Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Mở đầu
Việt nam – Đất nước đã bị tàn phá nặng nề cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và
kinh tế , trải qua một thời gian dài trong nền kinh tế quan liêu bao cấp, hiện nay đang
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một yêu cầu cấp thiết lúc này đối với nước
ta là: Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc
sống cho nhân dân. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm
1991 đã đề ra phương hướng: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đó
là một sự lựa chọn đúng đắn trong tình hình mới hiện nay, bởi vì chủ nghĩa tư bản
ngày nay đã bộc lộ rõ tất cả những mặt xấu xa và lỗi thời của nó, không còn là “hình
mẫu” hấp dẫn để các nước lạc hậu đi theo.
Chủ nghĩa tư bản đã đến lúc phải bị xóa bỏ để thay thế bằng một xã hội mới tiến
bộ và văn minh hơn, đảm bảo công bằng về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cho
tất cả mọi người. Và chỉ có con đường duy nhất là phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh” nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế. Vì thế học tập và tìm
hiểu chuyên đề: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là
một điều cần thiết đối với chúng ta.
Nội dung gồm 3 chương
•
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa việt nam.
•
Chương II. Thực trạng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa việt nam.
•
Chương III. Quan điểm – mục tiêu – bước đi và giải pháp của việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhóm 5
Trang 1
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
• Sự tồn tại khách quan phát triển nền kinh tế thị thường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở việt nam
*Quan niệm về kinh tế thị trường
- Kinh tế thị trường: là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó
toàn bộ các yếu tố “đầu vào và đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường.
*Tính tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính
lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ
cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là
tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát
khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và
động lực xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành
công cụ phát triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu
có chung cho toàn xã hội.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của
thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích
cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự
trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời
đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái
kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp
khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
1.1.2. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa – kinh tế thị trường
1.1.2.1.Điều kiện ra đời của kinh tế hàng hóa
Nhóm 5
Trang 2
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
- Quan hệ hàng hoá, tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến
kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn của phát triển kinh tế hàng hóa dựa
trên sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất.
Trong những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng
hóa tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định, hình thành nên
các chế độ kinh tế xã hội khác nhau. Vì vậy, ta có thể nói rằng:
Kinh tế hàng hóa: là một sản phẩm của quá trình phát triển của LLSX xã hội loài
người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều PTSX xã hội và đạt đến trình độ cao hơn
đó là kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên CNXH những điều kiện chung để kinh
tế hàng hóa xuất hiện vẫn tồn tại do đó sự tồn tại kinh tế hàng hóa ở nước ta là một
tất yếu khách quan. Bởi vì những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện và
tồn tại là:
+ Phân công lao động xã hội: Là sự phân chia lao động xã hội thành các
ngành, các nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội, phân công lao động xã hội tạo ra
sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa thành những ngành
nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một
sản phẩm nhất định. Song, cuốc sống của mỗi người lại cần rất nhiều loại sản phẩm
khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau,
trao đổi sản phẩm cho nhau.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: Sự
tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là
chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu về tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau nhưng họ
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất
và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người
khác phải thông qua sự mua bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái
hàng hóa.
Nhóm 5
Trang 3
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hòa và sản phẩm lao động
không mang hình thái hàng hóa.
Tại sao nước ta lại gọi là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần?
Đại hội Đảng lần thứ IX - ĐCS Việt Nam đã khẳng định mô hình nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa( gọi
tắt là kinh tế thị trường định hướng XHCN)
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự khác cơ bản nhất giữa nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt nam
với Kinh tế TBCN, đó là có sự quản lý của nhà nước trong quá trình xây dựng
CNXH, phát triển kinh tế phải đi đôi với ổn định chính trị trong xu thế toàn cầu hóa,
đảm bảo "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên
tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc bản chất của
CNXH.
1.2. Điều kiện phát triển kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không thống nhất với nhau, chúng khác
nhau về trình độ phát triển, về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Do
đó kinh tế thị trường cũng có hai điều kiện ra đời như kinh tế hàng hóa.
Phân công lao động xã hội: Là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng
những không mất đi mà nó còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân
công lao động từng khu vực từng địa phương phát triển, sự phát triển của phân công
lao động được thể hiện ở tính đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm khi
đưa ra trao đổi trên thị trường.
Tồn tại nhiều hình thức sở hữu: Đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp.
Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ
chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Nhóm 5
Trang 4
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
1.3. Đặc điểm kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
1.3.1. Nền kinh tế thị trường còn ở trình độ kém phát triển
- Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp. Trình độ
công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng xuất, chất lượng,
hiệu quả sản xuất còn thấp.
- Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng
của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp .Ngành nghề chưa phát triển, sự phân công hiệp
tác, chuyên môn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn
chế.
- Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Thị trường của nước ta đang
trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ thấp. Cơ cấu thị trường
chưa đầy đủ. Dung lượng thị trường còn ít và có phần rối loạn.Các yếu tố kinh tế thị
trường hình thành chưa đầy đủ. Chưa có thị trường sức lao động theo đúng nghĩa.
Thị trường tiền tệ chưa phát triển. Thị trường vốn chưa phát triển, còn sơ khai.
- Thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức
mua hàng hóa còn thấp, tỷ suất hàng hóa chưa cao.
- Còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp.
1.3.2. Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo
- Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế vừa có tính thống nhất
vừa mâu thuẫn nhau.
* Tính thống nhất: Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hóa tuy có
bản chất kinh tế khác nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh
tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung- cầu, tiến tệ, giá cả chung… Bởi vậy,
chúng hợp tác, thống nhất với nhau, đảm bảo mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc
lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
* Mâu thuẫn : Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế- xã hội riêng, chịu sự tác
động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác
nhau này mà bên canh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn khác
Nhóm 5
Trang 5
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển
theo phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế dựa trên chế
độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất giải quyết việc là, nhưng
vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự
phát, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại
đến lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực
hiện tốt vai trò chủ đạo của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản
lý vĩ mô kinh tế - xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo địng hướng xã
hội chủ nghĩa..
1.3.3. Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế "mở"
Đây là một đặc điểm khác biệt so với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi
mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của kinh tế nước ta trong điều kiện toàn
cầu hóa kinh tế.
* Lý do : Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đang diễn ra
quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, do đó sự phát triển của mỗi quốc gia đều có sự
phụ thuộc lẫn nhau.Vì vậy mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực
là tất yếu đối với nước ta.Có như vậy mới thu hút được vốn kỹ thuật , công nghệ hiện
đại, kinh nhghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh
của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn .
* Cách thức thực hiện :
+ Đa dạng hóa, đa phương hóa với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không
phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và
cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc
và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở những thị trường
mới, phát triển các mối quan hệ mới dưới mọi hình thức
+ Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực
hiện mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra cho từng giai đoạn cụ thể và phục vụ đắc lực mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhóm 5
Trang 6
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
+ Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự
cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn nhân lực
trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
1.3.4. Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
sự quản lý vĩ mô của nhà nước
* Ngày nay, cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại
của kinh tế thị trường” Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của
nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải nhà nước tư sản, mà là
nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do và vì dân.
*Tại sao phải có sự quản lý của nhà nước : Quản lý của Nhà nước nhằm sửa
chữa những khuyết tật của thị trường , thực hiện các mục tiêu xã hội , nhân đạo mà
bản thân cơ chế thị trường không làm được, đảm bảo nền kinh tế thị trường phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất
quan trọng . Nó bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc
biệt là bảo đảm công bằng xã hội.
* Nhà nước quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường
1.4. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán,
không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có
lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá,
các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ
mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp
của Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được
ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát
Nhóm 5
Trang 7
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo
ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà
nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối
với sản xuât thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.
1.5. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
+Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường
được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận
dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
+Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
+Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập
kinh tế thành công.Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và
theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại
qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng
nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa
phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được
chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
+Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
+Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được
khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
(Dẫn nguồn: Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.)
Nhóm 5
Trang 8
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Chương II. Thực trạng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN VN
- Sau hơn 20 năm đổi mới tiềm lực kinh tế Việt Nam được nâng cao, đất nước
đã thoát khỏi tình trạng nghèo,kém phát triển.Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình
quân 7,2% trên năm. Tổng sản lượng trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế
đạt trên 106 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt 1160 USD. Tỷ lệ đô thị hóa tăng
từ 24,2% năm 2000 lên 30% năm 2010. Trong điều kiện kinh tế toàn cầu hậu khủng
hoảng phục hồi chậm, nhưng kinh tế Việt Nam đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm,
từng bước phục hồi và tăng trưởng khá nhanh. Trong năm 2010: GDP quý I tăng
5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Tính chung cả
năm, GDP tăng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,5%), vẫn thuộc nhóm có
mức tăng trưởng khá cao trong khu vực và trên thế giới, trong đó, tất cả các ngành,
lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với năm trước. Trong 6,78% tăng
chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78%, đóng góp
0,47 điểm phần trăm; công nghiệp xây dựng tăng 7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần
trăm; dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm
2.1 Sản xuất công nghiệp : tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột khi tiếp tục duy
trì mức tăng trưởng cao trong nhiều tháng liên tiếp. Riêng tháng 12, đạt tốc độ ngang
với mức trước khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới (16,2%. Cả năm
2010, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 794.200 tỉ đồng, tăng 14% và vượt kế hoạch
năm (12%). Đặc biệt, cơ cấu sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng
lớn nhất (gần 90%) và giảm dần công nghiệp khai thác tài nguyên.
2.2 Chính sách tiền tệ : đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm
phát, bảo đảm được các mục tiêu đề ra từ đầu năm: đến 31/12/2010, tổng phương
tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009; huy động vốn tăng 27,2%; tín
dụng tăng 29,81%, trong đó tín dụng VND tăng 25,3%; tín dụng ngoại tệ tăng
49,3%.
Nhóm 5
Trang 9
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
2.3 Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại
tệ được cải thiện đáng kể (đến ngày 31/12/2010, tỉ giá USD/VND bình quân liên
ngân hàng tăng 5,52% và tỉ giá mua bán của các ngân hàng thương mại tăng 5,53%).
Giá vàng trong nước diễn biến tương đối sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá
vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
2.4 Tổng kim ngạch xuất khẩu : năm 2010 đạt 71,6 tỉ USD, tăng 25,5% so
với năm 2009, vượt xa kế hoạch Quốc hội đề ra là 60 tỉ USD (tăng trên 6%) cũng
như mức đỉnh 62,7 tỉ USD năm 2008. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm
nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng hóa so với năm trước, trong đó, nhóm hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%; nhóm hàng công
nghiệp năng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống 27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm
từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm vàng từ 4,6% xuống 4%. Đặc biệt, Việt
Nam đã có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, tăng 6 mặt hàng so
với năm 2009. Lần đầu tiên, dệt may đạt trên 11 tỉ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất
khẩu trong 26 mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đã vượt dầu thô “soán ngôi” top 3
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
2.5 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu : đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm
trước. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao, bao gồm xăng dầu, tăng
225,2%; lúa mì tăng 70,4%; kim loại thường khác tăng 57,7%; nguyên phụ liệu dệt
may, giầy dép tăng 36%; chất dẻo tăng 33,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng
30,7%; vải tăng 27,2%…
Nhờ kiểm soát chặt nhập khẩu và thành tích của xuất khẩu nên nhập siêu hàng
hóa cả năm khoảng 12,4 tỉ USD, bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn mức
20% của kế hoạch và thấp hơn khá nhiều so với mức 22,5% của năm trước.
Do vẫn còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
thế giới, thu hút FDI đạt 18,6 tỉ USD, giảm 19,5% so với mức 23,1 tỉ USD của năm
2009, không đạt mục tiêu thu hút 22 – 25 tỉ USD trong năm 2010. Điểm sáng nhất
trong thu hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm
trước và chỉ cách kỉ lục của năm 2008 là 500 triệu USD; nhóm ngành sản phẩm chế
biến vươn lên dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD đăng kí và giúp số dự án nhóm này
Nhóm 5
Trang 10
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
tăng gần gấp rưỡi. Đây được đánh giá là tín hiệu tốt đối với nền kinh tế trong việc thu
hẹp thâm hụt thương mại trong tương lai.
(Trích nguồn : website tổng cục thống kê )
* Những hạn chế và yếu kém:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số
ngành, cơ sở đã được trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại do liên doanh, liên kết với
nước ngoài. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng, năng xuất hiệu quả và sức mạnh cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Tăng trưởng
chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, yếu tố vốn đóng góp 52,7%
vào tăng trưởng, gấp gần 3 lần mức đóng góp của nhân tố lao động(19,1%) đóng góp
của yếu tố năng suất tổng hợp còn thấp(28,2%)
- Chất lượng tăng trưởng không cao, thể hiện ở tính hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp; tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều
rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên
cơ sở năng suất lao động và nâng cao hiệu quả. Năm 2010, tổng vốn đầu tư toàn xã
hội theo giá thực tế đạt 830,3 ngàn tỉ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009. Với kết quả
này, tỉ lệ đầu tư so với GDP đã giảm từ mức 42,8% năm 2009 xuống còn 41,9% vào
năm 2000.
- Hiệu quả của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động, thâm hụt
ngân sách liên tục cao, nợ công tăng nhanh. Theo Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách
năm 2010 dự kiến giảm 0,4 điểm % GDP xuống còn 5,8% GDP (dự toán là 6,2%
GDP), vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Do thường xuyên trong tình
trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua.
Theo Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ
quốc gia bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP.
- Lạm phát cao gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng
tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu
năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%.
- Thâm hụt thương mại, thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao trong khi
dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp, gây sức ép lên tỉ giá. Nhập siêu năm 2010 đạt mức
dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, nhưng vẫn ở mức cao. Nếu loại trừ đá quý, kim loại
Nhóm 5
Trang 11
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
quý xuất khẩu thì khả năng nhập siêu vẫn trên 23%. Đây là nhân tố chính làm cán
cân vãng lai thâm hụt khoảng 10% GDP và cán cân thanh toán thâm hụt khoảng 4 tỉ
USD. Nhập siêu cao và kéo dài trong nhiều năm, nhất là từ năm 2007 cho đến nay đã
làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tăng nợ quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng
nội tệ. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ công có
xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế trong những năm tới đây.
- Tỉ giá, lãi suất có nhiều biến động. Năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam
đã chứng kiến sự biến động mạnh của tỉ giá USD/VND, ở một số thời điểm, tỉ giá
USD/VND trên thị trường tự do đã tăng lên rất mạnh. Trong năm 2010, NHNN đã
thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá. Cùng với những biến động mạnh về tỉ giá, lãi suất
trong năm cũng diễn biến khá phức tạp và tăng cao, đặc biệt vào thời điểm cuối năm
khi lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ 11 – 11,5lên đến 17% ở một số ngân hàng
thương mại với những kì hạn ngắn do việc triển khai chương trình huy động lãi suất
cao của Techcombank.
- Thị trường chứng khoán biến động thất thường. Tính đến ngày 29/12/2010,
tổng vốn hóa thị trường của hai sở giao dịch chứng khoán niêm yết của Việt Nam là
37,128 triệu USD, tương đương khoảng 38,62% GDP. Năm 2010, do chịu tác động
từ những bất ổn vĩ mô và khó khăn của nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến dòng tiền vào
thị trường chứng khoán sụt giảm.
Nhóm 5
Trang 12
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Chương III. Quan điểm – mục tiêu – bước đi và giải
pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCNVN
3.1. Quan điểm Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
việt nam
3.1.1. Sự đổi mới tư duy, nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Quá trình nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình hoàn thiện tư duy lý luận về kinh tế và tổng kết thực tiễn phát triển
của đất nước của Đảng. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986),
Đảng đã phê phán những hạn chế, yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đưa ra những quan niệm mới về
con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, về cơ
cấu kinh tế và thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, thị trường.
Đồng thời cũng đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các
hình thức kinh doanh phù hợp. Coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội; chú ý chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có nhận thức mới
về chính sách xã hội.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991), Đảng nhận
định nền kinh tế đất nước là đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và khẳng
định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến
lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, với những kết quả đạt được bước
đầu, Đảng nhận định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến
sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân
tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường
Nhóm 5
Trang 13
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
xã hội chủ nghĩa”. Như vậy chúng ta đã có bước đột phá về tư duy về kinh tế thị
trường, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng
và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khẳng định rõ ràng: “Phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế”(5). Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được làm sáng rõ hơn, cụ thể
với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta trước đây được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
Nhóm 5
Trang 14
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản,
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X được sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng đó là:
• Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh
• Do nhân dân làm chủ
• Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
• Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
• Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
• Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
• Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện
đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có
tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế, phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa
các vùng, miền, thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng
thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam cần luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi chỉ
có như vậy việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới thực sự đi theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này một mặt quá trình xây dựng
Nhóm 5
Trang 15
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, mặt khác Đảng cũng cần phải luôn đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu, đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước
3.1.2. Quan điểm phát triển
+ Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu,
chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế
phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
+ Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
+ Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
+ Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh
nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh
và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân
phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Nhóm 5
Trang 16
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
+ Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ
ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế
và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng
và có hiệu quả.
Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có
sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước,
góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn
chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích
quốc gia.
3.2. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
3.2.1. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
* Mục tiêu phấn đấu 2011 – 2015:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm. Năm
2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD, cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%, sản phẩm công nghệ cao
và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP, tỉ lệ lao động qua đào tạo
đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, Vốn đầu tư
toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước
đạt 23 - 24% GDP, giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015.
Nhóm 5
Trang 17
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng
1%. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân
2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%...
• Mục tiêu phấn đấu đến 2020:
- Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân
7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010,
GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng
85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ
cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm
khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỉ lệ lao động nông
nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%, giảm
tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng
mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị
hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
3.3. Bước đi – định hướng phát triển kinh tế
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
Nhóm 5
Trang 18
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước
được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của
người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển. Các
nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều
tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường, xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công
nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông,
lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các
vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo
điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3.4. Những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của toàn bộ quá
trình cách mạng nước ta do Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo. Hơn 10 năm qua,
Đảng và nhà nước ta đã thực thi nhiều giải pháp lớn để phát triển kinh tế nhằm thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Nhóm 5
Trang 19
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Thứ nhất: Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội ở nước ta trong
phạm vi cả nước, rồi tiến tới hợp tác phân công lao động quốc tế. Việc đẩy mạnh
phân công lao động là một điều kiện cần thiết hiện nay đối với nước ta. Chúng ta
đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế của chúng ta đang bắt kịp
với kinh tế thị trường với nhiều ngành nghề cũng như với nhiều các tiến bộ trong quá
trình sản xuất kinh doanh, phân công lao động là điều kiện để nước ta có lợi thế so
sánh trong việc sản xuất thúc đẩy xuất khẩu. Việc đẩy mạch phân công lại lao động
xã hội cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước. Công nghiệp hóa ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai chiến lược công nghiệp
hóa theo hướng xuất khẩu. Điều đó cho phép chúng ta vừa đa dạng hóa ngành nghề,
vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ khu vực và
quốc tế.
Thứ hai: Thực hiện đa dạng hóa sở hữu, tức là tạo ra một sự tách biệt nhất
định về kinh tế. Đây chính là cơ sở cho kinh tế thị trường phát triển. Đối với nước ta,
quá trình đa dạng hóa sở hữu được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Đó là phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản
nhà nước. Trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tuy
nhiên Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách phù hợp để khuyến khích và
tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Chỉ như vậy chúng ta
mới phát huy được hết tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho
nhân dân và xây dựng đất nước vững mạnh, giàu đẹp.
Thứ ba: Cải tiến khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào thực tiễn, đẩy mạnh quá
trình CNH-HĐH. Nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài, cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp đã hạn chế đáng kể sự phát triển khoa học công nghệ của
nước ta. Tuy nhiên hiện nay, nước ta đã mở cửa hội nhập, giao lưu, quan hệ với
nhiều nước tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, hơn nữa chúng ta
cũng phải đầu tư phát triển hệ thống kỹ thuật hạn tầng để thu hút đầu tư của nước
ngoài. Và cũng chỉ có cải tiến kỹ thuật, phát triển cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng giao
thông, bến cảng thì mới làm cho nước ta ngày một phát triển, hình thành và phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội.
Nhóm 5
Trang 20
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Thứ tư: Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, điều chỉnh chính sách tài
chính tiền tệ một cách hợp lý . Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
năm 2011 trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả
hàng hóa tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có
nguy cơ lan rộng, đồng USD - đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế bị giảm
giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị trường tài
chính quốc tế. Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết cắt giảm
các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng
lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương
mại, kiềm chế tốc độ tăng giá.
Thứ năm: Phải xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường như: thị
trường tư liệu sản xuất, thị trường hành tiêu dùng, thị trường vốn, thị trường hàng
hóa sức lao động, thị trường bất động sản…phải mở rộng thị trường và phần hướng
ngoại. Việc xây dựng và phát triển các loại thị trường sẽ tạo điều kiện cho nhiều
thành phần kinh tế phát triển, nó sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế còn thấp kém,
tình trạng thất nghiệp còn nhiều, nguồn nhân lực và tài nguyên khoáng sản cũng như
những kinh nghiệm sản xuất truyền thống chưa được khai thác, tận dụng triệt để. Vì
vậy cần thiết phải phát triển các loại thị trường, nhưng đồng thời với quá trình xây
dựng và phát triển một vấn đề quan trọng là phải thực sự cân bằng giữa các loại thị
trường. Sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình
phát triển thị trường. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu
dùng, giữa cung và càu, giữa hàng và tiền. Điều đó sẽ tạo ổn định kinh tế - xã hội và
phát triển đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, nhà nước thực hiện sự quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Sự quản
lý vĩ mô của nhà nước phải tôn trọng tính khách quan của kinh tế thị trường, tôn
trọng độc lập tự chủ của các chủ thể kinh tế, tôn trọng sự hình thành giá cả thị trường.
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm phát huy vai trò to lớn và những mặt tích
Nhóm 5
Trang 21
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
cực của kinh tế thị trường sửa chữa những khuyết tật của nó. Để quản lý vĩ mô nền
kinh tế, Nhà nước phải thực hiện các chức năng sau:
+ Nhà nước phải định hướng cho kinh tế thị trường phát triển, định hướng xã hội chủ
nghĩa thông qua các hiến lược, kế hoạch. Các quy hoạch đầu tư và thực hiện những
dự án kinh tế để cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng. Nhà nước phải xây
dựng một hệ thống pháp luật, chức năng của nhà nước, nhà nước phải có những
chính sách nhằm chống khủng hoảng, thất nghiệp, thât bại, những khuyết tận của nền
kinh tế thị trường, thực hiện phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản quốc
gia. Để thực hiện những chức năng đó nhà nước phải sử dụng luật để quản lý kinh tế,
sử dụng kế hoạch hóa là công cụ quản lý nhà nước, sử dụng chính sách tài chính như
một công cụ để quản lý vĩ mô. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đôi ngoại. Trên cơ sở đảm bảo độc lập tự
chủ, hợp tác cùng có lợi.
Thứ bảy: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với phương châm:
Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Trên thế giới cuộc cách
mạng và khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, nền sản xuất vật chất
và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của các dân tộc trên thế giới. Nó tạo ra thời cơ phát triển nhanh cho các nước,
vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế.
Việt nam thuộc vào nước chậm phát triển, trong khi lực lượng sản xuất thế giới đạt
đến trình độ quốc tế hóa, thì ở nước ta lực lượng sản xuất kinh tế thế giới bỏ xa
chúng ta hàng hai, ba thế kỷ. Vì vậy để phát triển nền kinh tế đất nước, tránh nguy cơ
tụt hậu thì chúng ta phải biết phát huy ưu điểm của kinh tế đối ngoại.
Thứ tám: Phát triển nghiên cứu giáo dục, đào tạo con người xã hội chủ nghĩa
là vấn đề cấp bách lúc này của đất nước ta. Vì vậy tất cả các chủ trương, đường lối,
chính sách, giải pháp đều phải thông qua hoạt động có ý thức của con người mới có
thể trở thành hiện thực được. Do đó giáo dục đào tạo con người xã hội chủ nghĩa
nằm trong chiến lược về nguồn lực con người của Đảng và nước ta. Hiện nay hệ
thống giáo dục của nước ta ở tất cả các cấp còn nhiều điều chưa hợp lý, nhiều vấn đề
còn nằm trong quá trình thử nghiệm. Hệ thống các môn học cho các cấp chưa thống
nhất, chất lượng đào tạo xuống cấp. Vì vậy chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện hệ
Nhóm 5
Trang 22
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
thống giáo dục, nhất là về khâu tổ chức và phân cấp. Hoàn thiện các chương trình
giáo dục cho từng cấp, từng nghề theo một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất trong cả
nước, có chế độ ưu tiên đặ biệt cho đội ngũ giáo viên, chú trọng cả mặt đạo đức, tài
năng và thể chất con người trong giáo dục và đào tạo. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình
và nhà trường trong giáo dục, chỉ như vậy chúng ta mới có thể thực hiện thành công:
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước, phục vụ sự
nghiệp xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ chín: Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nền
kinh tế thị trường chỉ có thể hoạt động bình thường nếu có hệ thống pháp luật tương
đối hoàn chỉnh và ngày càng được hoàn thiện. Trong điều kiện nước ta, vấn đề này
đang đặt ra rất cấp bách. Những năm đổi mới, nhà nước ta đã từng bước tập trung
xây dựng hệ thống pháp luật. Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu và
chưa đồng bộ. Nó đã tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng để mưu cầu lợi ích cá nhân,
gây ra lạn tham nhũng, lạm phát và bất ổn cho xã hội vì vậy phải sớm hoàn thiện hệ
thống pháp luật của đất nước.
Thứ mười: Đảm bảo và giữ vững quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng cộng sản Việt nam đối với toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta - đó là giải
pháp lớn có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Sự tan rã
dẫn tới mất quyền lãnh đạo của các Đảng cộng sản trong hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là những bài học quí báu cho nước ta. Đảng và nhà
nước ta phải có những chính sách thiết thực phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân để tạo lòng tin của nhân dân vào Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
trong mọi công việc quan trọng của đất nước. Đưa đất nước phát triển và giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tất cả các giải pháp trên đều có chung mục đích: “Làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh – xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”.
Nhóm 5
Trang 23
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Kết luận
Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ
đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự
lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính
cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn
đề lớn, muốn lắm bắt được nó thì phải có thời gian nghiên cứu lâu dài và tỉ mỉ. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu nó là hết sức cần thiết hiện nay đối với nước ta. Vì nó có tính
chất quyết định trong việc phát triển đất nước và đưa nước ta đi đúng hướng tiến lên
chủ nghĩa xã hội, trong thực trạng kém phát triển của nền kinh tế - xã hội nước ta.
Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hướng đi đúng,
chỉ có như vậy thì nền kinh tế của nước ta mới phát huy được mọi tiềm năng sẵn có,
hội nhập và phát triển cùng với nền kinh tế thế giới, xây dựng đất nước ta giàu mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy vẫn còn những hạn chế và tiêu cực nhất định,
nhưng nếu có sự đổi mới, rút kinh nghiệm thì chúng ra hoàn toàn có thể vượt qua
được.
Việc nước ta lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên, thực tế thì không phải quốc
gia nào cũng giữ vững được chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững được định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Nhưng Việt Nam là một quốc gia có những đặc trưng
không giống với các quốc gia khác, bởi vậy với những chính sách phù hợp, sựu đồng
lòng nhất trí của nhân dân thì đất nước ta hoàn toàn có thể thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh” xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa.
Nhóm 5
Trang 24
Chuyên đề kinh tế chính trị Mác_Lênin
Tài liệu tham khảo
Một số trang web
+
+
+
+
+ Tài liệu thầy gửu và một số tài liệu của khóa trước
Nhóm 5
Trang 25