LỜI CAM ĐOAN
Tên em là
: Nob Veasna
Mã sinh viên : 11125100
Lớp
: Kinh tế Phát triển 54A
Khoa
: Kế hoạch và Phát triển
Trường
: Đại học Kinh tế Quốc dân
Em xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp này hoàn thành là do sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của GS.TS. Ngô Thắng Lợi và bằng chính bản thân em nghiên
cứu, thu thập số liệu một cách nghiêm túc, tuyệt đối không sao chép bất cứ
chuyên đề, luận văn, luận án nào.
Nếu có gì sai với lời cam đoan này, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 12 năm
2015
Sinh viên thực hiện
Nob Veasna
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện chuyên đề này, ngoài sự nỗ lực của bản thân em, còn nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy cô khoa Kế hoạch và
Phát triển, trường đại học Kinh tế Quốc dân đã truyền đạt cho em những kiến thức
quý báo trong quá trình học tập tại trường, đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo GS.TS. Ngô Thắng Lợi đã tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình
em thực tập và hoàn thiện đề tài này.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các anh chị làm việc tại Ban Hợp
tác với Lào và Campuchia, Vụ Kinh tế Đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nước
CHXHCN Việt Nam, đặc biệt là bác Phó Vụ trưởng Lê Minh Điển đã tận tình
giúp đỡ cháu trong quá trình thực tập tại Vụ.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người thân, bạn bè
đã giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện.
Do thời gian có hạn, đề tài chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo cũng như
toàn thể bạn đọc.
Hà Nội, ngày 14 tháng 12 năm
2015
Sinh viện thực hiện
Nob Veasna
MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Bộ NN, LN & TS
: Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản
CLV
: Campuchia - Lào - Việt Nam
CN
: Công nghiệp
DV
: Dịch vụ
FAO
: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
KT - XH
: Kinh tế - Xã hội
NN
: Nông nghiệp
TGPT
: Tam giác Phát triển
TGPT CLV
: Tam giác Phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam
được ba Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập chính thức vào năm 2004 dựa
trên Tuyên bố Viêng Chăn về xây dựng Tam giác phát triển.
Khu vực Tam giác phát triển CLV là vùng đất khá đặc biệt có nhiều nét
tương đồng về đặc điểm văn hóa, tự nhiên và tài nguyên phong phú, đa dạng nhưng
chưa được khai thác và có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả ba nước về chính
trị, kinh tế, xã hội và mội trường sinh thái. Vì thế, mục đích của việc xây dựng Tam
giác phát triển CLV là khai thác tiềm năng thế mạnh, các nguồn lực của mỗi nước
trong khu vực nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, rút
ngắn khoảng cách phát triển so với các vùng khác của mỗi quốc gia, tạo động lực
cho cả khu vực và các vùng khác của ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam.
Trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển của khu vực này, ngành nông nghiệp đã
và đang được đề cao và quan tâm nhiều nhất vì điều kiện tự nhiên thuận lợi (vị trí
địa lý, khí hậu, chế độ nhiệt, lượng mưa, tài nguyên thiên nhiên...). Sản xuất nông
nghiệp (bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản) từ trước đến nay vẫn
là ngành sản xuất chủ yếu trong đời sống kinh tế của người dân ở đây. Nông nghiệp
giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp ổn định đời sống nhân dân, trật tự an ninh, an
toàn xã hội của các tỉnh vùng biên giới.
Là khu vực có tiềm năng về nông nghiệp, nên trong những năm qua bên cạnh
việc gia tăng sản lượng lương thực thì khu vực này cũng quan tâm khai thác các lợi
thế nông nghiệp khác của vùng như phát triển cây công nghiệp lâu năm, chăn nuôi
đại gia súc. Nông nghiệp dần phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Bước tranh
nông nghiệp của khu vực tam giác phát triển CLV đã thay đổi nhiều kể từ khi hình
thành tam giác đến nay. Nếu như năm 2002 và trước đó, sản xuất nông nghiệp ở đây
chỉ tập trung vào cây lương thực là chủ đạo với mục tiêu là đảm bảo an ninh lương
thực thì đến năm 2010 đã mở rộng nhiều loại cây trồng khác, trong đó đặc biệt là
cây công nghiệp dài ngày đã phát triển nhanh hơn cả quy hoạch 2004 đề ra(1).
Mặc dù sản xuất nông nghiệp của tam giác phát triển CLV nói chung và các
tỉnh Campuchia (Tỉnh Kratie, Mondulkiri, Ratanakiri và Stung Treng) nói riêng, có
1() Báo cáo tổng hợp (2010): Rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tam giác
phát triển CLV đến năm 2020
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
6
những bước phát triển mới cùng với kết quả đáng mừng nhưng đây chỉ là bước ban
đầu của quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại. Ngành này vẫn đối
mặt với nhiều vấn đề như thiếu vốn; công nghệ - kỹ thuật còn lạc hậu; trình độ
trồng trọt, chăn nuôi của người dân còn thấp; việc tìm kiếm thị thường chưa được
phát triển mạnh… Xuất phát từ đó em chọn vấn đề: “Định hướng phát triển nông
nghiệp các tỉnh Đông Bắc Campuchia trong khu vực tam giác phát triển
Campuchia – Lào – Việt Nam (CLV) đến năm 2020” làm đề tài nghiên cứu của
chuyên đề thực tập, với hy vọng rằng những nghiên cứu của chuyên đề này sẽ góp
phần phát triển nền nông nghiệp của các tỉnh Đông Bắc Campuchia; bên cạnh đó,
đóng góp các ý tưởng, ý kiến xây dựng khu vực tam giác phát triển Campuchia –
Lào – Việt Nam trở thành một khu vực thành công nhất và hàng đầu về sản xuất
nông nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đưa ra những định hướng, kiến nghị và các giải pháp để
phát triển ngành nông nghiệp các tỉnh của Campuchia thuộc khu vực tam giác phát
triển CLV.
Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và nội dung của phát triển nông nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp 4 tỉnh của
Campuchia; xác định các nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong quá trình
phát triển nông nghiệp của các tỉnh đó.
- Rút ra những định hướng và các giải pháp để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp các tỉnh Đông Bắc Campuchia trong khu vực tam giác phát triển CLV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ngành sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm
có trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản) ở trên địa bàn 4 tỉnh Đông Bắc
Campuchia thuộc tam giác phát triển CLV.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào một số nội dung của phát triển nông
nghiệp; về không gian là 4 tỉnh Đông Bắc Campuchia thuộc khu vực tam giác phát
triển CLV gồm có tỉnh Kratie, Mondulkiri, Ratanakiri và Stung Treng; còn về thời
gian nghiên cứu là từ năm 2009 đến 2015 và định hướng, cũng như giải pháp khắc
phục đến năm 2020.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
7
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu:
- Phương pháp định lượng: dùng để đo lường, tính toán các số liệu thu được.
- Phương pháp định tính: dùng để thăm dò, mô tả và giải thích các hiện
tượng và các chỉ tiêu liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: đọc, thu thập, tổng hợp, xử lý, phân tích
và so sánh các số liệu có sẵn.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thông qua các công cụ thống kê và toán
học sẽ rút ra được những kết luận khoa học trong việc đánh giá thực trạng của vấn
đề nghiên cứu.
5. Bố cục chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, chuyên đề được
bố cục thành ba chương cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp các tỉnh Đông Bắc
Campuchia trong khu vực tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp các
tỉnh Đông Bắc Campuchia trong khu vực tam giác phát triển Campuchia – Lào –
Việt Nam đến năm 2020
Chương 1
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan về nông nghiệp và phát triển nông nghiệp
1.1.1. Nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương
thực là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra, con người có thể sống mà
không cần sắt, thép, than, điện, nhưng không thể thiếu lương thực. Trên thực tế
phần lớn các sản phẩm chế tạo có thể thay thế, nhưng không có sản phẩm nào thay
thế được lương thực. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương
thực.
Nông nghiệp gồm có 4 tiểu ngành, đó là: ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và thủy sản.
Trồng trọt là ngành sử dụng đất đai với cây trồng làm đối tượng chính để sản
xuất ra lương thực, thực phẩm, tư liệu cho công nghiệp và thỏa mãn các nhu cầu về
vui chơi giải trí, tạo cảnh quan (hoa viên, cây kiểng, sân banh, sân golf). Cây trồng
được phân loại theo nhiều cách: 1) Dựa trên phương pháp canh tác chia ra cây
trồng nông học (bao gồm các nhóm cây hạt ngũ cốc, nhóm cây đậu cho hạt, nhóm
cây cho sợi, nhóm cây lấy củ, nhóm cây công nghiệp, nhóm cây đồng cỏ và thức ăn
gia súc) hay cây trồng nghề vườn (bao gồm các nhóm rau, nhóm cây ăn trái, nhóm
hoa kiểng, nhóm cây đồn điền); 2) Dựa trên công dụng chia ra cây lương thực, cây
công nghiệp, cây ăn quả, cây rau và hoa, cây trồng làm thứ ăn gia súc và cây dược
liệu; 3) Dựa trên yêu cầu về điều kiện khí hậu chia ra cây ôn đới, cây á nhiệt đới,
cây nhiệt đới; 4) Dựa trên thời gian của chu kỳ sinh trưởng chia ra cây hàng năm và
cây lâu năm.
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp theo
nghĩa hẹp, với đối tượng sản xuất là các loại động vật nuôi. Ngành chăn nuôi cung
cấp thực phẩm nhiều chất đạm như thịt, sữa, trứng; cung cấp da, len, lông; sản phẩm
phụ của chăn nuôi dùng làm phân bón; đại gia súc dùng làm sức kéo. Nguồn thức
ăn cho chăn nuôi chủ yếu lấy từ ngành trồng trọt, nên chăn nuôi phát triển sẽ góp
phần làm gia tăng hiệu quả của sản phẩm trồng trọt.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
9
Lâm nghiệp là các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng; khai thác,
vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng; trồng cây, tái tạo rừng, duy trì tác
dụng phòng hộ nhiều mặt của rừng. Theo luật bảo vệ và phát triển rừng của Việt
Nam, rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi
sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc
hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của rừng từ 0,1 trở lên.
Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ,
đất rừng đặc dụng.
Thủy sản là bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Đánh bắt là hoạt động
có từ lâu đời của con người nhằm cung cấp thực phẩm cho mình thông qua các hình
thức đánh bắt cá và các sinh vật thủy khác; việc đánh bắt phải kết hợp với hoạt động
bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhằm bảo vệ môi trường và duy trì nguồn thủy sản đánh
bắt trong tương lai. Nuôi trồng thủy sản là hình thức canh tác thủy sản có kiểm soát.
Nuôi cá là hình thức cơ bản của nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi cá nước mặn,
nước lợ và nước ngọt; ngoài ra, còn có nuôi rong, nuôi tôm, nuôi sò, nuôi ngọc trai.
1.1.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Với tính cách là một ngành sản xuất đặc thù, nông nghiệp có những đặc điểm
chung như sau:
Sản xuất nông nghiệp có tính vùng rất rõ rệt
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rất rõ rệt. Ở mỗi vùng, mỗi
quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết, khí hậu rất khác nhau đã làm cho các hoạt
động nông nghiệp cũng diễn ra không giống nhau. Đặc điểm này đòi hỏi nhà quản
lý phải hiểu rõ tính chất vùng, quy hoạch nông nghiệp, lựa chọn và bố trí cây trồng,
vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tránh
rủi rỏ và khai thác lợi thế so sánh nông sản của mỗi vùng.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu
Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý
muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất ruộng đất chưa có giới hạn, nghĩa là con người
có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thỏa mãn nhu cầu tăng lên của loài
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
10
người về nông sản. Do đó, việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì
nhiêu của đất là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống
Quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình sinh học. Vì vậy, muốn
hoàn thành quá trình sản xuất phải hiểu biết sâu sắc về chu trình sinh trưởng của
sinh vật.
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao
Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm này
xuất phát từ hai lý do cơ bản. Một là quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá
trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản xuất nhưng
không hoàn toàn trùng khớp với thời gian sản xuất; thứ hai, mỗi loại cây trồng, vật
nuôi chỉ phù hợp với một điều kiện thời tiết nhất định. Để khai thác tốt nhất ánh
sáng, độ ẩm, lượng mưa cho cây trồng thì các khâu gieo trồng, bón phân, làm cỏ,
tưới tiêu,… phải đúng thời vụ. Vì vậy, việc nghiện cứu các phương pháp canh tác
nhằm hạn chế những tác động của thời tiết, khí hậu sẽ giúp cho nông nghiệp phát
triển bền vững và ổn định.
1.1.1.3. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Xu hướng sản xuất nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền
kinh tế, lực lượng lao động trong nông nghiệp cũng giảm dần và dịch chuyển sang
các ngành kinh tế khác, đất đai trong nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Tuy nghiên
dân số lại gia tăng, vì vậy sản lượng nông sản cũng phải tăng lên để đáp ứng được
nhu cầu của con người. Nông nghiệp đóng vai trò cả trực tiếp và gián tiếp vào kinh
tế, xã hội và môi trường. Điều đó được thể hiện như sau:
Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội
Ở các nước nghèo, các nước đang phát triển, đại bộ phận sống bằng nghề
nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, tỷ trọng
nông nghiệp vào GDP không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá
lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những
sản phẩm cần thiết đó là lương thực, thực phẩm. Xã hội càng phát triển, đời sống
của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực,
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
11
thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Vai trò
này hướng tới mục tiêu “Đảm bảo an ninh lương thực” – là vấn đề mà các quốc
gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế đang đặc biệt quan tâm.
Cung cấp yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp, dịch vụ và phát triển
khu đô thị
-
-
-
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào
cho ngành công nghiệp, dịch vụ và phát triển khu đô thị. Điều đó được thể hiện chủ
yếu ở các mặt sau đây:
Nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự
trữ và cung cấp lao động cho quá trình phát triển công nghiệp, dịch vụ và khu đô
thị. Lực lượng lao động ở nông thôn dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công
nghiệp, dịch vụ và đô thị. Đó là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quý cho công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị
của sản phẩm nông nghiệp tăng lên rất nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của
nông sản hàng hóa, mở rộng thị trường.
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp
vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, bởi vì đây là khu vực lớn nhất, xét cả về lao
động và sản phẩm quốc dân.
Là thị trường tiêu thụ của ngành công nghiệp và dịch vụ
Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong
nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Phát triển mạnh mẽ nông
nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ
làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển.
Nông nghiệp tham gia vào xuất khẩu
Ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào
các loại nông sản. Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hóa, ở
giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch
xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
12
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường
Trong nông nghiệp, môi trường không chỉ là nguồn lực mà còn là yếu tố có
liên quan đến bản thân của quá trình phát triển nông nghiệp và đến môi trường sống
của con người. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ môi trường sản xuất nông
nghiệp; bảo tồn đa dạng sinh học giúp duy trì cân bằng sinh thái, nhờ đó làm chậm
quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông
nghiệp, cần áp dụng những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo nên sự phát triển
bền vững của môi trường sinh thái.
Nhưng vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông nghiệp
có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Chính vì vậy, nông nghiệp được
coi là điểm xuất phát của quá trình phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc
gia.
1.1.2. Phát triển nông nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm
Để hiểu rõ hơn khái niệm về phát triển nông nghiệp, chúng ta sẽ đi từ khái
niệm về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế
“Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi mặt kinh tế,
chính trị, xã hội của một quốc gia. Là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình phát
triển cả hai lĩnh vực của nền kinh tế là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội”. (2)
Với cách hiểu này, phát triển kinh tế được khái quát theo hai lĩnh vực: phát
triển lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Phát triển lĩnh vực kinh tế của nền kinh tế
bao gồm hai quá trình, đó là tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Còn
sự phát triển lĩnh vực xã hội là một bộ phận cấu thành trong phát triển nền kinh tế.
Phát triển lĩnh vực xã hội của nền kinh tế cần phải thể hiện trên nhiều phương diện,
nhưng nhìn tổng quát, đó là việc bảo đảm tiến bộ xã hội cho con người như: nâng
cao trình độ phát triển con người (nâng cao năng lực về tài chính, năng trí lực, năng
lực thể lực và cách thức con người sử dụng các năng lực đó), xóa đói giảm nghèo,
bình đẳng xã hội,….
2() GS. TS. Ngô Thắng Lợi và công sự (2012). Kinh tế Phát triển (tr. 29); NXB ĐHKTQD.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
13
Tóm lại, nội hàm của quá trình phát triển nền kinh tế bao gồm quá trình tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện tiến bộ xã hội cho con
người.
Phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân,
nên những nội dung của phát triển kinh tế nêu trên cũng là những nội dung chủ yếu
mà quá trình phát triển nông nghiệp cần phải đạt tới. Tuy nhiên, nông nghiệp có
một số đặc điểm khác so với các ngành kinh tế khác, như vậy chuyên đề này sẽ mở
rộng thêm những nội hàm của quá trình phát triển nông nghiệp sao cho phù hợp với
những tình hình tiến lên của nền nông nghiệp hiện nay.
Nếu phát triển kinh tế tập trung vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tiến bộ xã hội thì nội hàm của phát triển nông nghiệp sẽ là sự gia tăng về
quy mô sản xuất nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu ngành nông; hiệu quả sản xuất
nông nghiệp và sự đóng góp của nông nghiệp vào phát triển KT-XH. (nội hàm của
phát triển nông nghiệp sẽ được cụ thể hóa ở phần 1.2).
Như vây, theo chuyên đề, phát triển nông nghiệp là quá trình tăng lên về
quy mô sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
hợp lý, đảm bảo được hiệu quả cao trong việc sử dụng các nguồn lực đầu vào và
quá trình phát triển này phải đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.2. Nội hàm của phát triển nông nghiệp
Theo định nghĩa ở phần trên, phát triển nông nghiệp là quá trình tăng lên về
quy mô sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
hợp lý, đảm bảo được hiệu quả cao trong việc sử dụng các nguồn lực đầu vào và
quá trình phát triển này phải đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì
vây, phát triển nông nghiệp gồm có 4 nội dung chủ yếu như sau:
Sự thay đổi về quy mô sản xuất nông nghiệp
Khi nói đến một nền nông nghiệp phát triển thì trước hết phải có sự gia tăng
về quy mô sản xuất nông nghiệp. Sự lớn lên về quy mô này để thỏa mãn nhu cầu
của xã hội ngày càng có xu hướng tăng lên. Để đánh giá quy mô sản xuất nông
nghiệp, ngoài số lượng nông sản được sản xuất ra, chúng ta cũng có thể xem xét nó
thông qua tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp (nhanh hay chậm giữa các thời
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
14
kỳ), đóng góp của ngành nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế (đóng góp bao nhiêu
điểm phần trăm).
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hợp lý
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là sự thay đổi về mặt chất của sản
xuất nông nghiệp khi lượng của nó (quy mô) biến đổi đến một mức nhất định nào
đó. Xu hướng thay đổi này phải theo hướng hợp lý, phù hợp với đặc điểm của từng
vùng. Có vùng rất ưu đãi về ngành trồng trọt nhưng lại không thể tiến hành ngành
chăn nuôi được. Vì vậy, cần phải điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp dựa trên
tiềm năng phát triển sẵn có và có thể khai thác được của vùng.
Hiệu quả sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên
Các nguồn lực đầu vào trong quá trình sản xuất nông nghiệp như vốn, lao
động, đất đai và khoa học, công nghệ cần phải được sử dụng một cách hiệu quả
nhất. Đối với chủ đầu tư (khu vực tư nhân), hiệu quả sản xuất cao sẽ đem lại lợi
nhuận cao. Còn về phía xã hội, việc sử dụng các nguồn lực xã hội hiệu quả vừa
mang lại lợi ích xã hội vừa tiết kiệm được các nguồn lực khan hiếm đặc biệt là tài
nguyên thiên nhiên (đất đai, rừng, nước…). Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học, công nghệ cùng với trình độ người lao động và nhà quản lý cao đã làm
cho hiệu quả sản xuất và năng suất lao động, năng suất đất đai trong nông nghiệp
tăng lên rất mạnh.
Sự đóng góp của nông nghiệp vào phát triển KT-XH ngày càng cao
Cuối cùng, một nền nông nghiệp phát triển phải đóng góp vào sự phát triển
KT-XH. Có rất nhiều khía cạnh để đánh giá sự đóng góp của nông nghiệp, trong đó
ngành nông nghiệp là một nguồn cung cấp nông sản cho quá trình xuất khẩu, đối
với các quốc gia đang phát triển, nông sản chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch
xuất khẩu, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp thô. Ngoài ra, nông nghiệp đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lượng thực trong khi các quốc
gia trên thế giới đang lo lắng và đặc biệt quan tâm về vấn đề thiếu hụt lương thực.
Nội hàm thứ tư này, mặc dù nền nông nghiệp phát triển mạnh hoặc nền nông
nghiệp lạc hậu đều đóng góp vào phát triển KT-XH, chỉ ít hay nhiều mà thôi. Vì
vậy, nền nông nghiệp càng phát triển thì sự đóng góp của nó vào quá trình phát triển
đất nước càng lớn.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
15
1.2. Nội dung nghiên cứu về phát triển nông nghiệp
1.2.1. Sự thay đổi về quy mô sản xuất nông nghiệp
1.2.1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp
Như đã giải thích ở phần 1.1.2.1, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nói
chung và phát triển nông nghiệp nói riêng, trước hết phải có sự gia tăng về quy mô
sản lượng được sản xuất ra và nó được thể hiện thông qua mức tăng hoặc tốc độ
tăng trưởng.
Tương tự như cách tính tốc độ tăng trưởng kinh tế, để tính mức tăng (tốc độ
tăng trưởng) của ngành nông nghiệp, ta có công thức sau:
Trong đó:
NNt: là số lượng nông sản được sản xuất ra tại năm t
NNt-1: là số lượng nông sản được sản xuất ra tại năm t-1
Kết quả của nó cho biết, năm nay (năm t) ngành nông nghiệp tăng bao nhiêu
% so với năm trước (năm t-1) nếu tính theo giá cố định.
Tuy nhiên, tăng trưởng là điều kiện cần nhưng không đủ để một nền nông
nghiệp được coi là phát triển. Nó cần thiết vì sự thay đổi đủ lớn về lượng (tăng
trưởng) sẽ làm biến đổi chất của nền nông nghiệp. Vì vậy, có rất nhiều điều kiện
phải hoàn thành, nhiều việc phải làm để một vùng hay một quốc gia có được một
nền nông nghiệp phát triển.
1.2.1.2. Sự thay đổi về quy mô sản xuất của từng tiểu ngành
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp được chia thành 4 tiểu ngành, gồm có trồng
trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, và thủy sản. Để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP
ngành nông nghiệp cao, quy mô các thành phần cấu thành ngành nông nghiệp (4
tiểu ngành) phải tăng lên mạnh. Các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên
thiên nhiên (đất đai), và khoa học – công nghệ là những động lực chính cho sự gia
tăng về quy mô của sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát
triển, các nước đang phát triển thường phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, cụ thể
là mở rộng diện tích trồng cây, nuôi vật, và khai thác rừng, thủy sản… để thúc đẩy
tăng trưởng GDP nông nghiệp và GDP của cả nền kinh tế.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
16
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hợp lý
1.2.2.1. Sự thay đổi tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế
Thuật ngữ “cơ cấu” được sử dụng để chỉ các bộ phận hợp thành của một tổng
thể nào đó và mối quan hệ giữa các bộ phận đó trong tổng thể. Trong sản xuất nông
nghiệp, các bộ phận hợp thành có thể được xem xét ở ngành, tiểu ngành, lĩnh vực,
sản phẩm, vùng lãnh thổ hoặc thành phần kinh tế. Thuy nhiên, mối quan hệ giữa các
bộ phận hợp thành rất khác nhau tùy điều kiện chủ quan, khách quan trong từng
thời kỳ của từng vùng, từng địa phương, và từng quốc gia.
Trong phần này, chúng ta tập trung xem xét cơ cấu kinh tế chung, tức là có 4
bộ phận hợp thành nền kinh tế như: khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp, và
khu vực dịch vụ. Tầm quan trọng và mức độ ưu tiên của mỗi bộ phận tùy thuộc vào
chủ quan của nhà quan lý, nhà hoạch định chính sách; điều kiện tự nhiên, kinh tế và
xã hội.
Theo lý thuyết phân kỳ của Rostow (3), quá trình phát triển kinh tế trải qua 5
giai đoạn, đó là: xã hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai đoạn cất
cánh, giai đoạn trưởng thành và giai đoạn tiêu dùng cao. Trong mỗi giai đoạn thể
hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tức là tầm quan trọng của mỗi nhóm ngành đã
thay đổi. Ví dụ, trong giai đoạn xã hội truyền thống, nông nghiệp đóng vai trò rất
lớn trong nền kinh tế (còn gọi là cơ cấu nông nghiệp thuần túy); bước sang giai
đoạn thứ hai, đã xuất hiện ngành công nghiệp và cơ cấu kinh tế là nông nghiệp công nghiệp; giai đoạn thứ ba: cất cánh, xuất hiện ngành dịch vụ và cơ cấu kinh tế
là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ; giai đoạn thứ tư: trưởng thành, cơ cấu kinh
tế thay đổi thành công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp; giai đoạn cuối cùng: tiêu
dùng cao, cơ cấu kinh tế là dịch vụ - công nghiệp, biến mất ngành nông nghiệp.
Theo lý thuyết trên chúng ta thấy rằng, vị trí, vai trò, tỷ trọng của ngành
nông nghiệp ngày càng giảm xuống theo từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, sự
giảm xuống ấy không có nghĩa là quy mô sản xuất nông nghiệp bị cắt giảm hoặc thu
hẹp lại; ngược lại, nền nông nghiệp đang được quan tâm nhiều hơn cả về số lượng
và chất lượng, tức là tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm nhưng số
lượng và chất lượng của nó tăng lên vì quy mô sản xuất của hai nhóm ngành còn
lại tăng lên với tốc độ cao hơn.
3() GS. TS. Ngô Thắng Lợi và công sự (2012). Kinh tế Phát triển (tr. 41). NXB ĐHKTQD
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
17
1.2.2.2. Sự thay đổi tỷ trọng trong nội bộ ngành nông nghiệp
Nếu ở phần 1.2.2.1 xem xét cơ cấu nền kinh tế chung thì phần này đi sâu hơn
một bước, là nghiên cứu cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, tức là nghiên cứu 4 bộ
phận hợp thành ngành nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy
sản. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp luôn vận động cùng với sự thay đổi của
những điều kiện khách quan như nhu cầu thị trường, tiến bộ công nghệ, chất lượng
nguồn nhân lực, các đối thủ cạnh tranh, đối tác kinh tế, và điều kiện tự nhiên. Ví dụ,
một vùng có hệ thống sông suối, có đất phủ sa rất dồi dào cần phải tập trung nhiều
vào ngành trồng trọt (cụ thể là trồng cây lương thực, thực phẩm), và việc đánh bắt
cá và nuôi trồng thủy sản.
1.2.3. Hiệu quả sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên
Năng suất đất đai là một trong những các tiêu chí đánh giá hiệu quả sản xuất
nông nghiệp. Nó phản ánh hiệu quả sử dụng đất đai trong sản xuất nông nghiệp và
phụ thuộc vào vốn đầu tư nông nghiệp, trình độ của người lao động (nông dân),
khoa học – công nghệ (sử dụng máy móc thiệt bị, phân bón,…), và điều kiện tự
nhiên (khí hậu, địa hình, tài nguyên nước,…)
Năng suất đất đai trong nông nghiệp có thể được tính như sau:
Vì vậy, năng suất đất đai là quy mô nông sản được sản xuất ra trên một đơn
vị diện tích đất (thường là ha).
1.2.4. Sự đóng góp của nông nghiệp vào phát triển kinh t ế - xã h ội ng ày c àng
cao
1.2.4.1. Đảm bảo an ninh lương thực
An ninh lương thực được hiểu là sự đảm bảo của mỗi vùng hay một quốc gia
về nguồn cung cấp lương thực cho người dân để hạn chế và đẩy lùi tình trạng thiếu
lương thực, nạn đói và tình trạng phụ thuộc vào nguồn lương thực nhập khẩu. Theo
định nghĩa của FAO thì An ninh lương thực là mọi người có quyền tiếp cận các
thực phẩm một cách an toàn, bổ dưỡng, đẩy đủ mọi lúc mọi nơi để duy trì cuộc
sống khỏe mạnh và năng động.
Việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia được nhiều nước đặt lên vai trò
quan trọng trong chương trình nghị sự và hành động của quốc gia mình đặc biệt là
việc ưu tiên phát triển nông nghiệp. Trong thời đại ngày nay, vấn đề an ninh
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
18
lương thực còn là vấn đề toàn cầu và là mối quan tâm chung của toàn nhân loại với
sự ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và sự gia tăng
dân số.
Vì vậy, nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng và duy nhất trong việc đảm
bảo an ninh lương thực, bên cạnh đó, mức độ đảm bảo an ninh lương thực có thể
được chọn làm tiêu chí cơ bản để đánh giá trình độ phát triển nông nghiệp của mỗi
quốc gia.
1.2.4.2. Đóng góp cho xuất khẩu
Đối với các quốc gia đang phát triển, nông nghiệp góp phần rất lớn trong kim
ngạch xuất khẩu bởi vì các quốc gia này phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp,
nói cách khác, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của nền kinh tế.
Tuy nhiên, phần lớn các nông sản xuất khẩu là sản phẩm dạng thô cho nên mất đi
một số lợi ích, như giá trị gia tăng trong khâu chế biến, các cơ hội việc làm, và khả
năng định giá sản phẩm. Để thu được lợi ích đó, Nhà nước nên thúc đẩy chế biến
nông sản thông qua các chính sách ưu đãi.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp
1.3.1. Những nhân tố tự nhiên
1.3.1.1. Tài nguyên đất
Như đã mô tả ở phần 1.1.1.2, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể
thay thế được trong ngành sản xuất nông nghiệp. Việc bảo tồn quỹ đất và không
ngừng nâng cao độ phì nhiêu của đất là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp.
Quỹ đất, cơ cấu sử dụng đất, các loại đất, độ phì của đất có ảnh hưởng rất lớn đến
quy mô và phương hướng sản xuất, cơ cấu và sự phân bố cây trồng, mức độ thâm
canh và năng suất cây trồng, vật nuôi.
1.3.1.2. Tài nguyên khí hậu
Khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính
mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ nông sản.
Khi thiên tai xảy ra như: bão, lũ lụt, hạn hán,… sẽ làm thiệt hại đến mùa màng và
làm giảm chất lượng nông sản. Bên cạnh đó, chế độ khí hậu bất thường cúng làm
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
19
phát sinh dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; lượng ẩm cao gây khó khăn cho bảo
quản sản phẩm nông nghiệp.
1.3.1.3. Tài nguyên nước
Nước rất quan trọng đối với sự phát triển và phân bố, có ảnh hưởng lớn đến
năng suất, chất lượng cây trồng.
Để phục vụ sản xuất nông nghiệp, có hai nguồn nước chính là nguồn nước
mặt và nguồn nước ngầm. Trong nguồn nước mặt, có mạng lưới sông ngòi tạo điều
kiện thuận lợi cho tưới tiêu, rửa mặn, bồi đắp phù sa,… Vào mùa mưa có nhiều
nước, thuận lợi cho sản xuất nhưng lại gây nhập úng một số nơi làm thiệt hại mùa
màng; mùa khô thiếu nước, ảnh hướng đến năng suất cây trồng. Còn đối với nguồn
nước ngầm, có khả năng đáp ứng nước cho cây trồng vào mùa khô.
1.3.2. Những nhân tố kinh tế - kỹ thuật
1.3.2.1. Quy mô và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp
Các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp bao gồm vốn, lao động, tài nguyên
thiên nhiên (trong đó có đất đai) và khòa học, công nghệ. Quy mô và chất lượng của
các nguồn lực quy định quy mô và hiệu quả của ngành nông nghiệp.
Qui mô (số lượng) và chất lượng các nguồn lực được huy động có tính quyết
định đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Gia tăng quy mô các nguồn
lực như vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên làm tăng trưởng theo chiều
rộng; trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu gắn với tăng năng suất lao động nhờ
áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào quy trình sản xuất. Điều này
chứng tỏ rằng chỉ có đầu tư khoa học công nghệ mới nâng cao được chất lượng của
các nguồn lực và đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng bền vững và ổn định.
1.3.2.2. Thị trường các yếu tố đầu vào và tiêu thụ nông sản
Trong sản xuất nông nghiệp, có hai thị trường đảm bảo cho quá trình phát
triển nông nghiệp là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ nông sản.
Thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp bao gồm thị trường
vốn; lao động; thiết bị và vật tư nông nghiệp; khoa học và công nghệ. Khi nền nông
nghiệp càng phát triển đòi hỏi phải phát triển các thị trường yếu tố đầu vào. Tuy
nhiên, do trình độ quản lý và năng lực kinh tế của các nông hộ còn hạn chế thì việc
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
20
tiếp cận và sử dụng các nguồn lực đầu vào này thường gặp khó khăn và hiệu quả
chưa được cao.
Thị trường tiêu thụ nông sản có thể chia thành hai là thị trường trong nước
(hoặc trong vùng) và thị trường nước ngoài (hoặc ngoài vùng). Thị trường tiêu thụ
nông sản trường phụ thuộc vào mối quan hệ cung-cầu về hàng hóa nông nghiệp.
Giống như các hàng hóa ngành khác, cung cầu trong nông nghiệp tạo ra cơ chế hình
thành giá cả nông sản và thúc đẩy việc mua bán nông sản phù hợp với các quy luật
của thị trường. Để đảm bảo cân đối giữa cung và cầu trong sản xuất nông nghiệp
cần phải phát triển nông sản làm cầu nối giữa nông dân và thị trường, giảm được
những tổn thất mà nông dân phải gánh chịu do sự biến động giá cả nông sản theo vụ
mùa.
1.3.2.3. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp
Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp gồm có đường bộ, đường
thủy; hệ thống tưới tiêu, hệ thống cấp thoát nước;… Kết cấu hạ tầng phục vụ sản
xuất nông nghiệp là nhân tố ngoại sinh của phát triển nông nghiệp nhưng có vai trò
thúc đẩy, nâng cao khả năng cạnh tranh và lợi thể so sánh của nông sản được sản
xuất và tiêu thụ.
Khi kết cấu hạ tầng được cải thiện cả số lượng và chất lượng sẽ làm giảm chi
phí trong sản xuất và tiêu thụ nông sản; bên cạnh đó, quy mô sản xuất nông nghiệp
và chất lượng nông sản sẽ tăng lên. Chính vì vậy mà phát triển kết cấu hạ tầng phục
vụ sản xuất nông nghiệp trở thành chính sách quan trọng tại các quốc gia nhằm thúc
đẩy tăng trưởng nông nghiệp và thúc đẩy lưu thông sản phẩm nông nghiệp tạo điều
kiện cho phát triển nông nghiệp.
1.3.2.4. Tiến bộ khoa học - công nghệ
Như đã trình bày ở phần 1.3.2.1, tiến bộ khoa học công nghệ giúp nền nông
nghiệp tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực khác và đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng bền vững và ổn định.
Nhờ việc áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ, kỹ thuật thì chúng ta đã
hạn chế được những ảnh hưởng của tự nhiên, chủ động hơn trong hoạt động nông
nghiệp, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện hình thành các
vùng chuyên canh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiêp hóa, hiện đại hóa.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
21
1.3.3. Những nhân tố xã hội
1.3.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Lao động là một yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu
dân số (theo độ tuổi, giới tính,…) và sự phân bố dân cư có ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Đối với các
quốc gia này, do việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến còn yếu kém; vì vậy,
sức lao động con người đóng vai trò quan trọng đối với kết quả đầu ra của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do xu hướng di dân từ nông thôn ra thành thị và
khu công nghiệp thì có thể làm cho nền nông nghiệp gặp tình trạng thiếu hụt người
lao động.
1.3.3.2. Tập quán và kinh nghiệm sản xuất
Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất cha
truyền con nối và tạo cho nông dân tâm lý cam chịu và bằng lòng với tập quán sản
xuất tự cung tự cấp. Kinh nghiệm và tâm lý này đã làm cho mục đích sản xuất của
nông dân nghèo chỉ nhằm đảm bảo cái ăn, cái mặc; ý tưởng thay đổi cách thức sản
xuất, tiếp cận thị trường để nâng cao sức sản xuất và cải thiện thu nhập đối với họ là
mạo hiểm vì một vụ mùa thất bát cũng đồng nghĩa với đói kém.
Vì vậy, chỉ có nâng cao thu nhập của nông dân dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động, tăng sản lượng mới làm cho họ chấp nhận thay đổi kinh nghiệm và tập
quán sản xuất tự cung tự cấp để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Thu nhập
của nông dân tăng lên sẽ tạo cơ hội cho nông dân để lựa chọn tiêu dùng, tích lũy và
đầu tư; kích thích họ tự đổi mới cuộc sống và nâng cao năng lực sản xuất của chính
họ.
1.3.4. Chính sách phát triển nông nghiệp
Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế là vấn đề vừa cổ điển vừa
hiện đại. Ngày nay, những tranh luận trong khoa học không còn ở việc cần hay
không vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế mà ở chỗ làm thế nào để kết
hợp tốt vai trò của Nhà nước với thị trường trong phát triển kinh tế.
Đối với phát triển nông nghiệp cũng vậy, thành công hay thất bại không
những phụ thuộc vào khả năng và kỹ năng của người nông dân mà quan trọng hơn
còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Thí dụ, trong nền nông nghiệp
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
22
truyền trống người nông dân không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kỹ
thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó,
Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kỹ thuật (giống mới, biện pháp canh tác
mới…) và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÁC TỈNH ĐÔNG
BẮC CAMPUCHIA TRONG KHU VỰC TAM GIÁC PHÁT TRIỂN
CAMPUCHIA – LÀO – VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về các tỉnh Đông Bắc Campuchia và khu vực
tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triến khu vực tam giác phát tri ển
Campuchia – Lào – Việt Nam
Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam
đã được ba Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập chính thức vào năm 2004
dựa trên Tuyên bố Viêng Chăn về việc thiết lập Tam giác phát triển..
Trong nhân dịp thành lập TGPT, Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH
tam giác phát triển CLV (còn gọi là Quy hoạch 2004) cũng đã được thông qua để
phát huy lợi thế và tiềm năng, rút ngắn khoảng cách phát triển với các vùng của mỗi
nước. Nhưng Quy hoạch 2004 chủ yếu mới được định hướng đến năm 2010, do vậy
Quy hoạch này đã được điều chỉnh và bổ sung vào năm 2010 để định hướng phát
triển các ngành, lĩnh vực, tổ chức lãnh thổ, các dự án ưu tiên đầu tư đến năm 2020.
Khi thành lập, khu vực này gồm có 10 tỉnh là Stung Treng, Ratanakkiri,
Mondulkiri (Campuchia); Sekong, Attapeu, Saravan (Lào) và Kon Tum, Gia Lai,
Đăk Lăk, Đăk Nông (Việt Nam). Vào năm 2009, ba nước nhất trí bổ sung tỉnh Bình
Phước (Việt Nam), Champasak (Lào) và Kratie (Campuchia) vào TGPT. Như vậy,
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
23
đến nay TGPT CLV bao gồm lãnh thổ của 13 tỉnh có đường biên giới hoặc có liên
quan đến khu vực biên giới chung giữa ba nước.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
24
Hình 2-1: Bản đồ hành chính khu vực tam giác phát triển CLV
Nguồn: Trang thông tin điện tử TGPT CLV ()
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A
25
2.1.2. Điều kiện tự nhiên của các tỉnh Đông Bắc Campuchia
2.1.2.1. Vị trí địa lý
Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia
gồm lãnh thổ của 13 tỉnh với tổng diện tích tự nhiên là 143.024,7 km 2, tổng dân số
năm 2009 khoảng 6,6 triệu người (mật độ dân số 47 người/km 2), chiếm 19,1% về
diện tích tự nhiên và 6,1% về dân số so với cả ba nước.
Bốn tỉnh của Campuchia có diện tích tự nhiên là 47.256 km 2, dân số năm
2009 khoảng 645,8 nghìn người, mật độ dân số 14 người/km2. Trong đó:
- Tỉnh Kratie có diện tích 11.094 km2, dân số năm 2009 khoảng 324,9 nghìn
người, và mật độ dân số 29 người/km2.
- Tỉnh Mondulkiri có diện tích 14.288 km 2, dân số năm 2009 khoảng 57,7
nghìn người, và mật độ dân số 4 người/km2.
- Tỉnh Ratanakiri có diện tích 10.782 km2, dân số năm 2009 khoảng 154,6
nghìn người, và mật độ dân số 14 người/km2.
- Tỉnh Stung Treng có diện tích 11.092 km2, dân số năm 2009 khoảng 108,6
nghìn người, và mật độ dân số 10 người/km2.
Tam giác phát triển nói chung, các tỉnh Đông Bắc Campuchia nói riêng, có
vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái; là vùng cao
nguyên rộng lớn, nhiều tiềm năng chưa được khai thác; là nơi đầu nguồn của nhiều
con sông có vị trí rất quan trọng về môi trường sinh thái và quốc phòng an ninh của
mỗi nước.
Sinh viên thực hiện: Nob Veasna
Lớp: Kinh tế Phát triển 54A