PGS. TS. TRẦN KHÁNH TH NH
Ket-noi.com chia se mien phi
NH÷NG VÊN §Ò
THI PH¸P TH¥ VIÖT NAM HIÖN §¹I
(TÁC GIẢ - TRÀO LƯU)
THI PH¸P TH¥ HUY CËN
(Chuyên lu n)
NHÀ XU T B N Đ I H C QU C GIA HÀ N I
2
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Mc lc
3
MC LC
Li núi u ......................................................................................................... 5
Chng 1
CáI TÔI TRữ TìNH TRONG THƠ HUY CậN
1.
CU TRC HèNH TNG CI TễI TR TèNH ............................................ 9
2.
CI TễI TR TèNH VI NHIU I CC .................................................. 11
Chng 2
QUAN NIệM NGHệ THUậT Về CON NGƯờI
1.
QUAN NIM NGH THUT - MT PHM TR T TNG THM M ........41
2.
CON NGI TRONG TH HUY CN
TRC CCH MNG THNG TM ..................................................................43
3.
CON NGI TRONG TH HUY CN SAU CCH MNG THNG TM .......57
Chng 3
THờI GIAN Và KHÔNG GIAN NGHệ THUậT TRONG THƠ HUY CậN
1.
KHI LC V THI GIAN V KHễNG GIAN NGH THUT ................. 69
2.
THI GIAN NGH THUT TRONG TH HUY CN.................................. 71
3.
KHễNG GIAN NGH THUT TRONG TH HUY CN ............................. 82
Chng 4
PHƯƠNG THứC THể HIệN
1.
H THNG HèNH NH, BIU TNG V KIU T DUY ....................... 104
2.
TH LOI V
KT CU ........................................................................... 112
KT LUN......................................................................................................... 131
4
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
PHỤ CHƯƠNG
§ÕN VíI MéT Sè BµI TH¥ HAY CñA HUY CËN
TR NG GIANG ........................................................................................ 135
ÁO TRẮNG ............................................................................................... 141
NGẬM NGÙI ............................................................................................. 147
BUỒN ĐÊM MƯA ..................................................................................... 151
ĐO N THUYỀN ĐÁNH CÁ ...................................................................... 155
T I LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 161
LỜI NÓI ĐẦU
Huy Cận là nhà thơ lớn của dân tộc, là nhà hoạt động văn hóa
say mê và năng động trong hơn nửa thế kỷ qua.
Có thơ đăng báo từ năm 1938, năm 1940 Huy Cận nổi tiếng trên
thi đàn với tập thơ đầu tay: Lửa thiêng. Chính “ngọn lửa thiêng” ấm
áp tình người tình đời ấy đã đưa Huy Cận vào vị trí hàng đầu của
phong trào Thơ mới. Sau Lửa thiêng, cùng với sự thoái trào của Thơ
mới, thơ Huy Cận dần dần thưa bóng, tưởng chừng như tắt lịm.
Nhưng như một mạch ngầm âm thầm bền bỉ, hồn thơ mang nặng
tình người tình đời và tình yêu sự sống của Huy Cận bỗng trào dâng
mãnh liệt trước hiện thực sôi động của nhân dân ta trong công cuộc
xây dựng đất nước để rồi kết đọng những mùa thơ: Trời mỗi ngày lại
sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963),... Bước vào
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bút lực của Huy Cận
vẫn dồi dào. Với tiềm năng sáng tạo to lớn, Huy Cận tiếp tục cho ra
đời hàng loạt tập thơ: Hai bàn tay em (1967), Những năm sáu mươi (1968),
Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973), Chiến trường gần đến chiến trường
xa (1974), Những người mẹ những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày
hằng thơ (1975)... Những năm sau khi đất nước thống nhất, nhà thơ
Huy Cận vẫn bền bỉ gieo hạt hàng ngày. Các tập thơ vẫn nối tiếp
nhau ra đời đều đặn: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984),
Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997)...
Huy Cận đã đi qua một chặng đường thơ dài hơn sáu thập kỷ.
Thời kỳ nào thơ Huy Cận cũng thu hút được sự chú ý của giới phê
bình, nghiên cứu và đông đảo bạn đọc. Trong gần bảy thập kỷ qua
đã có hàng trăm bài tiểu luận, chuyên luận viết về thơ Huy Cận từ
nhiều góc độ khác nhau. Các nhà thơ, các nhà phê bình nghiên cứu
văn học như Xuân Diệu, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Hoài Thanh,
Chế Lan Viên, Trinh Đường, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng
Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Xuân Nam, Trần Đình Sử,
Nguyễn Văn Long, Ngô Quân Miện, Vũ Quần Phương, Đỗ Lai Thuý,
6
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Bế Kiến Quốc, Trần Mạnh Hảo..., đều có những bài tiểu luận sâu sắc
về Huy Cận. Các nhà thơ, các nhà nghiên cứu đều trân trọng những
đóng góp của Huy Cận trên cả hai chặng đường thơ, trước và sau
Cách mạng. Nhiều ý kiến đã lý giải được quá trình vận động cảm
hứng sáng tạo của Huy Cận qua các tập thơ, phác thảo được những
đặc điểm cơ bản của phong cách thơ Huy Cận như tình yêu sự sống,
nỗi khắc khoải không gian, giọng điệu trầm lắng, giàu chất suy
tưởng, bản sắc dân tộc đậm nét, phong vị Đường thi... Đáng chú ý
nhất là tập tiểu luận Thế giới thơ Huy Cận của Xuân Diệu. Tập sách
được in năm 1987, khi nhà thơ Xuân Diệu đã về nơi yên tịnh nhưng
tình cảm, tâm huyết và tài năng của ông sống dậy trên những trang
văn. Đi theo các tập thơ, các mảng đề tài chính, Xuân Diệu đã cảm
nhận tinh tế vẻ đẹp của những ý thơ, của những câu thơ Huy Cận và
giúp người đọc đi vào thế giới thơ Huy Cận. Những công trình
nghiên cứu của các tác giả đã kể trên đều rất đáng trân trọng và rất
bổ ích đối với những ai quan tâm đến sự nghiệp thơ Huy Cận. Tuy
nhiên để khám phá thơ Huy Cận như một cấu trúc hệ thống gồm
nhiều mặt đối lập mà thống nhất, vừa ổn định vừa biến đổi không
ngừng thì cần có một hướng tiếp cận mới. Chúng tôi đã chọn con
đường tiếp cận thi pháp để đến với thế giới thơ Huy Cận.
Thi pháp học là một khoa học ứng dụng, được hình thành từ lâu
và trở thành một trong những hướng nghiên cứu văn học quan trọng
trong thế kỷ XX. Nhưng cho đến nay, đầu thế kỷ XXI này, khái niệm
thi pháp, thi pháp học vẫn chưa có một nội hàm thật xác định. Nếu
nhìn một cách tổng quát chúng ta có thể coi thi pháp là toàn bộ các
phương tiện nghệ thuật tạo nên tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và Thi
pháp học là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật [186; 15].
Nghiên cứu thi pháp thơ Huy Cận là đề tài nghiên cứu thi pháp
tác giả. Người nghiên cứu phải khám phá thế giới tư tưởng - tình cảm
của nhà thơ qua quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới, qua
cách cảm thụ và tổ chức không gian - thời gian, qua cách sử dụng thể
loại, kết cấu và ngôn từ... Từ những vấn đề cơ bản đó nhằm xác định
phong cách nghệ thuật của nhà thơ với tư cách là một chỉnh thể nghệ
thuật độc đáo. Chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận của chúng tôi được
7
Lôøi noùi ñaàu
triển khai theo định hướng đó. Ngoài phần chính viết về thi pháp tác
giả chúng tôi còn dành một phần viết về thi pháp tác phẩm để giúp
người đọc hiểu thêm những bài thơ tiêu biểu của Huy Cận trên hành
trình sáng tạo.
Trong quá trình viết chuyên luận này, chúng tôi được sự giúp đỡ
rất tận tình của nhà thơ Huy Cận - người đã sáng tạo ra những tác
phẩm thơ ca đặc sắc giúp chúng tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu,
người đã cung cấp nhiều tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo,
người đã góp nhiều ý kiến bổ ích cho chúng tôi khi viết tập sách này.
Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Giáo sư Hà Minh Đức,
người thầy đáng kính đã giúp đỡ tôi suốt mấy chục năm qua, người
có ảnh hưởng tốt đẹp và quan trọng đối với chúng tôi trên con đường
học tập và nghiên cứu. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, chúng tôi
trước hết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với nhà thơ Huy Cận và
Giáo sư Hà Minh Đức.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự chỉ giáo và sự cổ vũ nhiệt
tình của các thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp xa gần.
Trong quá trình biên soạn, cuốn sách chắc chắn sẽ không tránh
khỏi thiếu sót và hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của đông đảo
bạn đọc.
Trần Khánh Thành
8
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chương 1
C¸I T¤I TR÷ T×NH TRONG TH¥ HUY CËN
1. CẤU TRÚC HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH
Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân
dung tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng
tạo ra những giá trị tinh thần mà còn là đối tượng miêu tả, biểu hiện;
chủ thể không chỉ được xem như một yếu tố tạo nên nội dung tác
phẩm mà còn được xem là một phương tiện bộc lộ nội dung của tác
phẩm. Ở những nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo, dấu ấn của chủ
thể càng in đậm trên từng trang viết. Trong công trình Những vấn đề
thi pháp Đôxtôiepxki, M. Bakhtin đã có những khám phá mới mẻ về
nhà nghệ sĩ Đôxtôiepxki trong sáng tác của Đôxtôiepxki. Ông đã gắn
việc nghiên cứu thi pháp với nghiên cứu cái nhìn, cách nhìn, cách cảm thụ
của chủ thể, chuyển thi pháp học từ chất liệu, vật liệu sang thi pháp học chủ
thể, thi pháp học hoạt động tư duy, thi pháp cảm nhận [149, 117]. Từ quan
niệm đó, M. Bakhtin đã có hướng tiếp cận nghệ sĩ như một phạm trù
thi pháp.
Trong thơ trữ tình, chủ thể càng có ý nghĩa quan trọng. Hêghen
đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chủ thể trong sáng tạo thơ ca, coi thơ
trữ tình là sự biểu hiện và cảm thụ của chủ thể. Trong tác phẩm Mỹ
học, ông viết: Trái lại đây là một nội dung thuần tuý chủ quan có nguồn
gốc và điểm tựa ở chủ thể, và chủ thể là người duy nhất, độc nhất mang nội
dung. Chính vì vậy, cho nên cá nhân phải có được một bản tính thi sĩ, phải
có một trí tưởng tượng phong phú, phải có một cảm xúc dồi dào và có thể
lĩnh hội được những ý niệm sâu sắc và đồ sộ [74, 670]. Không còn nghi
ngờ gì nữa về vai trò của chủ thể trong sáng tạo thơ ca. Vấn đề mà
10
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
các nhà lý luận quan tâm là mối quan hệ giữa chủ thể và hình tượng
nhân vật trữ tình, là những hình thức biểu hiện của chủ thể với tư
cách là hình tượng trung tâm của tác phẩm thơ trữ tình. Để thấy rõ
mối quan hệ này, cần thiết phải phân biệt các phạm trù chủ thể và cái
tôi, cái tôi của nhà thơ và cái tôi trữ tình trong tác phẩm.
Chủ thể là một phạm trù được xem xét trong mối quan hệ với
khách thể, là phạm trù đối lập với khách thể ở tính tích cực, thể hiện
ở ý thức, ý chí và khả năng nhận thức, chiếm lĩnh hiện thực khách
quan. Cái tôi là yếu tố của chủ thể, làm cho chủ thể ý thức được chính
mình, là chức năng tự nhận thức của chủ thể.
Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tiếp và thống nhất với
cái tôi trữ tình trong thơ: Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung
tâm, là cái tôi bao quát trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động và
tâm tình trong cuộc đời riêng cũng in đậm nét trong thơ [56, 75]. Cái tôi
của nhà thơ có lúc thể hiện trực tiếp qua những cảnh ngộ riêng, trực
tiếp giãi bày những nỗi niềm thầm kín. Cái tôi của nhà thơ còn hiện
diện qua cách nhìn cách nghĩ, qua tình cảm thái độ trước thân phận
của con người, qua những ước mơ mà nhà thơ khao khát vươn tới.
Tuy nhiên cần nhận thức đầy đủ rằng, cái tôi trữ tình trong thơ và cái
tôi của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái tôi của nhà thơ ngoài đời
thuộc phạm trù xã hội học còn cái tôi trữ tình trong thơ thuộc phạm
trù nghệ thuật. Theo Trần Đình Sử, từ năm 1921, Tưnhanốp đã đưa ra
khái niệm người trữ tình trong thơ để phân biệt với tác giả - nhà thơ ở
ngoài đời. Trong công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam
hiện đại, Hà Minh Đức cũng phân biệt rõ cái tôi của nhà thơ trong
cuộc đời và cái tôi trữ tình trong tác phẩm thơ. Cái tôi trữ tình là cái
tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hóa và trở thành một yếu tố nghệ
thuật phổ quát trong thơ trữ tình.
Thơ là tiếng nói của niềm tin, mơ ước, của khát vọng vươn tới lý
tưởng cao đẹp. Thơ gắn liền với phần tươi đẹp của tâm hồn nhà thơ,
kết tinh những cảm xúc trong sáng, những suy nghĩ cao đẹp của nhà
thơ trước hiện thực cuộc đời. Cái tôi trữ tình in đậm dấu ấn tâm hồn
của thi nhân nhưng không phải là toàn bộ cuộc đời của thi nhân. Thơ
là tiếng nói đồng cảm, thông cảm chia sẻ giữa người và người. Nhiều
Chửụng 1. Caựi toõi trửừ tỡnh trong thụ Huy Caọn
11
cnh ng trong th khụng phi xut phỏt t cuc i riờng ca nh
th m t bao cuc i khỏc. Nh th Súng Hng, trong li ta tp
th ca mỡnh, cú vit: Th tc l s th hin con ngi v thi i mt
cỏch cao p. Th khụng ch núi lờn tỡnh cm riờng ca nh th, m nhiu
khi thụng qua tỡnh cm ú núi lờn nim hy vng ca c mt dõn tc, nhng
c m ca nhõn dõn, v nờn nhng nhp p ca trỏi tim qun chỳng v
xu th chung ca lch s loi ngi... [78, 6-7]. Nhng nh th ln bao
gi cng cú sc ng cm rng ln v sõu sc. Cỏi tụi tr tỡnh trong
th ca h rt phong phỳ a dng, cú khi biu hin trc tip, cú khi
biu hin qua s húa thõn, phõn thõn, cú khi li th hin qua tỡnh
cm, thỏi , cỏch nhỡn i tng m h miờu t. Cỏi tụi tr tỡnh cú
th hin din qua ch tụi ch ta hoc chỳng ta. Cỏi tụi tr tỡnh cng cú
th khụng hin din trc tip nhng nú vn cú mt khp mi ni,
xuyờn thm vo mi yu t ca tỏc phm, úng du n ch quan vo
tỏc phm. Bi th, cú th khng nh rng, cỏi tụi tr tỡnh l yu t
thng ti trong th tr tỡnh. Tỡm hiu cỏi tụi tr tỡnh, trong tỏc
phm th l khụi phc sc thỏi din mo bn sc tõm hn thi nhõn
trong tỏc phm. Nghiờn cu hỡnh tng cỏi tụi tr tỡnh ca cỏc nh
th, mt mt phi ch ra nhng phng din to nờn bn sc ca mt
hn th, mt khỏc phi khỏm phỏ cu trỳc ni ti ca hỡnh tng,
mi quan h gia cỏc phng din khỏc nhau ca tõm hn thi nhõn
trong quỏ trỡnh hỳt nhu cuc i.
Cu trỳc ca hỡnh tng cỏi tụi tr tỡnh trong th rt a dng
nhng theo chỳng tụi cú hai kiu cu trỳc c bn: cu trỳc ht nhõn
v cu trỳc phõn cc. Cu trỳc ht nhõn c th hin rừ nhng
nh th cú u th vt tri v mt vi phng din no ú, ni lờn
thnh bn sc riờng. Cu trỳc phõn cc c th hin nhng hn
th cú nhiu dỏng v, sc thỏi, luụn vn ng v bin i trong hnh
trỡnh sỏng to. Hỡnh tng cỏi tụi tr tỡnh trong th Huy Cn l mt
trng hp tiờu biu cho kiu cu trỳc phõn cc ny.
2. CI TễI TR TèNH VI NHIU I CC
Cỏi tụi tr tỡnh phõn cc c to bi nhiu i cc va a dng
va thng nht, va phõn húa va chuyn húa ln nhau. Nhng i
12
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
cực ấy không chỉ là những màu sắc khác nhau của một viên kim
cương đa diện mà còn là những phương diện khác nhau của hiện
thực khách quan thu hút mối quan tâm thường trực của thi nhân.
Hơn sáu mươi năm qua, hồn thơ Huy Cận luôn luôn chịu sức hấp
dẫn của nhiều đối cực và bộc lộ nhiều sắc thái riêng độc đáo. Đó là
một hồn thơ vừa bám riết lấy cuộc đời vừa vươn tới vũ trụ bao la,
vừa trăn trở trước cái chết vừa nâng niu trân trọng sự sống trên đời,
vừa buồn bã ảo não vừa rộn rã niềm vui, vừa suy tư chiêm nghiệm
vừa hồn nhiên tươi trẻ, vừa bay bổng trong cảm hứng lãng mạn vừa
giàu có cảm hứng hiện thực.
Ở Huy Cận, cái tôi trữ tình rất phong phú đa dạng. Nhưng vấn
đề mà chúng tôi quan tâm hơn là mối quan hệ, sự thống nhất giữa
những phương diện đối lập ấy. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ
Huy Cận không phải là phép cộng giản đơn những thuộc tính nói
trên mà là một chỉnh thể có cấu trúc nội tại, có sinh thành phát triển,
có sự thống nhất và chuyển hóa giữa các đối cực.
Hai cực không gian - Vũ trụ và cuộc đời
Từ những năm 1940, trong lời tựa tập thơ Lửa thiêng, Xuân Diệu đã
khẳng định Linh hồn Huy Cận là linh hồn trời đất; nói thế không sai đâu!
Xem suốt tập thơ Lửa thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác
không gian... [39, 182]. Trong suốt hành trình sáng tạo, hồn thơ Huy Cận
luôn có nỗi khắc khoải không gian. Và từ cảm quan không gian, Huy
Cận mở ra thành cảm quan vũ trụ.
Cảm quan về không gian là sự nhạy cảm đặc biệt của tâm hồn
Huy Cận từ thời niên thiếu và về sau đã làm nên một đặc điểm riêng,
một thế mạnh riêng của thơ Huy Cận. Nhà thơ nhớ lại thuở nhỏ theo
trẻ chăn trâu lên núi làm chiếc trống đất, mặt trống là sợi dây rừng,
tang trống là cả bề dày của đất núi. Âm thanh đơn sơ ấy cứ vang mãi
trong tâm hồn của thi nhân:
Chiếc trống vang lên điệu cổ sơ
Vang từ lòng đất - Đến bây giờ
Chửụng 1. Caựi toõi trửừ tỡnh trong thụ Huy Caọn
13
Tụi cũn nghe rừ trong chiu ln
Ting di nh l t th ra
(Chic trng t)
m thanh trng t vang ta, m ra mt khụng gian rng ln
ca t tri, ng thi khin t tri tr nờn gn gi.
Cng t thu niờn thiu y, Huy Cn hay i th diu cựng vi chỳ. Lỳc
y nh th cm giỏc rt c th v khụng gian trờn cao: Tay cm u dõy m
cm giỏc nghe c giú u tay, khụng gian trờn cao tr nờn rt c th, rt
sng, rt nh trong tay ngi th diu. ễi nhng tra hố tri xanh ngt,
vng búng mõy, hai chỳ chỏu say sa gia cỏnh ng rng cú phi ú l
nhng cm giỏc khụng gian u tiờn, cm giỏc bỏt ngỏt v sau nú nhp vo
th tụi thnh mt th ỏm nh, thnh mt hi th ca bỏt ngỏt, ca mờnh
mụng, ca tri t [27, 344].
Trc Cỏch mng thỏng Tỏm, sng trong xó hi ti tm ngt
ngt, Huy Cn thng trc mt nhu cu gii thoỏt:
A th y, chn hng ngy c trỳ
Vỏn bi i may mn ch ự suụng
ễi! Tõm t ngn gia bn bc tng
Ch giú mi, nhng ca u úng kớn
(Quanh qun)
Trc thc trng ú, nh th khụng th cỳi mt trc cừi i m
phi ngng lờn kim giú, phi trụng lờn cừi bic xa xm v i vo v
tr... Hnh trỡnh n vi v tr c Huy Cn núi lờn rt c th
trong bi th Trụng lờn. Trụng lờn khụng n thun l mt ng tỏc
tr tỡnh m chớnh l nim khỏt vng chim lnh khụng gian trờn cao
ca nh th. T mt t, Huy Cn Nm im di gc cõy t v say mờ
Nhỡn xuõn tri la muụn t lỏ non. Nhng cỏi nhỡn ca nh th khụng
dng li ú, t chựm lỏ non nh th hng thng ti bu tri, a
cỏi gn trc mt nõng lờn khong xa xanh.
Gia tri hỡnh lỏ con con
Tri xa sc bin, lỏ thon mỡnh thuyn
14
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Gió qua là ngọn triều lên
Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời
Đây là cái nhìn, đồng thời cũng là tưởng tượng, mộng mơ. Gió
không những đẩy thuyền lá giữa trời mà còn chở hồn lên tận chơi vơi
nơi cõi biếc, cảm quan vũ trụ, niềm khắc khoải không gian càng da
diết và thường trực hơn trong tập thơ Vũ trụ ca. Giờ đây nhà thơ
không chỉ nằm im để trông lên mà chủ động hào hứng đi tới:
Ta đi một mình trên đê nhỏ
Ta góp chân nhanh cùng bốn gió
Ta đi mau quá tầm chân người
Ta gặp hồn ta trong vũ trụ
(Xuân Hành)
Đối với Huy Cận, niềm khát vọng vươn tới vũ trụ cũng chính là
niềm khát vọng tự do, sức hấp dẫn của vũ trụ là niềm vẫy gọi trở về
cội nguồn, trở về căn bản tồn tại của cá thể. Nhà thơ đến với vũ trụ là
gặp được chính tâm hồn mình, là tìm được nguồn an ủi và phút giây
hạnh phúc.
Vũ trụ trong tâm thức của Huy Cận là nơi cư trú của hồn xa, nơi
niềm vui tràn đầy trong Triều nhạc. Chính vì thế nhà thơ thường có
tâm trạng bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài và khát khao đón nhận
những tín hiệu từ không gian xa xôi dồn tới. Niềm khắc khoải không
gian và cảm hứng vũ trụ trong thơ Huy Cận trước Cách mạng là một
hướng siêu thoát thanh cao như các nho sĩ bất đắc chí thời trung đại.
Nhưng khác với các nhà thơ xưa, cái tôi trữ tình của Huy Cận không
hòa tan vào vũ trụ mà vẫn ý thức sâu sắc thân phận cá nhân, tình
trạng cầm tù của bản thân mình nơi trần thế.
Có lẽ cảm nhận được tình trạng lưỡng phân của hồn thơ Huy
Cận thời Lửa thiêng, Hà Minh Đức đã nhận định: Huy Cận cũng có
nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song
chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại [62, 13]. Nhà thơ
Huy Cận đến với thiên nhiên, hướng tới vũ trụ là để thoát khỏi cuộc
Chửụng 1. Caựi toõi trửừ tỡnh trong thụ Huy Caọn
15
i ti tm, qun quanh, b tc, l gi tõm hn mỡnh trong sch
trc bi bn trn gian. Dự cú lỳc tõm hn ụng c hng hoa
tng tng nõng tn chi vi ca tri xa cừi bic nhng tm lũng
ca ụng vn nng tỡnh i, vn gn bú rng rt vi cuc i, vn quan
tõm n s phn con ngi trong xó hi c. ú l mt tin quan
trng sau ny Huy Cn tỡm c rt nhiu th gia cuc i, hoa
gia nng.
V tr v cuc i luụn song hnh, tn ti v tr thnh hai cc
hp dn hn th Huy Cn trong hnh trỡnh sỏng to. Th Huy Cn
ngy cng gn bú hn vi cuc i nhng cm hng v cuc i
khụng tỏch ri cm hng v tr. Huy Cn quan nim: Con ngi sng
trong v tr v sng trong xó hi. Sng vi v tr v sng vi xó hi. Mt
thnh viờn ca v tr v mt thnh viờn ca loi ngi. Mi con ngi
trong bn thõn mỡnh sng c quy lut ca v tr v quy lut ca loi ngi.
Hai cc ca cuc sng, hai cc ca t tng, hai cc ca ngh thut, ca
th [27, 352]. Con ngi sng trờn Trỏi t, cng yờu mn hnh tinh
xanh ca mỡnh, h cng m c vn xa v mt cừi bt dit. Vn xa,
lờn cao va l tỡm hiu nhng bớ mt ca v tr ng thi va
nhỡn li Trỏi t, nhỡn li chớnh mỡnh. Khi k nguyờn du hnh v tr
ó c m ra t Liờn Xụ v i, cm xỳc v tr trong th Huy Cn,
nh bum c giú, cng di do hn.
c m ca Huy Cn cú c s hin thc khi con tu v tr ca
Liờn Xụ c phúng lờn mt trng nm 1959:
T mai nhõn loi ó lờn trng
em m nhõn gian n Qung Hn
Hnh phỳc du cha trũn trỏi t
Ngi vo v tr m thờm xuõn
(Ga u v tr Mc T Khoa)
V tr trong ụi mt ca Huy Cn t Tri mi ngy li sỏng
khụng cũn xa xụi v bớ n nh trc. Nú tr nờn gn gi thõn thit,
hn nhiờn nh to vt hin hu xung quanh cuc sng con ngi.
ng trc bin Huy Cn thy:
Ket-noi.com chia se mien phi
16
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Sóng trắng bờm phi hí gió mai
Mây bay tới tấp ngập chân trời
Phải chăng vũ trụ thừa dư sức
Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi
(Bãi biển cuối hè)
Vũ trụ rộng lớn, vô hạn và trường tồn. Đứng trước vũ trụ bao la
con người thường có cảm giác rợn ngợp vì thấy sự hữu hạn và bé nhỏ
của con người. Còn Huy Cận lại chiêm ngưỡng vũ trụ như là đối
tượng thẩm mỹ, là cái đẹp chứ không phải là cái cao cả. Bởi ông phát
hiện ra sự tương đồng giữa vũ trụ và con người. Trong đại vũ trụ kia
cũng chứa đựng những vẻ đẹp, những tính cách của tiểu vũ trụ - con
người. Từ cách nhìn đó, ông đã chuyển hóa cái đẹp của con người
vào cái đẹp của vũ trụ, đưa tính cách của sự vật gần gũi vào thuộc
tính phổ quát của vũ trụ bao la. Có lẽ vì thế mà Trong thơ anh, vũ trụ
không kềnh càng, không cồng kềnh, chẳng vô tri mà cài vào những chuyện
hàng ngày, những ý nghĩ hàng ngày của anh [39, 107]. Vũ trụ trong thơ
Huy Cận cũng biết đùa như trẻ con, cũng hiếu động thừa dư sức
thỉnh thoảng chồm lên như trẻ con. Những sự vật, hiện tượng trong
vũ trụ trở nên xinh xắn, tươi tắn như một chùm hoa núi:
Gió núi em ơi thổi vút về
Nghìn hoa hương lạ sắc say mê
Lòng anh hái cả cho em đó
Hái cả chùm mây, sợi gió se
(Chùm hoa núi tặng em)
Các nhà khoa học chiếm lĩnh vũ trụ bằng những phát minh đưa
con người ngày càng vươn tới những khoảng không vô tận, đến
những hành tinh xa xôi còn các nhà thơ, chiếm lĩnh vũ trụ bằng độ
nhạy cảm của tâm hồn. Từ trụ sở của con người nơi Trái Đất, bằng liên
tưởng, tưởng tượng, Huy Cận đã liên lạc với những khoảng rộng xa.
Tâm hồn nhà thơ như cái “ăng ten” bắt sóng, thường xuyên nhận
những tín hiệu từ vũ trụ truyền tới. Những tín hiệu ấy được Huy Cận
Chửụng 1. Caựi toõi trửừ tỡnh trong thụ Huy Caọn
17
nhn qua ting giú thm thỡ, qua hi th bin c, qua tia nng vng,
qua si ma mau. Cú lỳc nh th bng thng tht trc mt ting gi
m h no ú t ni xa truyn ti:
Ai gi ngoi kia hay giú ờm
Ai khua bờn ca, n bờn thm
Lũng i hóy dy cựng tri t
Khụng th nm yờn, ht ng yờn.
(Thm mựa Hu p)
Nh th Xuõn Diu ó cú mt ln t vn : Dng nh tõm trớ
Huy Cn cú nhng giao thip huyn bớ gỡ vi giú ni ban ờm ny; giú thm
kớn, t xụn xao khụng bit vỡ õu; phi chng v tr cú nhng tõm s ni
nim chi xa ta lm, mn giú ca khớ quyn Trỏi t hộ ra chỳt ớt bớ
mt? [39, 113]. Núi n giú l núi n mt hin tng thiờn nhiờn, núi
n ln khụng khớ chuyn ng ch gin n nh vy nhng vi nh
th Huy Cn thỡ giú l ni nim ca v tr, l ting núi ca t tri.
Giú vn vụ hỡnh, nh cỏc s vt trong khụng gian m tr nờn cú hỡnh
cú ting. Giú ỏnh thc mi giỏc quan ca con ngi, lay gi s chỳ ý
ca con ngi. Mt hn th tinh t nhy cm nh Huy Cn lm sao
th trc giú. ó bao ờm nh th thc cựng giú v nh giú giao
thip vi v tr vi xa:
ờm nm khụng ng cũn cay mt
u ngng, lựm tre giú mỏt a.
(Ngy sỏng dn lờn)
Cú nhng ờm giú dy thỡnh lỡnh
Nh xao xuyn mt nim chi cht thc
Nh s sng bng di thờm kớch thc
Nh cun thc trũn bng m o xa...
(Cú nhng ờm)
Nh th phỏt hin ra kh nng dn truyn ca giú; giú l cu ni
khụng gian, l mi lỏi gia s vt:
18
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Đêm lạnh tầng xanh đón gió cao
Gió là mối lái giữa trăng sao
Ai trong thăm thẳm treo cầu gió
Cho nỗi niềm xa đến với nhau.
(Đêm lạnh cuối thu)
Nỗi niềm xa đó là nỗi niềm của vũ trụ mà nhà thơ cố gắng nắm
bắt qua từng cơn gió thoảng. Đã bao lần đón gió, nghe tiếng gió
nhưng tâm hồn Huy Cận vẫn khắc khoải khôn nguôi trước bí ẩn của
vũ trụ:
Đến bao giờ, đến bao giờ vũ trụ
Mới cho ta nghe hết nỗi niềm xa?
Người đã vào vũ trụ như về nhà
Nhưng gió đến nửa đêm chưa hết lạ.
Có phải thân ta có một bề hoa lá
Và một bề gió thổi không ngưng.
(Có những đêm)
Sức hấp dẫn của vũ trụ đối với hồn thơ Huy Cận chính là sức
hấp dẫn của niềm khát vọng tự tìm hiểu mình trong vũ trụ và tìm
hiểu vũ trụ trong bản thân mình. Con người là đứa con của vũ trụ;
làm sao hiểu được con người nếu không tìm về cội nguồn? Thơ ca
chân chính bao giờ cũng hướng tới con người, thâm nhập thế giới vi
mô của tâm hồn người. Nhưng hướng tới vũ trụ cũng chính là hướng
tới con người, bởi vũ trụ là cái nôi của con người. Tâm hồn nhà thơ
vươn tới những khoảng rộng xa cũng là để trở về gần gũi:
Vũ trụ nghìn năm vẫn mẹ hiền
(Ốm dậy)
Nếu từ Lửa thiêng đến Vũ trụ ca, hồn thơ Huy Cận có khuynh
hướng vận động từ cuộc đời tới vũ trụ thì sau Cách mạng nhà thơ lại
đi từ vũ trụ vời xa đến với cuộc đời gần gũi. Hiện thực cuộc sống sôi
động, hào hùng của dân tộc từ sau Cách mạng có sức hấp dẫn mãnh
liệt tâm hồn thi nhân. Nhà thơ ngày càng lắng nghe nhiều hơn âm
Chửụng 1. Caựi toõi trửừ tỡnh trong thụ Huy Caọn
19
vang ca i sng. Bao ln õm thanh cuc i thu hỳt s chỳ ý lng
nghe ca Huy Cn, nhp vo bn n thi ca ca Huy Cn: Ting sỏo
anh iu mự, Bi hỏt ca tỏm chng th mc, Bi hỏt ca nhng ngi
kộo g, Ting hỏt trờn cng, Bi ca i thp ốn bin, n t rng...
Ngha l nh th ngy cng thớch nghe nhng ting i, lng nghe
nhng õm thanh ca cuc sng lao ng:
Sỏng ngy thu ti ốo Nai
Rớu ra rớu rớt goũng ai n mựa
(Thu v trờn ốo Nai)
V bit bao õm thanh ca cuc sng, ca s sng vang lờn bng
tm ging khp mi ni, mi lỳc:
Gia ờm sng hay tra nng, tụi nghe ting nt ca ht ca mm
Sỏng sm dy, tụi nghe nhng con bờ ca rn ũi bỳ
Ting lỏch cỏch ca cuc cy tranh th cy kp v
V ting g gỏy ven sụng nỏo nc bit bao nhiờu
Mi ngy mi mc lờn li rn rp muụn iu.
(Cu Hm Rng)
Hng v cuc i nhng Huy Cn vn khụng thụi khc khoi
khụng gian, vn tha thit vi tri rng sụng di. Khi cm quan v
tr hũa hp vi cm quan cuc i thỡ khi ú ngun cm hng th
ca ca Huy Cn bng tr nờn do dt. Nim vui sng ca thi nhõn
trờn hnh trỡnh sỏng to l tỡm c v p hi hũa gia cuc i v
v tr.
T nhng ngy nhen nhúm ngn La thiờng, hỏt bi V tr ca
n nhng nm thỏng ho hng i trờn t n hoa vit nhng
Bi th cuc i, Huy Cn cng tỡm thy s hi hũa gia con ngi
v v tr. Cm quan v s hi hũa gia cỏ nhõn v cng ng, gia
con ngi v v tr khụng dng li mt vi nột riờng l m i vo
ton b ý thc ngh thut ca Huy Cn, i vo cm ngh, liờn tng,
vo hỡnh nh, nhp iu th, to nờn nhng cõu th cõn xng hi hũa,
m ỏp tỡnh, ngi, tỡnh yờu cuc sng:
20
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Biển lặng em nằm trong gió êm
Anh là bóng thức của hồn em
Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng
Từng cặp nhân vàng trong trái đêm
(Anh viết bài thơ)
Còn gì đẹp và thơ mộng hơn một hạnh phúc trong sự nâng niu,
ôm ấp của vũ trụ, của cuộc đời? Hạnh phúc của cá nhân, của lứa đôi
càng được nhân lên rất nhiều trong không khí ân tình của xã hội. Phải
chăng đó là lúc đất trời tương giao tương ngộ khiến vạn vật hóa sinh,
xã hội hưng thịnh và con người tràn đầy nhựa sống, tràn trề hạnh phúc.
Cái tôi trữ tình trong thơ Huy Cận ở giai đoạn nào cũng chịu hai
cực hấp dẫn: vũ trụ và cuộc đời, nhưng sức hấp dẫn mạnh mẽ nhất
vẫn là cuộc đời, là mặt đất. Đúng như nhận định của Giáo sư Hà
Minh Đức: Tâm hồn mở rộng ra vũ trụ thênh thang nhưng chủ yếu Huy
Cận vẫn hướng về cuộc đời, ôm ấp chắt chiu sự sống, từng nụ mầm đời
[63, 327]. Đó cũng là cơ sở để nhà thơ Tế Hanh phác thảo bức chân
dung tinh thần Huy Cận trong bốn câu thơ này:
Các bạn dần đi còn lại anh
Vượt qua thế kỷ bước xuân hành
Đôi chân bám rễ sâu lòng đất
Đầu ngẩng lên chào vũ trụ xanh.
(Bước xuân hành)
Hai cực nhân sinh - Sự sống và cái chết
Trong hành trình sáng tạo thơ ca, Huy Cận dành nhiều bài thơ,
câu thơ viết về cái chết, về sự hy sinh mất mát của con người. Số bài
thơ viết về cái chết hoặc đề cập gần xa đến cái chết chiếm tỷ lệ 10%
trong số những bài thơ của Huy Cận đã xuất bản (70 bài trên tổng số
hơn 700 bài). Riêng tập thơ Hạt lại gieo tỷ lệ ấy lên tới trên 25% (21
bài trên tổng số 80 bài).
Chöông 1. Caùi toâi tröõ tình trong thô Huy Caän
21
Sống và chết là hai cực của nhân sinh, là mối quan tâm lớn nhất
của con người. Là người yêu đời, thiết tha với cuộc sống, Huy Cận
càng không thể thờ ơ trước sự sống và cái chết. Từ tuổi hai mươi
đang dạt dào nhựa sống, Huy Cận đã ý thức được:
Hai bờ sống chết đời ru võng
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông.
(Lượng vui)
Gần năm mươi năm sau, khi đã thuộc lớp người xưa nay hiếm,
Huy Cận càng ý thức sâu sắc hơn về điều đó:
Bạn ra đi với chúc bút vô đề
Nghĩa là cái đề lớn nhất: sự sống cái chết
Thế giới bên này, thế giới bên kia
(Mai sau II)
Sống và chết trong quan niệm của Huy Cận thời Lửa thiêng như
là hai đối cực không gian mà con người tồn tại, như là hai thế giới trú
ngụ của linh hồn người. Khi thế giới bên này đầy những đắng cay
buồn tủi thì nhà thơ muốn linh hồn mình sang thế giới bên kia:
Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái!
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường
(Trình bày)
Ý muốn trả lại linh hồn cho Thượng đế là thái độ phủ nhận thực
tại một cách quyết liệt đồng thời thể hiện nhu cầu giải phóng tinh
thần của nhà thơ Huy Cận thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám.
Nhưng khác với những con chiên ngoan đạo thanh thản trở về với
Chúa, Huy Cận lòng chứa chất bao ưu tư sầu tủi và đầy mâu thuẫn
khi trình bày, cầu khẩn trước Thượng đế thiêng liêng, vẫn biết rằng,
đời là bể khổ nhưng sang thế giới bên kia đâu phải là xứ sở hạnh
phúc, yên bình:
22
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Người thi sĩ đã nguyện cầu Thượng đế
Một đôi lần nhưng vốn nghiệp đi hoang
Thì chết rồi, chắc người vẫn lang thang
Như buổi sáng ở trong bầu trăng gió
Ở địa ngục hay thiên đường không rõ.
(Mai sau)
Cõi chết theo cách hình dung của Huy Cận là thế giới tối tăm,
câm lặng và bất biến. Nơi ấy thể xác bị giam trong mồ nhỏ tí, còn
linh hồn vĩnh viễn cô đơn không bạn lứa cũng không mền ấm nóng. Khi
ở trong cõi chết, linh hồn người càng tha thiết khát khao sự sống
biết bao:
Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống
Ở trên đời: - Đầu ấy ngẩng lên cao.
(Chết)
Trong xã hội cũ có chuyện buồn thương, sầu tủi nhưng có gì
buồn hơn khi nghe tiếng nhạc sầu tiễn đưa thể xác, linh hồn người về
cõi chết:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
Nghe tiếng nhạc sầu, Huy Cận xót xa cho thể xác của con người
vật vã trên chiếc xe tang, càng xót thương cho linh hồn người phải
sang cõi hư vô lạnh lẽo. Lời nhắn nhủ của nhà thơ với người đời chứa
chan bao nhân ái:
Và ngựa ơi, đi nhịp đằm chớ nhẩy
Kẻo thân đau, chưa quen nệm giường đời.
Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi,
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Chöông 1. Caùi toâi tröõ tình trong thô Huy Caän
23
Người đã chết - Một vài ba đầu cúi,
Dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ
Để cho linh hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp.
(Nhạc sầu)
Điều đáng quý ở Huy Cận là ngay trong lúc buồn bã ảo não
như thế nhà thơ vẫn không đánh mất niềm tin vào con người mà
nâng niu trân trọng những mặt người ấm áp. Huy Cận có niềm xác
tín sâu sắc về sự vĩnh hằng của linh hồn người và sự bất tử của sự
sống. Càng trân trọng con người, càng thiết tha với sự sống, ông
càng thương những cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc, càng muốn an ủi
cho những linh hồn lưu lạc bơ vơ. Huy Cận có lúc siêu hình một cách
nhân bản và nhân bản ngay trong cõi siêu hình [140], lời nhận xét trên
đây của nhà thơ Vũ Quần Phương rất phù hợp với thực tế tâm hồn
của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận càng viết nhiều hơn về cái chết
nhưng tâm trạng và cách nhìn nhận của nhà thơ đã khác xưa. Nếu trước
đây nhà thơ quan niệm rằng, chết là trả trái sầu, ngọc đau buồn và linh hồn
nhỏ cho Thượng đế thì giờ đây nhà thơ lại quan niệm, chết là trở về với
đất mẹ, là trả lại cho đời một kiếp người đầy nhựa đất, chết là hóa thân vào
không gian, thời gian vô tận.
Cảm động biết bao trước lời nhắn gửi của Huy Cận với người bạn tri
ân đã khuất:
Biển lớn băng qua, ấy biển đời
Biển vào vũ trụ, ánh sao mời
Diệu dò thế giới bên kia trước
Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.
(Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh)
Những lúc Huy Cận nghĩ về cái chết cũng là lúc nhà thơ càng ý
thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về sự sống bất tử, về vũ trụ trường tồn,
về cây đời, biển đời xanh tươi mãi mãi:
24
NHỮNG VẤN ĐỀ THI PHÁP THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Sóng nói điều chi mãi chẳng thôi
Tiếng riêng tạo hóa nói cùng người
Dạt dào sự sống rằng không mỏi
Trong, mặn làm nên nụ sóng cười.
(Dạo trên bờ biển)
Vũ trụ trường tồn, sự sống bất tử nhưng cuộc đời của cá nhân là
hữu hạn, con người không thể tránh được cái chết. Đứng trước thực
tế đó Huy Cận không khỏi nuối tiếc, xót xa:
Còn tiếc đời, ôi! Tiếc lắm, em
Tiếc mà muốn dậy nửa chừng đêm
Kêu to một tiếng rồi ôm hết
Sự sống trên đời vô trái tim.
Đấy không phải là lòng ham sống sợ chết tầm thường mà chính
là niềm khát vọng được công hiến, được sáng tạo:
Rồi một ngày kia giã cõi này
Xin cho gieo hết hạt trong tay
Chứ tay còn nắm chưa vơi hạt
Mà phải ra về cực lắm thay.
(Hạt lại gieo)
Những dòng thơ này được Huy Cận viết vào cuối năm 1974, khi nhà
thơ đang nằm bệnh viện, đang trải qua thử thách lớn của sự mất còn.
Càng nghĩ về cái chết nhà thơ càng yêu hơn sự sống, càng khát khao được
sống và càng muốn được gần gũi, gắn bó hơn với mọi người. Huy Cận
dành nhiều vần thơ cho vợ, cho con, cho anh em bè bạn. Những vần thơ
cứ trào lên từ đáy lòng thi sĩ, như là tiếng nói của một người sắp phải từ
giã cõi đời. Khi nghĩ về vợ và giờ phút phải sắp xa cõi đời, nhà thơ tiếc
nuối những giây phút ngọt ngào của tình yêu nơi trần thế:
Em hỡi, đôi ta sẽ chẳng còn
Ung dung tạo vật sẽ bền hơn
Nhưng đâu có được đôi làn mắt
Soi tâm hồn anh mỗi sớm hôm.
(Buổi sáng nhìn ra)
Chöông 1. Caùi toâi tröõ tình trong thô Huy Caän
25
Đối diện với cái chết, lòng khát vọng sống trong tâm hồn nhà thơ
càng bùng lên mãnh liệt:
Thấy đời đẹp quá, yêu em quá
Anh lại bừng say, lại viết thơ.
(Vào bệnh viện)
Khát vọng sống khi vấp phải quy luật nghiệt ngã của tự nhiên lại
được chuyển hóa thành niềm khát vọng tái sinh như đóa hoa tàn kết
tinh vào hạt, như gốc tre già trồi mới những mầm non. Chính niềm
tin vào sự bất diệt của sự sống đã nâng đỡ tâm hồn nhà thơ, giúp nhà
thơ có được cái nhìn thật lạc quan:
Đời thân yêu một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Để ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nằm đất quen như hạt sang mùa.
(Say mùa hè)
Bài thơ Trò chuyện với Kim Tự tháp bộc lộ những suy nghĩ đúng
đắn sâu sắc của nhà thơ Huy Cận về vấn đề sự sống và cái chết.
Những ông vua của Ai Cập cổ đại xây dựng Kim Tự tháp để ôm cái
chết mong thắng dần cái chết. Nhưng họ đã nhầm. Không thể lấy cái
chết để ngăn rào cái chết. Chỉ có sự sống mới thắng được cái chết, chỉ
có sự sống với luật tế bào liên tục hóa sinh mới là vĩnh cửu. Đó là
điều mà Huy Cận muốn trò chuyện với Kim Tự tháp và cùng thế hệ
bạn đọc hôm nay.
Trong những năm tháng đất nước có chiến tranh, thơ Huy Cận
nói nhiều về cuộc đấu tranh, quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Kẻ
thù hàng ngày gieo rắc cái chết trên khắp mọi miền đất nước chúng
ta, bọn chúng muốn dùng cái chết để hủy diệt sự sống nhưng sự sống
vẫn sinh sôi mãnh liệt trên mảnh đất này. Hàng triệu người dân
Việt Nam đã chiến đấu anh dũng để đẩy lùi cái chết. Những chiếc xe
ra tiền tuyến như Tỏa khắp thân luồng sống tự tim hồng (Xe ta ơi, lên đường).
Những anh Công binh bắc cầu đêm giao thừa là sứ giả của mùa xuân,
của sự sống: