MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm”.
Câu ca dao nghe mượt mà chất phác làm sao! Như mời gọi khách phương xa
về Đồng Tháp thưởng thức “bông súng đồng chấm mắm kho”, một món ăn dân dã
nhưng đậm đà hương vị quê hương, giàu lòng mến khách mà không phải nơi nào
cũng có. Qua đó, ca dao không chỉ là nơi để người dân Đồng Tháp thể hiện niềm tự
hào của mình về quê hương mà đó còn là khúc ca trữ tình trong những đêm trăng
thanh gió mát hay những buổi chiều tàn trên cánh đồng xa nghe tiếng vịt kêu chiều
mà lòng quặn nhớ khôn nguôi “người bạn” thuở nào nay chỉ còn là kỉ niệm:
“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau”.
Qua ca dao, ta có thể hiểu phần nào về mảnh đất và con người Đồng Tháp dù
chưa đặt chân đến, lời ca tạo cảm giác cho người đọc như muốn được thấy và đến
đó ngay. Cũng như ca dao các tỉnh khác: Tiền Giang, Bến Tre, Hậu Giang, Kiên
Giang… cùng thuộc địa phận cực Nam tổ quốc, ca dao Đồng Tháp bên cạnh những
nét tương đồng đã tạo nên nét độc đáo, nổi bật riêng cho mình.
Từ lâu, ca dao Đồng Tháp đã được sưu tầm – biên soạn nhưng đến nay chưa
có công trình nào đi sâu tìm hiểu và đưa ra những nhận định, đánh giá riêng về ca
dao Đồng Tháp. Là người con sinh ra trên mảnh đất Nam Bộ, thuở nhỏ đã tiếp xúc
với ca dao, lớn lên có điều kiện học tập, nghiên cứu. Đồng thời, người viết muốn đi
sâu khảo sát và tìm hiểu những đặc điểm đã tạo nên nét riêng cho ca dao Đồng
Tháp. Qua đó đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan. Người viết chọn
“Nhận định, đánh giá ca dao Đồng Tháp” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu ca dao Đồng Tháp đã được nhiều tác giả
1
quan tâm, tìm hiểu. Theo đó, có thể chia tài liệu nghiên cứu ra thành hai nhóm: tài
liệu sưu tầm, biên soạn và tài liệu nghiên cứu ca dao Đồng Tháp.
2.1. Tài liệu sưu tầm, biên soạn về ca dao Đồng Tháp
Qua khảo sát, phân loại người viết tập hợp được 4 công trình sưu tầm, biên
soạn tiêu biểu như sau:
Khoa Ngữ Văn Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb Giáo dục [19]. Đây là công trình sưu tầm - biên soạn tập thể, giới
thiệu một vùng văn học dân gian quan trọng cả nước. Công trình đã bao quát tương
đối đầy đủ các thể loại văn học dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm:
thể loại văn xuôi và văn vần dân gian. Trong đó, ca dao Đồng Tháp là một trong 12
tỉnh được sưu tầm - biên soạn với số lượng 101 câu trên tổng 1018 câu, chiếm tỉ lệ
9,9%. Xuất hiện trong bốn chủ đề của ca dao đồng bằng sông Cửu Long: Quê
hương đất nước (15 câu ca dao), lao động sản xuất (4 câu ca dao), đời sống tình
cảm (76 câu ca dao), phong tục tập quán và tâm lí xã hội (6 câu ca dao).
Nhìn chung, Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long đã đề cập đến ca
dao Đồng Tháp với số lượng khá phong phú. Tuy nhiên, công trình chỉ dừng lại ở
việc sưu tầm và biên soạn chưa đi sâu tìm hiểu nội dung cũng như hình thức nghệ
thuật của ca dao Đồng Tháp.
Đỗ Văn Tân (chủ biên), (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở văn hóa và
Thông tin Đồng Tháp. Trong công trình này, tác giả đã khẳng định vai trò và vị trí
của ca dao Đồng Tháp: “Ca dao sưu tầm ở Đồng Tháp như một âm vang tự nhiên
của tâm hồn con người đã bao đời trụ bám trên mảnh đất này” [18, tr.8]. Với dung
lượng 15 trang (trong tổng 152 trang) nhóm biên soạn đã khái quát sơ lược về đặc
điểm vùng đất và con người Đồng Tháp qua các chủ đề:
Chủ đề chống thực dân đế quốc: Ở chủ đề này đáng chú ý là hệ thống những bài
ca dao về các vị lãnh tụ nghĩa quân và những bài ca bộc lòng căm thù cao độ không
đội trời chung với kẻ thù.
Chủ đề ca ngợi Đảng và Bác Hồ: Thể hiện lòng lạc quan tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, Bác Hồ kính yêu có nội dung phong phú, sâu sắc.
2
Chủ đề tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình: Chủ đề tình yêu đôi lứa chiếm
số lượng khá lớn, với nhiều trạng thái, cung bậc cảm xúc trong tình yêu. Bên cạnh đó,
tính cách con người Đồng Tháp được thể hiện một cách hồn nhiên, chất phác, thật thà
nhưng đồng thời cũng không kém phần mãnh liệt và hài hước.
Phần còn lại của công trình là ca dao sưu tầm và được chia thành năm chủ đề
chính: đất nước và con người Đồng Tháp; quan hệ gia đình, xã hội; tình yêu, hôn
nhân; ca ngợi Đảng, Bác Hồ; chống thực dân, đế quốc.
Có thể nói, công trình ca dao Đồng Tháp Mười đã thể hiện khá đầy đủ về số
lượng ca dao cũng như đi sâu phân tích vào từng chủ đề. Tuy nhiên, công trình chưa
đưa ra những nhận xét, đánh giá về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật ca dao
Đồng Tháp.
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Tổng tập văn học
dân gian người Việt, tập 15 ca dao, Nxb Khoa học Xã hội[11]. Công trình này đã
chọn và giới thiệu 11.001 lời ca dao cổ truyền theo các khía cạnh nội dung của
chính chủ đề: Đất nước và lịch sử; quan hệ gia đình, xã hội; lao động và nghề
nghiệp; sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; những lời bông đùa, khôi hài, giải trí; những
nỗi khổ, những cảnh sống lầm than, những thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội; kinh
nghiệm sống và hành động. Trong phần ca dao người Việt với chủ đề “Đất nước và
lịch sử” công trình đã đề cập đến 10 lời ca dao Đồng Tháp. Trong đó 8 lời ca dao
thể hiện nội dung về danh lam thắng cảnh, trai thanh gái lịch, phong tục thuần hậu,
nét sống đẹp và 2 lời thể hiện đặc sản vùng Đồng Tháp. Nhìn chung công trình trên
đã đề cập đến “ca dao Đồng Tháp” tuy nhiên, chỉ mang tính chất khảo sát, sơ lược ở
một vài tiểu mục, khía cạnh chưa đi sâu vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của ca
dao Đồng Tháp.
Quế Chi (2005), Câu đố tục ngữ - ca dao Việt Nam, Nxb Thanh niên[2].
Công trình đã sưu tầm và giới thiệu 3 thể loại văn học dân gian như: câu đố, tục
ngữ, ca dao. Ở thể loại ca dao tác giả chia thành 9 chủ đề: những bài đồng dao, tình
cảm gia đình, đạo đức giáo dục, công việc - lao động - văn hóa, chống tệ nạn xã hội,
con người - phong tục, chống phong kiến thực dân, tình yêu đôi lứa - vợ chồng và
trong chủ đề “đất nước - lịch sử” tác giả đã đề cập đến đặc sản, vùng đất Đồng Tháp
3
qua hai câu ca dao “Muốn ăn bông súng mắm kho / Thì vô Đồng Tháp ăn no đã
thèm; Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh / Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm”.
Nhìn chung, công trình có đề cập đến ca dao Đồng Tháp nhưng chỉ mang tính chất
liệt kê qua tiểu mục, chưa thật sự đi sâu vào từng chủ đề ca dao Đồng Tháp.
2.2. Tài liệu nghiên cứu về ca dao Đồng Tháp
So với tài liệu sưu tầm - biên soạn thì nhóm tài liệu nghiên cứu phong phú
hơn, trong đó có thể kể đến bài viết của các tác giả như:
Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao - dân ca
Nam Bộ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh [5]. Đây là công trình sưu tầm - biên soạn ca dao
của 9 tỉnh Tây Nam Bộ bao gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre…trong đó có
Đồng Tháp. Trong phần I tiểu luận, tác giả đã đi sâu tìm hiểu bốn yếu tố trong ca
dao Nam Bộ: vài nét về miền đất Nam Bộ, vài nét về nội dung ca dao - dân ca Nam
Bộ, một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao - dân ca Nam Bộ, ca dao - dân ca Nam
Bộ những biểu hiện sắc thái địa phương. Trong quá trình tìm hiểu “Vài nét về miền
đất Nam Bộ” tác giả Trần Tấn Vĩnh đã đề cập đến ca dao Đồng Tháp trong cuộc
đấu tranh chống thực dân phong kiến cùng nghĩa quân Trương công Định, Nguyễn
Trung Trực, Võ Duy Dương…:“Bao giờ hết cỏ Tháp Mười, / Thì dân Nam mới hết
người đánh Tây”. Cũng trong phần tiểu luận này, bài viết “Vài nét về nội dung ca
dao - dân ca Nam Bộ”, tác giả Nguyễn Tấn Phát đã khắc họa nét hoang vu của vùng
đất Nam Bộ qua hai câu ca dao Đồng Tháp: “Chiều chiều én liệng trên trời, / Rùa
bò dưới nước, khỉ ngồi trên cây”, “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn, / Xuống bưng sợ đĩa
lên rừng sợ ma”. Tựu chung, “Ca dao - dân ca Nam Bộ” đã đề cập đến ca dao
Đồng Tháp. Tuy nhiên, chỉ mang tính chất sơ lược chưa thật sự đi sâu tìm hiểu nội
dung và nghệ thuật ca dao Đồng Tháp.
Nguyễn Thị Phương Châm (2013), Ngôn ngữ và thể thơ trong ca dao người
Việt ở Nam Bộ, Nxb Thời đại [1]. Công trình này đã nghiên cứu ngôn ngữ và thể
thơ trong ca dao của các tỉnh Nam Bộ, trong đó có ca dao Đồng Tháp. Về ngôn ngữ,
tác giả tiến hành nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản như: Cách sử dụng và tổ chức
ngôn ngữ (dùng từ cổ, từ Hán Việt, dùng ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường,
dùng phương ngữ…), cách dùng tên riêng chỉ địa điểm. Trên cơ sở đó chỉ ra những
4
nét đặc trưng của nó so với ca dao truyền thống và ca dao các các vùng Bắc Bộ,
Trung Bộ. Về nghệ thuật, công trình đã tìm hiểu về kết cấu vần điệu và các thể thơ
tiêu biểu như: lục bát, song thất lục bát, song thất, lục bát gián thất và các biến thể
của chúng. Như vậy, ca dao Đồng Tháp đã được tác giả đề cập đến trong công trình
nghiên cứu “Ngôn ngữ và thể thơ trong ca dao người Việt ở Nam Bộ”. Quyển sách
này là tư liệu bổ ích cho người viết trong qua trình nhận xét và đánh giá ca da Đồng
Tháp.
Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, Nxb Trẻ [6].
Công trình đã sưu tầm và nghiên cứu các thể loại văn học dân gian Việt Nam. Qua
đó, nội dung được tác giả triển khai qua 5 chương. Trong chương 4: “Văn học dân
gian ghi nhận những sự kiện từ thời sự, lịch sử, nhân vật, địa danh đến những sự
kiện thường thức, có khả năng lưu truyền từ đời nầy sang đời kia và phổ biến từ
vùng này sang vùng khác” khi đề cập đến một số địa danh thuộc miền Tây Nam Kì
tác giả đã nhắc đến địa danh Đồng Tháp qua câu ca dao: “Muốn ăn bông súng mắn
kho / Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm”. Nhìn chung, công trình Diện mạo văn
học dân gian Nam Bộ đã đề cập đến ca dao Đồng Tháp nhưng chỉ mang tính chất
liệt kê địa danh, không đi sâu phân tích, tìm hiểu cụ thể.
Vũ Thị Thu Hương (2000), Ca dao Việt Nam – những lời bình, Nxb Văn hóa
- Thông tin [7]. Đây là công trình nghiên cứu gồm hai phần: Phần I: Những điểm
nổi bật của ca dao Việt Nam, Phần II: Đến với những bài ca dao tiêu biểu với bài
viết “Trong đầm gì đẹp bằng sen” tác giả Huy Cận đã so sánh câu ca dao “Tháp
-muời đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” với câu ca dao:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng, lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Theo Huy Cận, hình ảnh “hoa sen” trong sạch giữa bùn nhơ trong câu ca dao
thứ hai được hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen thể hiện một bông
hoa thật với đủ màu sắc lá xanh, bông trắng, nhị vàng. Bên cạnh đó, hoa sen còn thể
5
hiện cho phẩm chất cao đẹp, tinh khiết của một nhà nho sống giữa bùn nhơ mà vẫn
giữ được cái thanh tao, trong sáng. Huy Cận cho rằng câu ca dao trên hoàn toàn
khác hẳn với tiếng nói trong câu ca dao Đồng Tháp mà tác giả gọi là ca dao mới:
“Tháp - mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
“Bởi vì ở đây Tháp – mười và hoa sen không hề mâu thuẫn với nhau mà là
một khối thống nhất. Có hoa sen là vì có Tháp - mười. Cũng như có cụ Hồ là vì có
dân tộc Việt Nam. Tiếng hát sao mà thoải mái, hồn nhiên, trong sáng” [5, tr.274].
Qua bài viết, Huy Cận đã đề cập đến ca dao Đồng Tháp nhưng tác giả không
xem ca dao Đồng Tháp là đối tượng chính cho bài viết mà đó là yếu tố để so sánh
nhằm khắc họa và làm nổi bật nội dung, hình thức câu ca dao “Trong đầm gì đẹp
bằng sen / Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng....”.
Công trình nghiên cứu “Địa danh trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long”,
luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hùng Cường chuyên ngành Văn học Việt
Nam, Trường Đại học Cần Thơ [3].Trong chương 1: “Những vấn đề chung” công
trình đã đề cập đến 3 câu ca dao có liên quan đến địa danh Đồng Tháp, chương 2:
“Phân loại địa danh trong ca dao Đồng Tháp” có 6 câu ca dao Đồng Tháp, chương
3: “Giá trị biểu đạt của địa danh trong ca dao” có 21 câu. Như vậy, địa danh trong
ca dao Đồng Tháp được tác giả đề cập khá nhiều trong bài viết.
Công trình nghiên cứu “Đặc điểm của những ca dao đồng bằng sông Cửu
Long chứa yếu tố sông nước”, luận văn Thạc sĩ của tác giả Lý Thanh Kiều chuyên
ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ [9]. Trong chương 1: “Khái
quát về ca dao và văn hóa sông nước đồng bằng sông Cửu Long”, yếu tố tự nhiên
của vùng đồng bằng sông Cửu Long được tác giả đề cập qua ca dao Đồng Tháp:
“Tháp Mười nước mặn, đồng chua / Nửa mùa nắng cháy, nửa mùa nước dâng”.
Bên cạnh đó, nghề lúa nước ở Đồng Tháp là một trong những nghề phổ biến của
Nam Bộ được tác giả thể hiện qua câu: “Ai ơi về miệt Tháp Mười / Cá tôm sẵn bắt
lúa trời sẵn ăn”. Chương 2: “Văn hóa sông nước trong nội dung của ca dao Đồng
bằng sông Cửu Long”, văn hóa ẩm thực trong cách ăn truyền thống của người dân
6
Nam Bộ chủ yếu là các loại động – thực vật đồng ruộng: “Tháp Mười lắm rạch
nhiều kinh / Lắm tôm nhiều cá tràm xanh lúa vàng”, “Muốn ăn bông súng mắm
kho / Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm”. Chương 3: “Cấu trúc, hình ảnh của ca dao
đồng bằng sông Cửu Long”, trong phần tiểu mục “từ ngữ dùng để gọi định danh,
địa danh gắn liền với sông nước” địa danh Ngã Sáu, Tháp Mười của Đồng Tháp
được tác giả đề cập qua câu: “Ai về Ngã Sáu ấp Trung, / Cho tôi nhắn gởi về trong
Tháp Mười”. Như vậy, công trình đã đề cập đến yếu tố tự nhiên, văn hóa ẩm thực
và từ ngữ dùng để gọi định danh, địa danh gắn liền với yếu tố sông nước của ca dao
Đồng Tháp trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh những công trình vừa nêu đã có một số bài viết nghiên cứu về ca
dao Nam Bộ nói chung và ca dao Đồng Tháp nói riêng. Qua đó, người viết rút ra
được những nội dung đề cập đến ca dao Đồng Tháp:
Trên trang Văn học và ngôn ngữ của Trường Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, có bài viết “Ca dao Nam Bộ - ca dao
của vùng đất mới” [23] của tác giả Trần Văn Nam đã khắc họa vùng đất Nam Bộ
qua ba đặc điểm nổi bật: vẻ hoang vu của thiên nhiên - một dấu ấn trong những bài
ca của thiên nhiên đất nước, hình ảnh của người đi khai hoang, ca dao Nam Bộ - ca
dao vùng sông nước. Tính chất hoang vu của vùng đất Nam Bộ được thể hiện thông
qua hình ảnh thiên nhiên và vùng đất của ca dao Đồng Tháp: “Tháp Mười nước
mặn, đồng chua / Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng”, “Tháp Mười sình
nghiệp phèn chua / Hổ mây, cá sấu thi đua vẫy vùng” …chính nét hoang vu đó đã
tạo nên những bức tranh đẹp theo dòng thời gian nhờ vào bàn tay lao động của con
người: “Ai ơi về miệt Tháp mười / Cá tôm sẵn bắt lúa trời sẵn ăn”. Dấu chân của
những người đi khai hoang trên mảnh đất Nam Bộ đã lùi dần vào quá khứ thay vào
đó là những đặc sản của từng vùng trên mảnh đất Nam Bộ mà Đồng Tháp là một
trong những địa danh nổi tiếng được tác giả đề cập: “Muốn ăn bông súng cá kho /
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm”.Hình ảnh “con nước lớn, nước ròng, chiếc ghe,
cái chèo” đi vào trong ca dao Nam Bộ trở thành nét văn hóa miền sông nước được
tác giả khắc họa qua câu ca dao Đông Tháp: “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi / buôn
bán không lời chèo chống mỏi mê”. Qua bài viết, tác giả đã đề cập khá nhiều đến
những hình ảnh trong ca dao Đồng Tháp như một nét đặc trưng của ca dao Nam Bộ.
7
Trên trang Văn học dân gian Bộ môn Sư Phạm Ngữ Văn trường Đại học Cần
Thơ, có bài viết “Nét riêng của yếu tố địa danh trong ca dao Nam Bộ” của tác giả
Lê Thị Diệu Hà [24]. Trong bài viết này, yếu tố địa danh trong ca dao Nam Bộ
được tác giả đề cập qua bốn nội dung: Các chủ đề phổ biến trong ca dao Nam Bộ có
địa danh, hệ thống địa danh trong ca dao Nam Bộ, địa danh và nội dung biểu hiện
trong ca dao Nam Bộ, địa danh và phương thức biểu đạt trong ca dao Nam Bộ.
Trong phần “Địa danh và nội dung biểu hiện trong ca dao Nam Bộ”, chủ đề ca
ngợi cảnh vật, truyền thống địa phương, sự giàu có về những sản vật tự nhiên của
vùng đất được tác giả thể hiện qua ca dao Đồng Tháp: “Đồng Tháp Mười cò bay
thẳng cánh / Nước Tháp Mười Lấp lánh cá tôm”. Đồng Tháp còn là địa danh được
nhắc đến trong ca dao về những người anh hùng dân tộc: “Ai về Đồng Tháp mà
coi / Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng”.
Và trong phần “Địa danh và phương thức biểu đạt trong ca dao Nam Bộ” ở chủ đề
về quê hương đất nước, nói về vùng quê giàu đẹp, con người đáng yêu, giỏi giang tác
giả đã đề cập đến sản vật, con người Đồng Tháp qua ca dao: “Thuốc rê Cao Lãnh
thơm nồng / Con gái Cao Lãnh má hồng có duyên”. Như vậy, bài viết “Nét riêng của
yếu tố địa danh trong ca dao Nam Bộ” đã nhắc đến đến ca dao Đồng Tháp. Tuy chỉ
khái quát một vài đặc điểm nhưng qua đó ta thấy rõ vai trò và vị trí của ca dao Đồng
Tháp trong lĩnh vực văn học dân gian mà tác giả đã đề cập đến.
Qua hai nhóm tài liệu sưu tầm, biên soạn và tài liệu nghiên cứu, nhìn chung
việc tìm hiểu ca dao Đồng Tháp còn chưa được các tác giả quan tâm, tìm hiểu.
Khảo sát những công trình nghiên cứu về ca dao Đồng Tháp, người viết không tìm
thấy một tài liệu nào đưa ra những nhận định, đánh giá riêng về ca dao Đồng Tháp.
Nếu có thì công trình chỉ mang tính chất khảo sát sơ lược, hoặc đề cập ở một vài
tiểu mục, khía cạnh nhỏ. Tuy nhiên, những công trình trên là cơ sở để người viết
tiếp tục khảo sát, nghiên cứu về ca dao Đồng Tháp, qua đó đưa ra những nhận định,
đánh giá chính xác.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài, người viết hướng đến những nhiệm vụ cụ thể sau: Đi sâu
phân tích những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật, trên cơ sở những đặc điểm
8
trên tiến hành nhận định, đánh giá ca dao Đồng Tháp so với ca dao Nam Bộ và cả
nước. Đồng thời, tìm ra cái nhìn tổng thể, nét độc đáo riêng của ca dao Đồng Tháp.
Qua đó giúp người viết bổ sung thêm những kiến thức, cách cảm, cách nghĩ về cuộc
sống và con người được thể hiện qua các bài ca dao Đồng Tháp. Hơn thế, những
đặc điểm trên là cơ sở góp phần tạo nên tính đa dạng, phong phú của ca dao Đồng
Tháp đối với ca dao Nam Bộ nói riêng và ca dao cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
“Ca dao Đồng Tháp” là đối tượng nghiên cứu chính của luận văn. Về phạm vi
nghiên cứu, người viết không khảo sát hết những tài liệu có liên quan đến ca dao
Đồng Tháp mà tiến hành khảo sát ca dao Đồng Tháp trên một văn bản cụ thể là
“Thơ văn Đồng Tháp” (tập 1) của tác giả Lê Trí Viễn (chủ biên). Bên cạnh đó,
những đặc điểm về văn hóa, xã hội, lịch sử hình thành và phát triển của Đồng Tháp
cũng là đối tượng nghiên cứu có liên quan. Những câu ca dao về Đồng Tháp trong
các tài liệu sưu tập ca dao khác được dùng để so sánh, liên hệ như:
- Đỗ Văn Tân (chủ biên), (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa và
Thông tin Đồng Tháp.
- Bảo Định Giang - Nguyễn Tấn Phát - Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao - dân
ca Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp chủ yếu được vận dụng vào luận văn bao gồm: phương
pháp thống kê - phân loại, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích – tổng hợp:
Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp này được người viết vận
dụng để thống kê các bài ca dao và phân loại chúng theo nội dung và nghệ thuật,
sau đó khảo sát tần số xuất hiện của chúng. Kết quả thống kê, phân loại này là cơ sở
quan trọng để người viết đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được dùng để so sánh đặc điểm nội
dung và nghệ thuật của Ca dao Đồng Tháp với ca dao các vùng miền khác. Qua đó,
chỉ ra những nét đặc trưng của nó so với ca dao truyền thống và ca dao các vùng
miền khác. Trên cơ sở này, người viết đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan.
9
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích ca dao theo từng nội dung và yếu
tố nghệ thuật sau đó tổng hợp lại để đưa ra những nhận định, đánh giá chính xác.
10
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
ĐỒNG THÁP VÀ CA DAO ĐỒNG THÁP
1.1. Sơ lược về vùng đất và con người Đồng Tháp
1.1.1. Vùng đất Đồng Tháp
Với diện tích 339.000 ha Đồng Tháp là một trong ba tỉnh thuộc Đồng Tháp
Mười (Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang), bao gồm các huyện: Tam Nông, Cao
Lãnh, Tháp Mười, Tân Hồng, Hồng Ngự, Thanh Bình và thị xã Cao Lãnh [15, tr.6].
Vùng đất Đồng Tháp khi chưa có người dân đến đây khai phá thì nó còn là một
vùng đất hoang vu, buồn tẻ. Dọc theo hai bên bờ sông và trên những cánh đồng
hoang toàn lau sậy xen lẫn những “chởm lúa ma” hạt đầy gai, thân dài mọc theo
mặt nước hay những bưng biền chứa đầy sen, súng, củ co, rừng rậm; là nơi “lí
tưởng” cho các động vật trú ngụ sinh sôi nảy nở, đặc biệt là cá sấu vùng này. Cách
xa hàng chục cây số vẫn không tìm thấy một nóc nhà, bóng người. Nhưng chính nét
hoang vu này lại là nơi giàu có, trù phú bởi nhiều loại tôm, cua, cá…cùng các sản
vật đồng rừng thu hút người đi khai hoang đến đây săn bắt, sinh sống. Lúc đầu dân
cư thưa thớt “xứ này hẻo lánh, ban ngày buồn, ban đêm lại buồn hơn, mùa nước lụt
lại buồn hơn” [15, tr.470]. Dần lâu qua thời gian Đồng Tháp trở thành một “quần
cư” người dân thuộc nhiều vùng miền khác nhau kéo đến lập nghiệp. Thiên nhiên
phong phú với những bưng sen, ao súng nở đầy bông trắng, hồng là đà trên mặt
nước, từng bầy cá đua bơi cùng nhiều loại tôm, lươn, cua, rắn cung cấp nguồn dinh
dưỡng dồi dào cho cư dân nơi đây. Tuy có nguồn thức ăn phong phú nhưng người
dân Đồng Tháp phải đối mặt với cuộc sống khó khăn bởi sự khắc nghiệt của khí hậu
mùa mưa lẫn mùa nắng: “nắng thì con người sống như lơ lửng giữa trời, mưa lụt,
con người chơi vơi trên mặt nước”. Không những thế, Đồng Tháp còn được mệnh
danh là một “túi phèn” đất chỉ rặc một loại cỏ năn sinh sống. Phèn “đỏ như nước
cau, trong xanh như mắt mèo” chẳng loài thực vật nào có thể sinh sôi nảy nở, đến
nổi sen, súng cũng còi cọc, cua chịu không nỗi phải bò lên bờ, cá cũng phải nổ mắt
11
vì nó. Đến mùa khô phèn lừng lên nằm trên mặt đất trong thật đáng sợ. Người dân
cứ ngỡ tìm được một nơi “an cư lập nghiệp” nhưng không ít người đành bó tay phải
bỏ đi lưu dân nơi khác vì không chịu được cuộc sống khắc nghiệt nơi đây. Một số
người với tinh thần “chịu thương chịu khó” cố bám trụ trên mảnh đất này tiếp tục
khai hoang, mở đất. Lúc đầu người dân đến khai hoang trên mảnh đất Đồng Tháp
chủ yếu tận dụng những điều kiện thuận lợi từ thiên nhiên, dần lâu gắn bó trên
mảnh đất này họ nhận ra ngoài việc nuôi sống bản thân, gia đình còn có một phần
mồ hôi, máu thịt của họ đã đổ xuống nơi đây làm họ thêm yêu, quý trọng và gắn bó
mật thiết với mảnh đất này hơn. Trải qua bao khó khăn, thử thách, sự do dự “giữa đi
và ở”, bằng chính bàn tay lao động của mình, người dân Đồng Tháp đã biến mảnh
đất hoang vu, phèn mặn thành vùng đất canh tác màu mỡ với nhiều vùng chuyên
canh lúa nước, cây công nghiệp, cây ăn quả… ít đâu sánh bằng.
Không những thế, vùng đất Đồng Tháp còn là một trong những trung tâm hội
tụ nghĩa sĩ yêu nước trong phong trào chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Võ
Duy Dương, Đốc Binh Kiều cùng nhiều vị thủ lĩnh khác. Như đã đề cập phần trên,
Đồng Tháp là vùng đất hoang vu khi chưa được khai phá và chính nét hoang vu này
là ưu thế để các nhóm nghĩa quân tham gia hoạt động cách mạng ẩn náo an toàn.
Tuy được khai thác muộn hơn so với các vùng khác nhưng Đồng Tháp là một trong
những vùng trở thành điểm nóng kháng chiến của Nam Bộ và cả nước.
1.1.2. Con người Đồng Tháp
Cư dân Đồng Tháp thuộc nhiều vùng miền khác nhau hội tụ về đây khẩn
hoang và lập nghiệp. Vùng đất mới không có sự phân chia ranh giới giữa các vùng,
nơi hẻo lánh vẫn có sự giao lưu. Quy luật cung cầu nơi đây còn chưa phát triển,
người dân không thể tự làm ra những mặt hàng tiêu dùng và công cụ sản xuất trong
lao động. Vì thế, họ phải tìm mua mặt hàng từ các nơi khác. Nhiều thương gia
người Hoa ở Cao Lãnh, Sa Đéc, Cay Lậy tận dụng cơ hội này đã làm giàu nhanh
chóng nhờ cung ứng dịch vụ cho dân khẩn hoang. Nông dân vùng này thu nhập chỉ
dựa vào việc khai thác các loại cá tôm và lúa còn những thứ khác đều phải ra chợ
mua sắm. Theo các sách ghi lại người đến cư ngụ ở Đồng Tháp đầu tiên là những
người thuộc vương quốc Phù Nam. Về sau vương quốc Phù Nam tan rã, nguyên
12
nhân vẫn chưa có tư liệu nào ghi rõ. Di tích mà họ còn để lại là những vật dụng lao
động cổ xưa.
Để đối mặt với những thách thức, nguy hiểm cá tính mạnh mẽ luôn là yếu tố
nổi bật của con người trước thiên nhiên, tính phóng khoáng và tinh thần làm việc
tập thể cao nhưng họ trọng sáng kiến cá nhân, tùy vào khả năng và sở trường mỗi
người mà tìm kế sinh nhai riêng. Do điều kiện vùng đất và khí hậu, nghề lúa nước
đạt năng suất thấp chỉ đủ ăn, nghề chính vẫn là đánh bắt cá và làm việc theo mùa.
Cá không cần nuôi mà chủ yếu là khai thác từ các kinh, rạch tự nhiên. Mô hình nhà
ở chủ yếu là nhà lá, nền cao để tránh lũ vào những tháng nước lên, xung quanh
trồng vài đám rau, bụi ớt, cây chuối…với một khu vườn khiêm tốn.
Khi cuối tháng nắng bắt đầu vào đầu mùa mưa là thời gian nhàn rỗi để người
dân nghỉ ngơi sau những ngày làm việc vất vả và đây cũng là dịp để họ “thể hiện
phong cách”. Ở nơi hẻo lánh cách xa thành phố làm người dân nơi đây cảm thấy lẻ
loi. Vì thế mỗi khi có khách phương xa đến chơi hay gặp người cùng quê họ rất
hiếu khách. Cá lóc, cá sặc, tôm, cua, rau ngổ luộc, bông súng chấm mắm kho là
những món ăn đồng ruộng dễ tìm để đãi khách. Cuộc sống tuy thiếu trước hụt sau
nhưng với họ “nghèo tiền nhưng giàu nghĩa”. Đến những năm 1935 chính sách khai
hoang, cải tạo đất bước đầu được chú trọng nông nghiệp dần phát triển, người dân
nơi đây tiến hành khai thác ruộng gieo sạ trên diện tích rộng. Cuộc sống trở nên
nhộn nhịp hẳn lên, nhất là vào những mùa cấy hoặc thu hoạch lúa. Và nghề “cắt lúa
mướn” lưu động được hình thành từ đây, thu hút người dân các vùng lân cận. Đây
cũng là dịp để họ giao lưu văn hóa giữa các vùng. Ban ngày họ cùng nhau làm việc
tối đến bên những bếp lửa hoặc đống rơm cháy sáng cả một vùng trời, từng nhóm
người từ trai gái thanh niên đến những đứa trẻ, người già cùng nhau hò hát, đối đáp
vui chơi và kể cho nhau nghe những câu truyện tiếu lâm, cuộc vui cứ thế kéo dài
suốt cả đêm. Cuộc sống với những công việc lao động nối tiếp nhau từ mùa này
sang mùa khác không chút nhàm chán. Cũng chính trong dịp này mà các điệu hò,
câu ca dao Đồng Tháp được hình thành. Xã hội phát triển, đời sống người dân được
nâng cao, nhu cầu giáo dục được chú trọng, nhiều giáo viên, cán bộ tình nguyện đến
những nơi hẻo lánh này làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục. Văn hóa dân gian
Đồng Tháp được dịp mở rộng và phát triển từ đây.
13
1.2. Khái quát ca dao Đồng Tháp
1.2.1. Khái niệm ca dao và ca dao Đồng Tháp
So với các thể loại khác như truyện dân gian thì công việc sưu tập và biên
soạn ca dao có phần muộn hơn, chỉ mới bắt đầu từ ngót hai trăm năm trở lại đây.
Tuy nhiên, ca dao giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học dân gian, là nơi để
con người giãi bày những tâm tư, tình cảm. Ca dao là một khái niệm không còn xa
lạ với chúng ta, nhưng đến nay chưa có sự thống nhất trong cách hiểu về khái niệm
này. Đã có nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu đưa ra nhiều ý kiến khác
nhau:
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính gọi ca dao là thơ dân gian: “Ca dao là
thơ dân gian, có nội dung trữ tình và trào phúng, bao gồm hàng loạt những lời như
đã trình bày ( câu, bài, đơn vị, tác phẩm). Người ta có thể hát, ngâm, đọc (và cả
xem bằng mắt sau khi ca dao đã được ghi chép lại)” [12, tr.85].
Đồng với Nguyễn Xuân Kính, tác giả Vũ Ngọc Phan cũng gọi ca dao là thơ
dân gian: “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các lọai thơ
khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao” [16, tr.34].
Tác giả Chu Xuân Diên cho rằng: “Ca dao là lời của các bài hát dân ca đã
được tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy,…hoặc ngược lại, là những câu thơ có
thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca” [4, tr.354].
Tác giả Nguyễn Văn Hầu đưa ra khái niệm ca dao theo cách gọi thông thường
và dễ hiểu: “Ca dao là câu, là bài hát ngắn, được truyền miệng từ người này sang
người khác và từ thế hệ nầy sang thế hệ khác bằng những lời văn giản dị hồn
nhiên” [6, tr.52].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương Châm đưa ra khái niệm: “Ca dao là
danh từ chỉ thành phần ngôn từ (phần lời ca dao) của dân ca (không kể những
tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi)” [1, tr.17].
Trong quyển “Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình” tác giả Phạm Việt Long
định nghĩa: “Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu
(phần lớn là thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lưu truyền
14
qua nhiều thế hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình cảm” [13,
tr.37].
Quyển “Ca dao - dân ca Nam Bộ” chia ca dao – dân ca Nam Bộ thành ba loại:
“Thơ ca nghi lễ. Đây là một thể loại sáng tác dân gian có nguồn gốc rất cổ, nảy
sinh trong quá trình lao động, sinh hoạt, gắn chặt với thế giới quan của người
nguyên thủy cũng như ý thức tôn giáo ở các giai đoạn sau.
Dân ca lao động là những bài ca hò hát trong lao động với điều kiện là tiết
tấu, nhiệp điệu, sắc thái, biểu cảm, tốc độ, cường độ và cách thức diễn xướng của
nó phải gắn chặt với các quá trình của một công việc cụ thể nào đó của nhân dân.
Ca dao – dân ca trữ tình (hay sinh hoạt) là những lời ca mà nội dung và hình
thức diễn xướng của nó không nhằm mục đích nghi lễ và không kèm những động
tác có tính chất nghi lễ. Những bài ca này vẫn được hát trong lao động nhưng nội
dung cơ bản của nó là nhằm bộc lộ tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình, bộc lộ
tình yêu tha thiết của nhân dân đối với quê hương đất nước, tình cảm lứa đôi, tiếng
ca tình nghĩa của nhân dân trong quan hệ gia đình và những mối quan hệ xã hội
khác”[5, tr.20; 21; 24].
Trong ba mảng ca dao – dân ca vừa nêu, luận văn này chủ yếu khảo sát ở
mảng “ca dao – dân ca trữ tình”.
Qua những nhận định của các nhà nghiên cứu, ta thấy có nhiều ý kiến khác
nhau về khái niệm ca dao nhưng tựu chung người viết cho rằng: Ca dao là thể loại
văn học dân gian, có nội dung trữ tình thể hiện tâm tư tình cảm của nhân dân lao
động trong các mối quan hệ, xã hội. Được nhân dân sáng tác và lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng hình thức truyền miệng hoặc chữ viết.
Khi nghiên cứu ca dao Đồng Tháp, việc tìm hiểu khái niệm ca dao và ca dao
Đồng Tháp là một công việc cần thiết. Như phần trên đã đề cập, ca dao là một khái
niệm phong phú được nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, về ca dao Đồng Tháp,
người viết chưa tìm được một công trình nào nói đến khái niệm này nhưng dựa vào
đặc điểm của ca dao Đồng Tháp ta có thể hiểu: ca dao Đồng Tháp là ca dao được
15
sưu tầm ở Đồng Tháp. Trong đó, những câu ca dao được sáng tác và lưu truyền
trên mảnh đất Đồng Tháp được chia thành hai bộ phận:
- Bộ phận những câu ca dao phổ biến cả nước và tiếp tục được lưu truyền trên
mảnh đất Đồng Tháp.
- Bộ phận những câu ca dao là sáng tác mới dựa trên đặc điểm tự nhiên, vùng
đất và con người Đồng Tháp.
Tuy nhiên, bộ phận ca dao có giá trị nhất và chiếm đa phần là những câu ca dao
được sáng tác và lưu truyền hoàn toàn trên mảnh đất Đồng Tháp. Vì chúng giữ một vai
trò quan trọng trong việc ghi dấu ấn ca dao Đồng Tháp vào văn học dân gian.
1.2.2. Quá trình hình thành ca dao Đồng Tháp
Cư dân trên mảnh đất Đồng Tháp chủ yếu là những lưu dân từ nơi khác đến
khai hoang, lập nghiệp. Qua thời gian, nhờ vào tinh thần chịu khó và sự ưu đãi của
thiên nhiên, người dân Đồng Tháp biến vùng đất hoang vu, phèn mặn thành mảnh
đất trù phú, giàu có “trên cơm, dưới cá, rau trước cửa, củi sau hè”. Cuộc sống thay
đổi, người dân Đồng Tháp không chỉ đáp ứng về cái ăn, cái mặc mà họ còn có nhu
cầu thể hiện cảm xúc. Không chỉ tạo ra của cải vật chất cho xã hội, họ còn là chủ
thể sáng tác nên những câu ca dao hay và ý nghĩa. Nó như người bạn tinh thần của
con người. Những lúc lao động vất vả, để tạo nên không khí vui tươi, đỡ mệt,
người dân đã hát đối đáp, giao lưu qua lại thông qua những vần điệu ca dao:
“- Hò ơ, thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời
Tạo thiên lập địa ông trời ai sanh
- Hò ơ, trời tròn thì đất cũng tròn
Tạo thiên lập địa anh còn bé thơ”.
[21, tr.242]
Không chỉ nhằm mục đích giải trí, ca dao còn là phương tiện để con người
giãi bày những cảm xúc cá nhân. Chắc hẳn trong mỗi chúng ta lớn lên dù đi đâu
nhưng lòng vẫn nhớ về nơi mình đã từng sinh ra và gắn bó một thời thơ ấu. Những
người lưu dân lìa xứ đến mảnh đất mới để tìm kế sinh nhai cũng thế. Những lúc
16
đêm mưa hay mỗi buổi chiều ra đứng bờ sông, nhìn dòng nước chảy, họ ngẫm nghĩ
rồi hát lên vài câu cho đỡ nhớ quê:
“Chiều chiều ra đứng đầu ghềnh
Nhìn theo bọt nước động tình ly hương”.
[21, tr.192]
Hay trong những buổi trưa hè trên chiếc võng đu đưa kẻo kẹt trước hàng ba,
người mẹ ru con qua những vần điệu ca dao ngọt ngào để con chóng ngủ:
“Ầu ơ con ngủ đi con
Má đi mần mắm tháng ba má về
Má về có cá con ăn
Có khô con nướng, có em con bồng”.
[21, tr.282]
Có thể nói không đâu trong ca dao ta lại tìm thấy những cảm xúc chân thật
đến thế. Trên những cánh đồng xa hòa vào những giọt mồ hôi thấm mặn hay những
buổi trưa hè trên chiếc võng đu đưa, những buổi chiều mưa mang đầy nỗi nhớ cất
lên những vần điệu ca dao ngọt ngào đầy cảm xúc. Đúng như nhận định của các nhà
nghiên cứu “ca dao là khúc ca trữ tình” với nhiều cung bậc cảm xúc. Và chính cảm
xúc ấy là chất xúc tác để con người tạo nên những bài ca dao trữ tình đằm thắm,
thiết tha.
Bài ca dao có thể do một cá nhân nào đó sáng tác rồi hát lại cho người khác
nghe hoặc được sáng tác tập thể trong quá trình lao động và truyền miệng từ người
này sang người khác theo không gian, thời gian trên mảnh đất Đồng Tháp. Trong
quá trình lưu dân từ các miền khác nhau đến mảnh đất Đồng Tháp để lập nghiệp, họ
không chỉ mang theo người thân và các vật dụng lao động mà còn cả “vốn ca dao”
tồn tại trong trí nhớ khi đặt chân đến mảnh đất này. Vì vậy, đọc ca dao Đồng Tháp
ta sẽ bắt gặp những lời ca vừa mang nét chung của các vùng khác, vừa mang nét
riêng của ca dao Đồng Tháp. Bằng cảm xúc của mình, những người dân “chân lấm
tay bùn” đã sáng tác nên những bài ca dao trữ tình hay và ý nghĩa. Có thể ta không
17
biết chính xác thời gian sáng tác nên ca dao nhưng qua những ví dụ trên ta thấy, ca
dao Đồng Tháp được hình thành cùng lúc khi người dân đặt chân đến mảnh đất
Đồng Tháp khai hoang và lập nghiệp.
1.2.3. Thống kê và phân loại ca dao Đồng Tháp
1.2.3.1. Thống kê
Để phục vụ cho việc nghiên cứu người viết chọn cuốn “Thơ văn Đồng Tháp”
của tác giả Lê Trí Viễn (chủ biên) làm tài liệu thống kê chính [21]. Kết quả thống
kê được trình bày dưới đây:
Tổng số câu
918
Số câu – Tỉ lệ
Số câu
Tỉ lệ (%)
Chủ đề
Tình yêu quê hương đất nước
86
9.4%
Tình yêu đôi lứa
509
55.4%
Tình cảm gia đình
152
16.5%
Các mối quan hệ xã hội khác
171
18.6%
Bản 1.1: Thống kê nội dung ca dao Đồng Tháp
Thể thơ
Số câu
Tỉ lệ (%)
Lục bát
328
35,7%
Song thất lục bát
6
0,7%
Song thất
16
1,7%
Bản 1.2: Thống kê thể thơ ca dao Đồng Tháp
1.2.3.2. Phân loại ca dao Đồng Tháp
18
Qua thống kê 918 câu ca dao, nội dung ca dao đồng Tháp được thể hiện qua
bốn chủ đề: Tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và
các mối quan hệ xã hội khác. Trong đó có 86 câu thuộc chủ về tình yêu quê hương
đất nước, chiếm tỉ lệ 9,4%; 509 câu thuộc chủ đề về tình yêu đôi lứa, chiếm tỉ lệ
55,4%; 152 câu thuộc chủ đề về tình cảm gia đình, chiếm tỉ lệ 16,5% và 171 câu
thuộc chủ đề các mối quan hệ xã hội khác. Qua kết quả thống kê, ta thấy chủ đề về
tình yêu đôi lứa chiếm tỉ lệ cao nhất (55,4%), tiếp đến là chủ đề thuộc các mối quan
hệ xã hội khác, tình cảm gia đình và tình yêu quê hương đất nước là chủ đề chiếm tỉ
lệ thấp nhất. Có thể nói, chủ thể sáng tác nên những bài ca dao trữ tình ấy phần lớn
là các chàng trai cô gái Đồng Tháp. Với những cảm nhận và trải nghiệm trong cuộc
sống họ đã tạo nên những bài ca dao tình yêu với nhiều trạng thái, cung bậc cảm
xúc khác nhau, lúc nhớ nhung, khi hạnh phúc, đau khổ, oán trách.
Về thể thơ, qua thống kê 918 câu ca dao Đồng Tháp trong đó có 328 câu được
sáng tác theo thể lục bát, chiếm tỉ lệ 35,7%; 6 câu được sáng tác theo thể song thất
lục bát, chiếm tỉ lệ 0,7% và 16 câu được sáng tác theo thể song thất, chiếm tỉ lệ
1,7%. Như vậy, so với thể song thất lục bát và thể song thất thì thể lục bát trong ca
dao Đồng Tháp chiếm số lượng nhiều hơn (35,7%). Thể lục bát được người dân sử
dụng phổ biến trong sáng tác ca dao là do tính chất ngắn gọn, dễ sáng tác và dễ thể
hiện cảm xúc.
Kết quả thống kê trên là số liệu quan trọng được dùng để nhận xét, đánh giá
nội dung và nghệ thuật ca dao Đồng Tháp trong những chương tiếp theo.
Chương 2: NỘI DUNG CA DAO ĐỒNG THÁP
19
2.1. Ca dao Đồng Tháp thể hiện tình yêu quê hương đất nước của nhân
dân Đồng Tháp
2.1.1. Vùng đất
Tình yêu quê hương đất nước của nhân dân Đồng Tháp được thể hiện trong ca
dao, không phải là cái trừu tượng, xa xôi mà nó gắn liền với những hình ảnh quen
thuộc trong cuộc sống con người. Đó có thể là sự ngỡ ngàng của người dân trước
khung cảnh hoang vu, mới lạ khi lần đầu đặt chân đến mảnh đất Đồng Tháp hay
niềm tự hào về vùng đất giàu có, trù phú đến những chiến công lịch sử của các vị
anh hùng dân tộc trên quê hương Đồng Tháp. Tất cả điều được nhân dân thể hiện
qua ca dao.
Tính chất hoang vu của vùng đất mới là nội dung không chỉ được thể hiện qua
ca dao Đồng Tháp mà còn được đề cập trong ca dao Nam Bộ. Nhưng xét về đặc
điểm địa hình, ca dao Đồng Tháp vẫn có cho mình những nét đặc trưng riêng. Lần
đầu đặt chân đến mảnh đất Đồng Tháp, người dân đã nói lên sự ngỡ ngàng trước
khung cảnh âm u, nỗi sợ hãi trước những loại động vật “gớm ghiếc” có thể gây chết
người, nhất là cá sấu ở vùng này:
“Tháp Mười sình ngập phèn chua
Hổ mây, cá sấu thi đưa vẫy vùng”.
[21, tr.191]
Không chỉ là vùng đất hoang vu mà so với các vùng lân cận thì Đồng Tháp là
một vùng trũng thấp ở giữa, xung quanh cao tạo nên địa hình “dạng lòng chảo”.
Vào mùa nước lũ khả năng nhận nước cao nhưng khả năng thoát nước kém. Do đó
tạo nên nước mặn, nước phèn ở nhiều nơi:
“Tháp Mười nước mặn đồng chua
Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng”.
[21, tr.198]
2.1.2. Sản vật
20
Do địa hình trũng thấp, thường xuyên bị ngập nước tạo nên đất chua, đất phèn
nên vùng đất Đồng Tháp chỉ có thể khai phá mà không thể trồng được loại cây nào
ngoài việc khai thác “giống lúa trời” mọc tự nhiên sẵn có ở ven sông hay trên
những cánh đồng hoang xen lẫn các loài cỏ dại:
“Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt lúa trời sẵn ăn”.
[21, tr.188]
Địa hình là vậy nhưng thiên nhiên nơi đây cũng rất ưu đãi người dân, ngoài
việc tận dụng “cái sẵn có” như giống lúa trời, thì “bông súng, củ co” luôn là thức ăn
dân dã, dễ tìm ở một nơi hoang vu như thế này mà dù là tháng nước nổi hay nước
dựt đều có cái để ăn, không phải sợ đói:
“Về Đồng Tháp Mười đừng sợ đói no
Nước nổi nhổ bông súng, nước dựt móc củ co cũng no lòng”.
[21, tr.199]
Đặc biệt Đồng Tháp là vùng đất ngập mặn nên cư dân nơi đây trồng và phát
triển một loại cây lấy gỗ đem lại hiệu quả kinh tế cao đó là tràm. Nếu đến Nam Bộ
đi khắp nơi ta sẽ bắt gặp những những cánh đồng lúa bạt ngàn thì ở Đồng Tháp là
những dãy rừng tràm nối tiếp nhau đến xa tầm mắt:
“Nơi nào liễu cợt hoa cười
Trên đất Tháp Mười sen trắng tràm xanh”.
[21, tr.196]
Cuộc sống khó khăn là vậy, song với tính cách mạnh mẽ không lùi bước trước
những khó khăn. Theo thời gian, nhờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên và bàn tay lao
động cần cù, tinh thần chịu khó, người dân Đồng Tháp tiến hành đào kinh, vét
mương, nguồn nước được khai thông, tính chất phèn chua, nước mặn dần biến mất
thay vào đó là nguồn nước ngọt phong phú thu hút nhiều “luồng cá, tôm” về đây
sinh sống, giống lúa trời (lúa ma) được thay bằng các loại giống mới đạt năng suất
cao, cuộc sống người dân được cải thiện đáng kể:
21
“Tháp Mười lắm rạch nhiều kinh
Lắm tôm, nhiều cá, tràm xanh, lúa vàng”.
[21, tr.198]
Dọc theo các bờ kinh, từng bầy cá đua nhau chạy theo nước. Sản lượng cá ở
Đồng Tháp nhiều đến nỗi có thể nói “ăn cá thay cơm”. Cá không cần phải giăng
lưới, cắm câu, mỗi khi chèo xuồng nước động gác mái chèo là cá nhảy tung lên
khoang xuồng. Thế là có cá để ăn:
“Kinh Mỹ Hòa lượn lờ nước chảy
Mái dầm buông cá nhảy lên khoang”.
[21, tr.194]
Không những thế, mỗi địa danh trên mảnh đất Đồng Tháp đều mang một vẻ
đẹp riêng gắn liền với những đặc sản nổi tiếng của từng vùng. Đến Hòa An sẽ được
ngắm nhìn những hàng dừa xanh thẳng tắp nối tiếp nhau đến xa tầm mắt hay những
vườn mận đỏ trái chín sum sê. Màu xanh của dừa, màu đỏ của mận làm cho vùng
đất Hòa An thêm tươi xanh, sắc màu gợi cảm giác hữu tình cho khách phương xa:
“Ai ơi qua xứ Hòa An
Dừa xanh, mận đỏ chứa chan hữu tình”.
[21, tr. 188]
Hay đến với Bình Thành, Tịnh Thới, Tân Thuận ta sẽ được thưởng thức các
loại trái cây thôn quê “xoài thơm, mít ngọt, quýt ngon”: “Ai về Tịnh thới quê ta /
Xoài thơm, quít ngọt đậm đà tình quê, Bình Thành là xứ quê em / Xoài thơm, mít
ngọt anh quen thứ nào Muốn ăn xoài cát thơm ngon / Thì về Tân Thuận, Hòa An
quê mình”. Mỗi nơi trên mảnh đất đều mang một hương vị, đặc sản riêng góp phần
tạo nên hương sắc muôn màu cho quê hương Đồng Tháp:
“Thuốc rê Cao Lãnh thơm nồng
Con gái Cao Lãnh má hồng thấy mê”.
[21, tr.198]
22
Món bông súng đồng chấm mắm kho là một món ăn dân dã, dễ tìm ở hầu hết
các vùng quê. Nhưng khi nhắc đến móm ăn này thì không ai không biết đến địa
danh Đồng Tháp. Không phải ngẫu nhiên món ăn này được nhắc đến trong ca dao
Đồng Tháp mà do chính đặc điểm của vùng đất và điều kiện tự nhiên nơi đây đã tạo
nên móm ăn đặc sản “bông súng mắm kho”:
“Muốn ăn bông súng mắn kho
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm”.
[21, tr.195]
2.1.3. Truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm
Không chỉ tù phú về sản vật, mảnh đất Đồng Tháp còn lưu lại những hình ảnh
đáng tự hào của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên và những dấu chân
mạnh mẽ, kiên cường bám trụ trên mảnh đất này để mưu sinh lập nghiệp. Và cũng
chính nơi đây đã sinh ra biết bao chàng trai tài hoa cùng những cô gái đẹp Nha Mân
duyên dáng dễ thương ai ai cũng mến:
“Trai nào tài bằng trai Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân”.
[21, tr.199]
Một nét nổi bật đáng chú ý ở chủ đề này là hệ thống những bài ca dao thể hiện
truyền thống đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Đồng
Tháp. Trong kháng chiến, Đồng Tháp được xem là một mũi tiên phong của sự
nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm và là vùng đất “địa linh nhân kiệt” với
nhiều phong trào yêu nước. Những chiến công và sự tích anh hùng ca đã trở thành
những đề tài phong phú của ca dao Đồng Tháp:
“Ai ơi nền Tháp mười tầng
Trăm năm lưu dấu anh hùng đánh Tây”.
[21, tr.188]
“Quê tôi Vĩnh Thạnh anh hùng
Trẻ, già, trai, gái một lòng đánh Tây”.
23
[18, tr.149]
Chiến tranh qua, những mất mát dần phai theo thời gian nhưng lòng biết ơn, sự
kính phục đối với các vị anh hùng Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương), Đốc Binh
Kiều (Nguyễn Tấn Kiều) cùng nhiều vị anh hùng khác vẫn còn mãi trong lòng người
dân. Đó là một truyền thống tốt đẹp được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác:
“Nơi đây quê Thiên Hộ Dương
Dựng cờ kháng Pháp nêu gương anh hùng”.
[21, tr.196]
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ thương ông Đốc tướng Binh Kiều đánh Tây”.
[21, tr.307]
Ở chủ đề này còn đáng chú ý qua những bài ca dao thể hiện lòng quyết tâm,
tinh thần bất khuất đánh chống kẻ thù xâm lược của nhân dân Đồng Tháp:
“Bao giờ hết cỏ Tháp Mười
Thì dân Nam mới hết người đánh Tây”.
[21, tr.190]
Như ta đã biết Đồng Tháp khi chưa được khai phá là một vùng đất hiểm trở,
trên thì cây cối um tùm, dưới là những cách đồng hoang với những năn lác, bưng
biền lầy lội. Chính yếu tố này đã góp công vào sự nghiệp tiêu diệt kẻ thù và là nơi
trú ẩn an toàn cho nhóm nghĩa quân tham gia hoạt động cách mạng:
“Tháp Mười năn lác mênh mông
Tây vô đến đó, quyết không đường về”.
[18, tr.150]
“Pháp vô Đồng Tháp đường cùng
Mỹ vô Đồng Tháp sụp bùn khó ra”.
[18, tr.149]
24
Và cũng trong cuộc kháng chiến này, những tên làng, tên xã đã trở thành địa
danh nổi tiếng đi vào ca dao như một âm vang tự nhiên lưu dấu những chiến công
và sự tích anh hùng ca rực rỡ của quân và dân Đồng Tháp:
“Ai về Tân Khánh, Bà Trà
Mà coi con gái đàn bà đi roi”.
[21, tr.189]
“Ai về Đồng Tháp mà coi
Con gái Cao Lãnh bỏ roi đi quyền”.
[21, tr.189]
Bên cạnh đó, ca dao Đồng Tháp còn đáng chú ý qua những bài ca thể hiện
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, với Bác Hồ kính yêu. Qua ca dao ta có thể cảm
nhận được tình cảm chân thành, thiết tha của nhân dân dành cho Bác Hồ kính yêu
và sự thủy, chung niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng:
“Quê hương Đồng Tháp sắt son
Nhân dân Đồng Tháp là con Bác Hồ.”
[18, 138]
“Tháp Mười đồng ruộng mênh mông
Ngàn năm tin Đảng thủy chung một lòng”.
[18, tr.138]
Truyền thống yêu nước, những chiến công, sự tích anh hùng ca cùng bao tên
làng, tên xã và đặc điểm vùng đất đã được nhân dân Đồng Tháp thể hiện qua ca dao
với tình yêu tha thiết, niềm tự hào dân tộc. Chính những bài ca dao yêu nước này đã
góp phần làm cho ca dao Đồng Tháp phong phú hơn về mặt nội dung, sinh động
trong hình thức thể hiện.
2.2. Ca dao Đồng Tháp thể hiện tình cảm của các chàng trai, cô gái
Đồng Tháp
25