỹ thuật.
Trình độ trang bị máy móc thiết bị hiện đại giúp cho công ty
có giá thành sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm cao... Sản
phẩm của công ty có sức cạnh tranh cao là một trong những
nhân tố tác động làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp đầu tư tràn lan, thiếu định
hướng thì việc đầu tư này sẽ không mang lại hiệu quả như mong
muốn. Vì vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ về thị trường,
tính toán kỹ các chi phí , nguồn tài trợ... để có quyết định đầu tư
vào máy móc thiết bị mới một cách đúng đắn.
3.2.4. Công tác quản lý, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm các
giai đoạn là
mua sắm, dự trữ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và quá
trình tiêu thụ. Nếu công ty làm tốt các công tác quản lý, tổ chức
trong quá trình này thì sẽ làm cho các hoạt động của mình diễn
ra thông suốt, giảm chi phí tăng hiệu quả. Một doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao khi mà đội ngũ
cán bộ quản lý cuả họ là những người có trình độ và năng lực , tổ
chức huy động và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp một
cách có hiệu quả.
4. Ảnh hưởng của quá trình quản lý,tổ chức quá trình sản
xuất kinh doanh đến hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm các
giai đoạn là mua sắm, dự trữ các yếu tố đầu vào, quá trình sản
xuất và quá trình tiêu thụ sản phẩm.Chúng ta sẽ xem xét từng

15


giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh để đánh giá ảnh
hưởng của nó tới hiệu quả sử dụng vốn.
4.1.Giai đoạn mua sắm, dự trữ các yếu tố đầu vào
Đây là giai đoạn ban đầu của quá trình sản xuất.Việc mua

sắm, dự trữ vật tư hàng hóa đầu vào rất quan trọng nhằm phục
vụ một cách tốt nhất cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch mua sắm,dự trữ vật tư,
nguyên vật liệu,… để có thể kịp thời cung cấp cho quá trình sản
xuất, tránh xảy ra trường hợp thiếu vật tư,vật liệu,… gây ảnh
hưởng đến tiến độ sản xuất của doanh nghiệp.Mặt khác, nếu các
yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu được mua sắm quá nhiều sẽ
dẫn đến lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất,
chưa kể lượng vật tư tồn kho trong một số trường hợp đòi hỏi
lượng chi phí bảo quản không nhỏ.Do vậy,quản lý tốt quá trình
mua sắm, dự trữ nguyên vật liệu sẽ góp phần đảm bảo sản xuất
diễn ra nhịp nhàng ổn định, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
trong mọi thời điểm và là biện pháp quan trọng giảm chi phí sản
xuất.
Ngoài việc mua sắm, dự trữ nguyên vật liêu, doanh nghiệp
cũng cần quan tâm tới việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm
máy móc thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất và chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm nhằm cạnh tranh trên thị
trường. Do việc đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại đòi hỏi
nguồn vốn lớn nên nhà quản lý doanh nghiệp cần phải lập kế
hoạch mua sắm tài sản cố định, đào tạo nhân lực trình độ cao
nhằm tiếp cận với công nghệ mới,….nhằm sử dụng các thiết bị
máy móc đạt hiệu quả cao về kinh tế, tránh lãng phí nguồn vốn
của doanh nghiệp.

16


4.2.Giai đoạn sản xuất
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về vật tư, máy móc,

thiết bị, nguyên vật liệu, doanh nghiệp sẽ bước vào giai đoạn
trọng tâm của quá trình sản xuất kinh doanh là giai đoạn sản
xuất.
Quá trình sản xuất sản phẩm cần đảm bảo nguồn vốn cung
ứng đầy đủ cho quá trình được diễn ra liên tục, nhịp nhàng,
tránh xảy ra tình trạng tạm ngừng sản xuất do thiếu nguồn vốn,
thiếu nguyên vật liệu,… gây lãng phí nguồn lực. Ngoài ra, vấn đề
chất lượng sản phẩm cũng cần phải được chú trọng. Nhà quản lý
của doanh nghiệp cần phải quan tâm giám sát chặt chẽ từng
công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm, nhằm tránh thất
thoát nguồn lực, giảm chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế
thị trường, sự cạnh tranh trên thị trường diễn ra hết sức khốc
liệt, đảm bảo chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hết sức quan
trọng để tạo uy tín với khách hàng.
4.3.Giai đoạn tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đó chính là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai đoạn làm
cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ
lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu dùng. Tổ chức tốt và có hiệu quả việc tiêu
thụ sản phẩm sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ hết và kịp
thời những sản phẩm làm ra là một tín hiệu tốt cho cơ sở sản xuất kinh doanh bổ
sung, điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho quá trình tiếp theo. Giá trị sản phẩm
được thực hiện cho phép cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng hợp lý nguồn vốn
sản xuất, tránh ứ động vốn và nhanh chóng thực hiện quá trình tái sản xuất. Thực
hiện tiêu thụ nhanh chóng và kịp thời sản phẩm làm ra còn rút ngắn được thời
gian lưu kho, lưu thông và chu kỳ sản xuất kinh doanh sản phẩm.

17



II.Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN ở Việt
nam hiện nay
1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà
nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó
khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng
kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị
trường Nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua
các chính sách vĩ mô hay tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các
ngành để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. DNNN là bộ
phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho
Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNN có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trong quá trình hội nhập
thương mại với các nước khu vực, với Châu Á và thế giới. DNNN có vai trò chủ
đạo nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và bền vững trong phát triển kinh tế, đảm
bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, có trách nhiệm khắc phục
và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Điều đó có ý nghĩa là DNNN
có vai trò chiến lược giữ vững sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Vai trò đó được thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, các DNNN phải giữ được vai trò chủ đạo trong thực tế, nắm giữ các
ngành, các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến an ninh quốc phòng, các ngành then
chốt của nền kinh tế.
Thứ hai, các DNNN phải là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà nước sử dụng để huy
động vốn tập trung vào những ngành mang tính chiến lược của nền kinh tế, tập
trung vào những hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản trị… tạo cơ sở
cho sự phát triển kinh tế. Thông qua các DNNN cho phép Nhà nước thực hiện
các chính sách, các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

18



Thứ ba, các DNNN tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế
bằng kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đối với nước ta hiện nay đóng góp
của các DNNN trong GDP đang ở mức khá cao thì hiệu quả hoạt động của các
DNNN có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Hơn nữa hiện nay
khu vực DNNN đang chiếm giữ lượng vốn đầu tư lớn với những trang thiết bị kỹ
thuật, công nghệ và nhân lực có trình độ cao thì hoạt động của các DNNN sẽ là
một yếu tố quyết định đến việc hoàn thành những chỉ tiêu kinh tế đã đề ra.
Thứ tư, các DNNN là những đơn vị đi đầu trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo hướng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong một nền kinh tế
lạc hậu với lực lượng sản xuất còn yếu kém như Việt Nam, thì các DNNN được
sử dụng như những công cụ trực tiếp nhằm huy động các nguồn lực kỹ thuật để
tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, đồng thời là nhân tố để nâng cao chất lượng sản phẩm hướng tới xuất
khẩu nhằm hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy vai trò các DNNN là hết sức quan trọng, nhưng nhìn nhận một cách
khách quan thì DNNN chưa đủ tầm để cạnh tranh với nền kinh tế khu vực.
2.Thực trạng sử dụng vốn trong các DNNN
2.1.Đánh giá chung
2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình thức
các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đă hình thành một mạng lưới thống nhất
trên khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở. Các xí nghiệp thuộc sở hữu
Nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản xuất kinh doanh hầu hết mọi sản
phẩm hàng hóa, dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với
thời kỳ này, vốn của xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên
tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động
vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan
tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất thoát nghiêm


19


trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh
doanh.
2.1.2. Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị điều tiết của nhà nước, các
DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn đề vốn trở thành vấn
đề sống còn của mỗi DNNN.
Trong thời kỳ 1986 – 1990, các DNNN được hình thành trên quy mô rộng lớn
cả ở cấp quận huyện và không có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh ngiệp Trung
ương và địa phương. Đến năm 1990, cả nước có 12080 DNNN. Các doanh
nghiệp trong thời kỳ này có quy mô nhỏ, vốn ít và công nghệ lạc hậu. Sự dàn trải
của các DNNN làm cho nguồn vốn đầu tư của nhà nước không thể tập trung cho
các ngành trọng điểm dẫn tới sự thiếu hụt vốn thường xuyên, hiệu quả sử dụng
vốn rất thấp.
Từ năm 1990 Chính phủ đă ban hành nhiều chính sách như Nghị định
338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg…nhằm sắp xếp và tổ chức
lại các DNNN. Qua nhiều lần sắp xếp, sát nhập và giải thể, đến nay còn khoảng
5280 DNNN. Các DNNN đã nâng cao hơn trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui
mô và kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên hiện nay DNNN đang đứng trước
thực trạng yếu kém về nhiều mặt: sức cạnh tranh còn quá yếu kém, qui mô quá
nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lăi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi suất ngân
hàng, hiệu quả sút kém. Hầu hết các DNNN đang trong tình trạng “đói vốn” trầm
trọng. Theo báo cáo tổng kết của Bộ thương mại năm 1998, trên 90% số doanh
nghiệp không đủ mức vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/Chính
phủ ngày 28/8/1996 của Chính phủ. Và ngay tại TP HCM, trong số 169 doanh
nghiệp thương mại Nhà nước có tới 70% doanh nghiệp đang trong tình trạng
thiếu vốn.
Xét chung các DNNN hiện nay có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định

theo qui định tại NĐ 50/CP. Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên các DNNN

20


không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, không
có khả năng cạnh tranh.
2.2.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN hiện nay
Để hiểu rõ thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước,trước
hết ta sẽ xem xét thực trạng các nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
*Về vốn đầu tư:
Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu
tư, 4-2008, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao
trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ năm 2000 đến năm 2003, tỷ
trọng này luôn chiếm trên 50%, cụ thể, năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế
nhà nước chiếm 59,14%; năm 2001 chiếm 59,81%; năm 2002 chiếm 57,33% và
năm 2003 chiếm 52,9%, và có giảm trong những năm tiếp theo (năm 2004:
48,06%; năm 2005: 47,11% và năm 2006: 46,4%) nhưng vẫn chiếm một phần
lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Số vốn đầu tư thực tế đã thực
hiện diễn biến qua bảng sau:
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế( Đơn vị: Tỷ
đồng)

(Nguồn: Trung tâm Thông tin và dự báo, MPI.8)

21


Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước
tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng,

chiếm 43,3% tổng vốn; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm
40,7% ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng
17,1%.Có thể nói, số vốn đầu tư huy động hàng năm chiếm tỷ trọng cao trong
GDP nhưng chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước.
*Vốn kinh doanh
Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM),
tổng số vốn kinh doanh (theo giá ghi sổ) của doanh nghiệp ở Việt Nam đã tăng
nhanh trong thời gian qua; và tổng số vốn năm 2006 là 3062,7 nghìn tỷ đồng,
tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2000. Về thành phần kinh tế, thì trong cùng thời
gian, số vốn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã tăng gần 2,4 lần (từ khoảng
670 ngàn tỷ đồng lên 1601 ngàn tỷ đồng); số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong
nước tăng khoảng 8,7 lần, từ 98,4 ngàn tỷ lên 857 ngàn tỷ VNĐ. Số vốn của
doanh nghiệp FDI tăng lên khoảng 2,6 lần, từ 229,8 lên 604,6 ngàn tỷ VNĐ. Như
vậy, đến năm 2006, tuy số lượng DNNN giảm mạnh, số vốn của DNNN vẫn lớn
gần gần 2 lần số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Cơ cấu vốn của
doanh nghiệp theo thành phần kinh tế cũng đã thay đổi đáng kể. Tỷ trọng vốn
kinh doanh của DNNN đã giảm xuống từ khoảng 67% vào năm 2000 xuống còn
khoảng 53% năm 2006; tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI
tăng lên tương ứng từ khoảng 10 và 23% vào năm 2000 lên 28 và 19,7% năm
2006. Như vậy, DNNN vẫn tiếp tục nắm giữ hơn ½ tổng số vốn của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế.

22


Nguồn: Báo cáo CIEM
* Về tài sản cố định
Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, thì tổng giá trị tài sản cố định của
doanh nghiệp đã tăng lên 3,51 lần trong thời kỳ 2000-2006, trong đó DNNN tăng
hơn 3,53 lần, doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng hơn 8,8 lần và doanh nghiệp

FDI tăng gần 2,3 lần. Tuy vậy, giá trị tăng thêm về tài sản cố định của DNNN
trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm hơn một nửa số giá trị tăng thêm về tài sản cố
định của các doanh nghiệp và cao gấp hơn 2 lần so với doanh nghiệp tư nhân
trong nước như có thể thấy ở bảng dưới đây:
Tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn 31-12 hàng năm (Tỷ đồng)

2000
Tổng số
411713
DNNN
229856
DN ngoài 33916

2001
476515
263153
51049

2002
552326
309084
72663

2003
645505
332077
102945

2004
744573

359988
147222

2005
952437
486561
196200

2006
1429782
794194
298296

2007
1882000
900600
591200

147941
162313
Cơ cấu (%)
Tổng số
100.00
100.00
DNNN
55.83
55.23
DN ngoài 8.24
10.71


170579

210483

237363

269676

337292

390200

100.00
55.96
13.16

100.00
51.44
15.95

100.00
48.35
19.77

100.00
51.09
20.60

100.00
55.55

20.86

100.00
47.90
31.40

NN
DN FDI

23


NN
DN FDI

35.93

34.06

30.88

32.61

31.88

28.31

23.59

20.70


Nguồn: GSO- Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2008
Qua các số liệu kể trên, ta có thể thấy nguồn vốn trong khu vực kinh tế nhà
nước chiếm tỷ trọng rất cao trong nền kinh tế.Vậy hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh nói chung hay hiệu quả sử dụng nguồn vốn nói riêng đạt được ở mức độ
nào?Ta sẽ xem xét một số chỉ tiêu để có được câu trả lời chính xác.Thứ nhất là tỷ
lệ đóng góp vào GDP của thành phần kinh tế nhà nước,được thể hiện qua bảng
sau:
Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%)
Năm:
2000
Khu vực 38,52

2001
38,40

2002
38,38

2003
39,08

2004
39,10

2005
38,40

2006
37,39


2007
35,93

2008
34,35

nhà nước
Khu vực 48,20

47,84

47,86

46,45

45,77

45,61

45,63

46,11

46,97

13,76

13,76


14,47

15,13

15,99

16,98

17,96

18,68

ngoài nhà
nước
Khu vực 13,28

FDI
(Nguồn: GSO- Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2008)

Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng
với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định) mà nó sử dụng.
Chúng sử dụng nhiều nguồn lực song tạo ra ít giá trị. Khu vực tư nhân nói chung
(trong nước và FDI) tạo ra gần 2/3 của GDP.
Cũng nên lưu ý rằng đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước cho GDP, theo
Tổng cục Thống kê, bao gồm cả đóng góp của nhà nước trong các lĩnh vực: quản
lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm
2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn
hoá thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) [tổng cộng
là 9,05% năm 1998 và 7,18% năm 2008]. Nếu trừ phần đóng góp này khỏi thành


24


tích của khu vực nhà nước, chúng ta có một ước lượng cho sự đóng góp của khu
vực doanh nghiệp nhà nước vào GDP như sau:
Ước lượng đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào GDP
Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

%

30,35 30,31 30,42 30,74 31,29 31,33

2006

2007

2008


29,46 28,15 27,17

GDP
Nhìn chung, tình hình sử dụng vốn trong doanh nghiệp nhà nước trong thời
gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, song bên cạnh đó còn có nhiều
yếu kém trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê năm 2009, doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng 2,2 đồng vốn để tạo ra
1 đồng doanh thu, trong khi doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ cần 1,2 đồng vốn
và doanh nghiệp FDI là 1,3 đồng vốn.Xét trên phương diện kinh tế thuần túy,
hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước thấp so với các doanh nghiệp khác.
2.3.Những kết quả và tồn tại.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay hệ thống DNNN đã đạt được một số kết
quả như sau:
Một là, giảm gần 71% số DNNN từ 12.080 DNNN vào năm 2000 xuống còn
3.471 DNNN(theo số liệu tổng hợp của Chính phủ, tính đến ngày 31/12/2010)
như hiện nay. Số doanh nghiệp giảm đi chủ yếu là do sáp nhập giải thể. Trong đó
giải thể hầu hết các DNNN cấp huyện, quy mô quá nhỏ bé, không có điều kiện
tồn tại trong cơ chế thị trường. Điều này góp phần tăng sự tích tụ tập trung vốn ,
tăng quy mô doanh nghiệp.
Hai là, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui mô DNNN. Số
DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng đã giảm từ 50% (năm 1994) xuống còn 26% (năm
2009). Đến năm 2010 số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng lên gần 21%.
Vốn bình quân của một DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng năm 1994 lên gần 45 tỷ đồng
hiện nay. Hình thành các DNNN dưới dạng các tổng công ty 90,91. Tính đến cuối
25


×