Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bình luận, đánh giá ưuđiểm, hạn chế của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (với tư cách lànhững doanh nghiệp có chủ đầu tư chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.13 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xét về tính lịch sử, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân là những
loại hình doanh nghiệp xuất hiện sớm nhất. Cùng với sự xuất hiện thêm các loại
hình công ty mới với nhiều ưu thế về vốn, thành viên như Công ty cổ phần,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân vẫn
tồn tại độc lập và được nhiều nhà đầu tư lựa chọn trong quá trình kinh doanh.
Vậy, trách nhiệm vô hạn là gì? Tại sao chế độ trách nhiệm vô hạn lại tạo ra
được nhiều ưu thế của Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân? Để làm rõ
được vấn đề này, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu đề tài “Bình luận, đánh giá ưu
điểm, hạn chế của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (với tư cách là
những doanh nghiệp có chủ đầu tư chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản)”.

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM VÔ HẠN CỦA CHỦ
DOANH NGHIỆP, DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CÔNG TY HỢP
DANH.
1. Khái quát chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp
1.1. Khái niệm.
Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa.
Thứ nhất, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ. Thứ hai, trách nhiệm được hiểu là
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật.
Như vậy, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp phải được hiểu theo nghĩa thứ
hai, tức là chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ với các đối tác của doanh nghiệp về
những khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của Doanh nghiệp.
Trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp được phân ra làm hai loại là: chế
độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, trách nhiệm vô
hạn là nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp.


Như vậy, khi nói đến vấn đề trách nhiệm của chủ doanh nghiệp ta có thê


ngầm hiểu rằng có sự tồn tại một ranh giới giữa tài sản dân sự và tài sản thương
mại của chủ doanh nghiệp. Nếu là trách nhiệm vô hạn thì chủ doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của doanh nghiệp bằng toàn
bộ khối tài sản của mình, bao gồm cả tài sản dân sự và tài sản thương mại cho
đến khi thanh toán hết.
Với những yêu cầu mà đề tài nêu ra nên việc nghiên cứu chủ yếu tập chung
vào chế độ trách nhiệm vô hạn, những ưu điểm và hạn chế của nó, cũng như
việc chi phi phối của nó đối với tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp tư nhân
và Công ty hợp danh.
1.2. Đặc điểm chế độ trách nhiệm vô hạn.
1.2.1. Việc xác định chế độ trách nhiệm vô hạn luôn gắn với chủ doanh
nghiệp.
Khẳng định chế độ trách nhiệm vô hạn gắn với chủ doanh nghiệp mà không
phải là doanh nghiệp bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, chỉ có chủ doanh nghiệp
mới xác định được rõ hai phần tài sản, tài sản dân sự thuộc sở hữu riêng của chủ
doanh nghiệp, không liên quan đến doanh nghiệp và tài sản thương mại, đã được
chủ doanh nghiệp đầu tư vào doanh nghiệp để thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Còn đối với bản thân doanh nghiệp, nguồn vốn hình thành chủ yếu là do các
thành viên trong doanh nghiệp đầu tư vào hay vay nợ từ các tổ chức, cá nhân
khác. Và dù được hình thành theo hình thức nào, thì nguồn vốn của doanh
nghiệp cũng là một khối thống nhất, được quản lý và sử dụng vào hoạt động của
doanh nghiệp, không hề tồn tại khái niệm tài sản dân sự hay tài sản thương mại
của doanh nghiệp.
Chính bởi lẽ đó, việc xác định chế độ trách nhiệm vô hạn chỉ gắn với chủ
doanh nghiệp mà không phải doanh nghiệp.
1.2.2. Loại chế độ trách nhiệm vô hạn chỉ gắn với cá nhân chủ doanh
nghiệp.



Chủ doanh nghiệp có thể là cá nhân hoặc tổ chức, tuỳ từng loại hình doanh
nghiệp mà pháp luật quy định những đối tượng nào có thể trở thành chủ doanh
nghiệp.
Một tổ chức có thể tồn tại dưới nhiều tên gọi và hình thức khác nhau, có tổ
chức có tài sản riêng, độc lập với các thành viên (các pháp nhân), cũng có những
tổ chức mà tài sản không hoàn toàn độc lập mà phụ thuộc vào các tổ chức, cá
nhân khác (các tổ chức sử dụng vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước). Do
đó, không dễ dàng để xác định tài sản riêng của tổ chức và tài sản của tổ chức đã
đầu tư vào doanh nghiệp.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, có hai loại hình doanh nghiệp có
chủ sở hữu chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của doanh nghiệp,
đó là Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh. Việc phân tích, đánh giá
những ưu điểm hạn chế của chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tới
hai loại hình doanh nghiệp này sẽ được trình bày cụ thể ở phần dưới đây.
2. Doanh nghiệp tư nhân
2.1. Khái niệm:
Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa: “Doanh nghiệp tư nhân
(DNTN) là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư
nhân không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào; mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân”.
2.2. Đặc điểm:
2.2.1. Chế độ trách nhiệm: Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm
vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
Hầu như không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh
của DNTN và phần tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ DNTN. Vì vậy, gần như
không có tính độc lập, tách biệt giữa tài sản của doanh nghiệp tư nhân với tài sản
của chủ DNTN.



Do đó chủ DNTN - người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của
DNTN không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp trong phạm
vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã
đăng ký không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp.
Chính chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN quy định các đặc điểm
pháp lý khác của DNTN.
2.2.2. Thành viên: Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ.
Xuất phát từ chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN tư nhân nên doanh
nghiệp tư nhân nằm trong số các doanh nghiệp do cá nhân làm chủ.
Tính chất một cá nhân làm chủ được thể hiện rõ thông qua chế độ sở hữu về
vốn, chế độ tổ chức, quản lý và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp. Theo
đó, về cơ bản, việc tổ chức, quản lý, phân phối lợi nhuận cũng như góp vốn, sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp đều do chủ DNTN tự quyết định.
2.2.3. Tư cách pháp lý: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp
nhân.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, DNTN là doanh nghiệp
duy nhất không có tư cách pháp nhân. Lý giải cho quy định này bởi, một trong
các tiêu chuẩn để một tổ chức được công nhận tư cách pháp nhân theo quy định
tại Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 là tổ chức đó phải có tài sản độc lập với cá
nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Trong khi đó, như đã
phân tích ở trên, tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự độc lập hoàn toàn
với tài sản riêng của doanh nghiệp tư nhân.
3. Công ty hợp danh.
3.1. Khái niệm:
Công ty hợp danh (CTHD) là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng
nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hang chung và cùng liên đới
chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.



Khái niệm Công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam có nội hàm
giống như pháp luật các nước. Song ngoại diên khái niệm công ty hợp danh có
rộng hơn. Bởi lẽ, theo Điều 130 LDN thì công ty hợp danh bao gồm hai loại:
- Thứ nhất, CTHD chỉ bao gồm các thành viên hợp danh (cùng liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty);
- Thứ hai, công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp
vồn, trong đó thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty
3.2. Đặc điểm:
Theo quy định của LDN 2005 thì CTHD có các đặc điểm sau:
3.2.1. Chế độ trách nhiệm:
Trong CTHD có thể tồn tại hai loại chế độ trách nhiệm khác nhau:
- Trách nhiệm vô hạn đối với các thành viên hợp danh. Trách nhiệm hữu hạn
trong CTHD là “liên đới chịu trách nhiệm vô hạn”. Việc liên đới chịu trách
nhiệm có nghĩa, các chủ nợ có thể yêu cầu một trong các thành viên hợp danh
phải thanh toán tất cả các khoản nợ cho các thành viên hợp danh còn lại và
thành viên này sẽ được hoàn trả lại từ thành viên khác.
- Trách nhiệm hữu hạn đối với các thành viên góp vốn. Chế độ trách nhiệm
hữu hạn của thành viên góp vốn giới hạn trách nhiệm của các thành viên này đối
với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của công ty trong phạm vi số vốn đã góp.
Mặc dù có thể có sự tồn tại hai chế độ trách nhiệm như trên, song chế độ
trách nhiệm chính, chủ đạo, chi phối hoạt động của công ty vẫn là chế độ trách
nhiệm vô hạn. Bởi lẽ, Pháp luật quy định, CTHD phải có ít nhất từ hai thành
viên hợp danh trở lên, có thể có hoặc không có thành viên góp vốn. Do đó, về
mặt bản chất, CTHD là một loại hình công ty đối nhân.
Cũng chính từ hai chế độ trách nhiệm cho hai loại thành viên như trên đã
làm phát sinh những hệ quả pháp lý khác quy định đặc trưng của CTHD so với
các loại hình doanh nghiệp khác, mà đặc biệt là sự khác biệt về quyền và nghĩa
vụ của thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.

3.2.2. Thành viên:


- Công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; thành viên hợp
danh phải là cá nhân.
Việc quy định số lượng thành viên hợp danh tối thiểu nhằm phân biệt chế độ
trách nhiệm của CTHD và DNTN. Chế độ trách nhiệm trong công ty hợp danh
là “liên đới chịu trách nhiệm vô hạn”, tức là phải có sự liên đới chịu trách nhiệm
của nhiều thành viên, mà tối thiểu là từ hai thành viên trở lên.
- Công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn, thành viên góp vốn
chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Việc mở rộng loại thành viên của CTHD nhằm tạo ra nhiều ưu thế về thành
viên, về vốn hơn cho công ty, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư không
muốn chịu trách nhiệm vô hạn.
3.2.3. Tư cách pháp lý:
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
II. ĐÁNH GIÁ ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÔNG TY HỢP DANH VÀ
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN.
1. Những điểm giống nhau.
Do có đặc điểm chung là có chủ sở hữu doanh nghiệp chịu chế độ trách
nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của doanh nghiệp nên DNTN và CTHD đều có
những ưu điểm và hạn chế của loại hình doanh nghiệp có chủ sở hữu chịu chế
độ trách nhiệm, cụ thể là:
1.1. Ưu điểm.
1.1.1. Doanh nghiệp tạo được sự tin cậy, uy tín đối với các đối tác và đặc
biệt là các chủ nợ.
Nhờ vào chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN và các thành viên hợp
danh của CTHD nên hai loại hình doanh nghiệp này có tính an toàn pháp lý cao
tạo được uy tín lớn đối với chủ nợ và đối tác. Chế độ trách nhiệm vô hạn của

chủ DNTN và thành viên hợp danh của CTHD được thể hiện ở chỗ, trong
trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì pháp luật quy định, tài
sản của doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản bao gồm tài sản thuộc sở


hữu của DNTN và tài sản của chủ DNTN, thành viên hợp danh (khối tài sản dân
sự) mà không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh của DNTN và CTHD.
Còn đối với những loại hình doanh nghiệp khác có chủ sở hữu chịu chế độ trách
nhiệm hữu hạn về những nghĩa vụ của doanh nghiệp thì phần tài sản của công ty
khi lâm vào tình trạng phá sản chỉ gồm những tài sản thuộc sở hữu của công ty.
Chính vì lẽ đó, các khoản nợ của DNTN và CTHD được đảm bào thanh toán
bằng cả tài sản của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp, làm giảm tỷ lệ phải gánh
chịu rủi ro của chủ nợ và các đối tác của doanh nghiệp.
1.1.2. Doanh nghiệp ít chí sự ràng buộc của các quy định pháp luật.
Xuất phát từ chế độ trách nhiệm vô hạn của các chủ đầu tư nên tính an toàn
pháp lý của hai loại hình doanh nghiệp này là rất lớn. Cùng với nó là sự đơn
giản về tổ chức và tham gia của các thành viên trong doanh nghiệp nên pháp luật
đã nới lỏng sự quản lý và trao quyền tự quyết định các vấn đề của doanh nghiệp
cho các chủ đầu tư. Do vậy, so với Công ty TNHH và Công ty cổ phần thì tổ
chức và hoạt động của DNTN và CTHD rất đơn giản, gọn nhẹ và khá tự do.
1.2. Hạn chế:
1.2.1. Hạn chế đối với chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh
của công ty hợp danh:
* Chủ DNTN và CTHD có nghĩa vụ gánh chịu mọi rủi ro trong kinh doanh
của doanh nghiệp bằng cả khối tài sản đã đầu tư vào doanh nghiệp (tài sản
thương mại) và tài sản thuộc sở hữu cá nhân mình (tài sản dân sự). Chính vì lẽ
đó, nếu doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản, mà tổng khoản nợ lớn hơn
tổng số tài sản hiện có của công ty thì rất có khả năng, chủ doanh nghiệp sẽ
trắng tay vì phải dung tất cả số tài sản cá nhân của mình để thanh toán các nghĩa
vụ của doanh nghiệp.

* Hạn chế về thành lập và tham gia doanh nghiệp: Khoản 2 Điều 12 Nghị
định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 quy định mỗi cá nhân chỉ
được quyền đăng ký thành lập một doanh nghiệp tư nhân hoặc làm thành viên
hợp danh của một công ty hợp danh, trừ trường hợp các thành viên hợp danh
còn lại thỏa thuận khác. Trong khi các thành viên của công ty cổ phần hay công


ty trách nhiệm hữu hạn không bị hạn chế về việc tham gia và thành lập các
doanh nghiệp.
Hạn chế này xuất phát từ chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp.
Một cá nhân không thể đồng thời chịu hai chế độ trách nhiệm vô hạn của hai
doanh nghiệp, bởi lẽ, giả sử cả hai DN cùng phá sản thì tài sản cá nhân của chủ
doanh nghiệp không thể chia đôi cho cả hai doanh nghiệp được, vì như vậy là
làm sai lệch bản chất của chế độ trách nhiệm vô hạn.
1.2.2. Hạn chế về huy động vốn và khả năng tham gia của các thành viên:
* DNTN và CTHD không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để
huy động vốn.
* Khả năng tham gia của các thành viên khác vào doanh nghiệp là hạn chế.
Chế độ trách nhiệm vô hạn tạo ra khả năng phải chịu rủi ro rất lớn của chủ
doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp có khả năng lâm vào tình trạng phá sản
thì chủ doanh nghiệp phải nhập tất cả số tài sản hiện có của cá nhân mình vào
khối tài sản của doanh nghiệp phá sản.
1.2.3 Quy mô của doanh nghiệp thường ở dạng vừa và nhỏ.
DNTN chỉ do duy nhất một cá nhân làm chủ nên vấn đề tham gia của các
thành viên khác với quy mô lớn hay nhỏ không thể đề cập đến ở đây.
Đối với CTHD mặc dù pháp luật không hạn chế cố lượng thành viên tham
gia song có thể dễ dàng nhận thấy rằng việc thành lập một CTHD với số lượng
thành viên lớn là khó có thể xảy ra. Điều này xuất phát từ chính chế độ trách
nhiệm của các thành viên công ty. Vì không có nhiều cá nhân muốn gánh chịu
chế độ trách nhiệm vô hạn liên đới nên việc có số lượng lớn thành viên hợp

danh tham gia công ty là khó. Còn đối với thành viên góp vốn, mặc dù có thể có
nhiều cá nhân muốn tham gia CTHD song việc tham gia này phải có sự đồng ý
của Hội đồng thành viên trong đó có các thành viên hợp danh, mà chắc chắn một
điều rằng các thành viên này không muốn quá nhiều thành viên góp vốn tham
gia vì đồng nghĩa với nó là trách nhiệm vô hạn liên đới mà họ phải gánh chịu
cũng tăng lên.
2. Những điểm khác nhau.


2.1. Trách nhiệm pháp lý và tính an toàn pháp lý.
* Thứ nhất, mặc dù cùng chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa vụ
của doanh nghiệp song, cũng có sự khác nhau giữa chế độ trách nhiệm của chủ
DNTN và thành viên hợp danh của CTHD.
Theo Điều 141 LDN thì chủ DNTN là cá nhân duy nhất làm chủ doanh
nghiệp và đồng thời gánh chịu những rủi ro từ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là trách nhiệm vô hạn đối với một cá nhân duy nhất.
Căn cứ Khoản 1 Điều 137 LDN thì tất cả các thành viên hợp danh củaCTHD
là người đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hàng ngày của
công ty. Tức là các thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công ty có đầy
đủ các quyền điều hành và quản lý công ty. Đồng thời với những quyền chung
như vậy thì điểm đ khoản 2 Điều 134 LDN cũng quy định nghĩa vụ của thành
viên hợp danh phải “liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của
công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty”.
Như vậy, khác với chủ DNTN, thành viên hợp danh của CTHD chịu chế độ
trách nhiệm vô hạn với tính chất liên đới.
Tính chất liên đới của trách nhiệm vô hạn đem lại nhiều ưu thế hơn cho chế
độ trách nhiệm này. Bởi lẽ, chế độ trách nhiệm vô hạn liên đới đảm bảo quyền
của chủ nợ có thể yêu cầu một trong số các thành viên hợp danh phải thanh toán
tất cả khoản nợ của các thành viên khác hay một thành viên hợp danh không chỉ
có trách nhiệm đối với phần nợ của mình, mà còn có trách nhiệm đối với khoản

nợ của các thành viên khác. Do đó, trong quá trình kinh doanh các thành viên
hợp danh phải tự giám sát lẫn nhau và việc liên kết giữa các thành viên này phải
dựa vào sự tin tưởng nhau là chủ yếu, bởi nếu một thành viên không trung thực
và tẩu tán tài sản khi công ty có khả năng lâm vào tình trạng phá sản, thì hậu quả
là việc các thành viên hợp danh khác phải gánh chịu thay.
Như vậy, có thể nói rằng, nhờ chế độ trách nhiệm vô hạn liên đới nên khả
năng trả nợ của CTHD là cao hơn DNTN, do đó, tính an toàn pháp lý của CTHD
là cao hơn hẳn DNTN. Tuy nhiên, gắn liền với những ưu điểm đó thì trách
nhiệm của thành viên hợp danh cũng nặng nề hơn, chịu rủi ro cao hơn so với chủ


DNTN vì ngoài trách nhiệm với khoản nợ của mình họ còn phải có trách nhiệm
với khoản nợ của các thành viên khác.
* Thứ hai, ở CTHD tồn tại hai loại chế độ trách nhiệm với hai loại thành
viên khác nhau. Như đã trình bày và phân tích ở phần đặc điểm của CTHD,
thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn, còn thành viên góp
vốn chỉ chịu chế độ trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp vào công
ty. Còn DNTN chỉ có duy nhất chế độ trách nhiệm vô hạn với duy nhất cá nhân
chủ DNTN. Điều này cũng dẫn tới nhiều sự khác biệt dưới đây về tổ chức và
hoạt động của hai loại hình doanh nghiệp này.
2.2. Thành viên.
2.2.1. Số lượng thành viên:
Khoản 1 Điều 141 LDN quy định DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ, vì thế chủ sở hữu doanh ngiệp tư nhân là một cá nhân duy nhất. Đây là
đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt DNTN với CTHD và các loại hình doanh
nghiệp khác. Bởi lẽ chủ DNTN chịu chế độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách
nhiệm này chỉ gắn liền với cá nhân.
Điểm a Khoản 1 Điều 130 LDN quy định CTHD phải có ít nhất hai thành
viên hợp danh, như vậy, số thành viên tối thiểu của CTHD phải là hai và pháp
luật không giới hạn số lượng thành viên tối đa, điều này do các thành viên hợp

danh trong công ty thỏa thuận quyết định.
2.2.2. Loại thành viên:
DNTN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất, nên vấn đề phân loại thành viên
không đặt ra đối với chủ DNTN.
Điều 130 LDN quy định CTHD có hai loại thành viên là thành viên hợp
danh và thành viên góp vốn. Chế độ pháp lý, quyền và nghĩa vụ của hai loại
thành viên này là khác nhau.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của công ty. Một CTHD được thành lập phải có tối
thiểu hai thành viên hợp danh.


CTHD có thê có hoặc không có thành viên góp vốn, thành viên góp vốn chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty.
2.2.3. Quyền của các thành viên:
Do là cá nhân duy nhất làm chủ doanh nghiệp, tự đầu tư vốn và gánh chịu
mọi rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp nên chủ DNTN có toàn quyền quản
lý, điều hành hoạt động và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp mà không bị
giới hạn bởi bất kỳ chủ thể nào khác.
Trong khi đó, thành viên hợp danh của CTHD cũng có các quyền quản lý và
quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty, song quyền này
không hoàn toàn tuyệt đối và riêng biệt, vì nó còn phụ thuộc vào các thành viên
hợp danh khác và Hội đồng thành viên. Không những thế, thành viên hợp danh
còn bị hạn chế một số quyền như: không được kinh doanh cùng ngành nghề kinh
doanh của công ty nhân danh cá nhân hoặc người khác; …
Ngoài ra, chủ DNTN có thêm những đặc quyền khác mà thành viên hợp
danh không có là quyền cho thuê doanh nghiệp (Điều 144 LDN) và quyền bán
doanh nghiệp (Điều 145 LDN).
Nguyên nhân lý giải cho sự khác nhau về quyền của chủ DNTN và thành

viên hợp danh của CTHD xuất phát từ sự khác nhau về số lượng thành viên và
chế độ pháp lý của các thành viên này của hai loại hình doanh nghiệp.
2.3. Vốn:
2.3.1. Khả năng huy động vốn.
Có thể dễ dàng nhận thấy khả năng huy độnh vốn của CTHD là lớn hơn rất
nhiều DNTN. Vì DNTN chỉ thực hiện việc huy động vốn chủ yếu qua việc vay
các tổ chức và cá nhân khác ngoài doanh nghiệp, hoặc sự tăng sự đâud tư từ phía
chủ DNTN.
CTHD bên cạnh hình thức tăng vốn như trên, công ty có thể huy động vốn
thông qua việc tiếp nhận thêm thành viên mới (theo Điều 139 LDN), thành viên
mới có thể là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.

Đồng thời, CTHD

không có sự giới hạn về số lượng thành viên nên việc quyết định số lượng, tiêu


chuẩn thành viên tham gia hoàn toàn do các thành viên công ty, đặc biệt là các
thành viên hợp danh thỏa thuận quyết định.
DNTN không thể thực hiện được việc tiếp nhận thêm thành viên mới vì bản
chất của DNTN là doanh nghiệp do duy nhất một cá nhân làm chủ.
2.3.2. Sự độc lập giữa tài sản doanh nghiệp và tài sản chủ doanh nghiệp.
Ở DNTN, hầu như không có sự độc lập giữa tài sản của chủ DNTN và tài
sản của doanh nghiệp. Đồng thời, pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ kê khai các
loại tài sản góp vốn chứ không bắt buộc phải chuyển quyền sở hữu sang cho
doanh nghiệp.
Còn đối với CTHD, việc tăng hay giảm vốn điều lệ của công ty phải được
Hội đồng thành viên quyết định (điểm b, c, d, e khoản 3 Điều 135 LDN), sửa đổi
nội dung Điều lệ công ty (khoản 2 Điều 22 LDN) và tiến hành đăng ký lại với cơ
quan đăng ký kinh doanh (khoản 1 Điều 26 LDN). Bên cạnh đó, theo quy định

tại khoản 1 Điều 132 LDN thì khi góp vốn vào CTHD các thành viên góp vốn
phải thực hiện việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty.
Do vậy, so với DNTN thì tài sản của CTHD có sự độc lập và tách biệt hẳn
với khối tài sản của thành viên công ty, đây cũng là một trong những ưu điểm
lớn của CTHD.
Khác biệt này là do sự tồn tại hai chế độ trách nhiệm trong CTHD. Do vậy
pháp luật phải quy định việc quản lý cũng như phân định rạch ròi phần tài sản
mà mỗi thành viên góp vào công ty để làm căn cứ xác định trách nhiệm của các
thành viên góp vốn đối với các nghĩa vụ của công ty.
2.4. Tư cách pháp lý.
Khoản 2 Điều 130 LDN quy định CTHD có tư cách pháp nhân kể tử ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trong khi đó, Luật doanh nghiệp lại không công nhận tư cách pháp nhân cho
DNTN.
Đây là một trong những hạn chế của DNTN so với CTHD, bởi lẽ, tư cách
pháp nhân mặc dù không ảnh hưởng lớn đến hoạt động hợp pháp của doanh


nghiệp song trong một số trường hợp, tư cách pháp nhân lại đem đến cho doanh
nghiệp sự tin cậy hơn với các đối tác khó tính.
2.5. Tổ chức và hoạt động.
Do chỉ có một chủ sở hữu duy nhất nên việc tổ chức và hoạt động của
DNTN rất đơn giản, gọn nhẹ và do chủ DNTN quyết định, pháp luật không hề
quy định bắt buộc nào về tổ chức của DNTN.
Đối với CTHD, do tính phức tạp hơn về số lượng thành viên và chế độ trách
nhiệm nên LDN có một số quy định về tổ chức và hoạt động của công ty như
Điều 135, 136, 137 LDN. Tại đó, quy định về Hội đồng thành viên của CTHD,
tổ chức và hoạt động cũng như những vấn đề bắt buộc phải được Hội đồng
thành viên thông qua.
2.6. Thủ tục thành lập.

Thủ tục thành lập DNTN đơn giản hơn so với việc thành lập CTHD.
Điều 16 LDN quy định Hồ sơ đăng ký DNTN gồm: Giấy đề nghị đăng ký kinh
doanh; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân (Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân
khác); Văn bản xác nhận vốn pháp địng (nếu PL yêu cầu); Chứng chỉ hành nghề
của Giám đốc hoặc cá nhân khác (nếu PL quy định).
Đối với CTHD, ngoài những giấy tờ trên thì Hồ sơ đăng ký kinh doanh công
ty cần có thêm Dự thảo Điều lệ công ty; Danh sách thành viên.
Như vậy, có thể thấy ngày từ bước lập hồ sơ để thành lập công ty cũng đã
phức tạp hơn. Bên cạnh đó, liên quan tới vấn đề thay đổi Điều lệ công ty cũng
cần có sự đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
2.7. Bản chất pháp lý:
CTHD là một loại hình công ty nằm trong các loại hình doanh nghiệp, còn
DNTN với tư cách là một doanh nghiệp chứ không phải là công ty.
Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất của công ty theo pháp luật Việt Nam
và Pháp luật thế giới. Như đã biết, khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết
của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lí nhằm tiến
hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào đó.


DNTN chỉ do duy nhất một cá nhân đầu tư, làm chủ, quản lý và điều hành
nên không thể là sự liên kết, góp vốn của nhiều cá nhân hoặc của một tổ chức
được. Nên, DNTN là một loại hình doanh nghiệp nhưng không phải là công ty.
CTHD với tính chất là sự liên kết của cá nhân các thành viên hợp danh với
nhau, nên nó thể hiện đặc điểm của một loại hình công ty. Tuy nhiên, phải đến
Luật Doanh nghiệp năm 1999, tư cách pháp lý của CTHD mới chính thức được
luật hóa.
Bước vào năm 2000 tất cả các loại hình doanh nghiệp bao gồm cả Công ty
và DN không phải công ty đều chịu sự điều chỉnh chung của Luật Doanh nghiệp
năm 1999 và hiện nay là Luật Doanh nghiệp năm 2005. Do đó, sự phân biệt giữa
công ty và doanh nghiệp không phải công ty cũng chỉ có ý nghĩa tên gọi hình

thức.
III. THỰC TIẾN THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CÔNG TY HỢP DANH.
1. Thực tiến:
1.1. Doanh nghiệp tư nhân:
Hiện tại, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tồn tài chủ yếu ở quy mô nhỏ
và vừa. Sự phát triển của DNTN chưa xứng tầm với những thuận lợi của nên
kinh tế.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc phát triển
quy mô DNTN là do những rào cản cũng như những ưu tiên cho loại hình DN
nhà nước từ phía Nhà nước. Trong khi, theo nghiên cứu, không có bất kỳ cản trở
nào trong việc cho phép DNTN phát hành trái phiếu, mặc dù khả năng thanh
toán nợ của loại hình doanh nghiệp này còn lớn hơn cả Công ty TNHH và Công
ty cổ phần.
Bên cạnh đó là các ưu đãi đối với các loại hình doanh nghiệp khác không
phải là DNTN mà đặc biệt là những ưu đãi đối với các Công ty Nhà nước tạo ra
sự bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cản trở cơ chế tự động
đào thải của nền kinh tế thị trường. Cuộc điều tra về thị trường đất đai đã cho
thấy trong khi các doanh nghiệp tư nhân gặp rất nhiều khó khăn về mặt bằng sản


xuất thì những các doanh nghiệp nhà nước không những được ưu đãi về đất đai
sản xuất mà còn chiếm hữu đất ngoài sản xuất, thường được gọi là đất nhàn rỗi.
(Khu vực kinh tế tư nhân - Nguồn huyết mạch chưa khai thông - Trần Bình).
Bên cạnh đó khả năng tiếp cận tín dụng của DNTN còn yếu và rất hạn chế.
Nguyên nhân của tình trạng này là do việc các doanh nghiệp này có tài sản thế
chấp nhỏ, quy mô doanh nghiệp và pháp luật không cho phép phát hành chứng
khoán.
1.2. Công ty hợp danh.
So với DNTN , CT HD có nhiều ưu đãi hơn từ phía các quy định pháp luật

tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động của công ty. Đặc biệt, khác với
pháp luật của nhiều quốc gia, Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 có một số
quy định khác về CTHD. Cụ thể là việc ghi nhận tư cách pháp nhân cho CTHD
kể từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (khoản 2 Điều
130 LDN) hoặc quy định thêm loại thành viên góp vốn với chế độ trách nhiệm
hữu hạn về tài sản (điểm c khoản 1 Điều 130 LDN).
2. Giải pháp:
Để góp phần tạo ra sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh cũng như tạo ra
cơ hội cho sự phát triển của loại hình DNTN nói riêng và khu vực kinh tế tư
nhân nói chung, Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý công bằng, bền
vững, thực sự có hiệu quả và được thi hành trên thực tế. Để thực hiện được mục
tiêu đó, việc đầu tiên cần làm là việc thay đổi về nhận thức đối với loại hình
DNTN, sở hữu tư nhân; thống nhất sự điều chỉnh công bằng giữa các loại hình
doanh nghiệp của các văn bản pháp luật, bên cạnh Luật Doanh nghiệp; tổ chức
kiểm tra và có biện pháp để đảm bảo thực hiện những quy định này trên thực tế.
Có như vậy, mới tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng, tự do và bền vững
cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu.


C. KẾT LUẬN
Qua những phân tích, đánh giá về DNTN và CTHD như trên, ta có thể thấy
rằng, mặc dù cùng có chủ đầu tư chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản song hai loại
hình doanh nghiệp này có rất nhiều điểm khác biệt, khác biệt ngay cả trong chế
độ trách nhiệm vô hạn. Đứng ở những phương diện khác nhau thì tính ưu việt
của hai loại hình doanh nghiệp này là khác nhau. Nếu đứng ở phương diện nhà
đầu tư thì tất nhiên việc thành lập DNTN là thuận tiên, đơn giản và có nhiều ưu
thế hơn. Song, nếu đứng ở phương diện đối tác của doanh nghiệp thì việc hợp
tác với một CTHD là an toàn hơn rất nhiều.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình Luật Thương mại ( Trường Đại học Luật Hà Nội ).
2) Luật doanh nghiệp năm 2005.
3) Phát luật về tổ chức các hình thức kinh doanh ( NXB Tư pháp, Hà Nội,
2007 ).
4) Nghị định 102 NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp.
5) Giáo trình lí luận chung nhà nước và pháp luật ( Trường Đại học Luật Hà
Nội ).



×