MỤC LỤC
Trang
A: LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................1
B: NỘI DUNG................................................................................................2
I: Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội (của A,
M) và hậu quả B chết trong vụ án này.............................................................2
II: Xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội của A và M.....................5
III: Hãy chỉ ra khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm
trong trường hợp này........................................................................................9
C: KẾT LUẬN..............................................................................................10
1
A: LỜI NÓI ĐẦU
Là ngành luật độc lập, có vị trí, vai trò to lớn trong hệ thống pháp luật nên
luật hình sự luôn được Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Sự phát triển của luật
hình sự Việt Nam gắn chặt với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, và
cùng với việc xuất phát từ đặc điểm riêng của mình, luật hình sự Việt Nam có
nhiệm vụ: “...bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh trong phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 1
BLHS). Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người
trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do
của họ, vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người;
và qua đó, đồng thời cũng là sự áp dụng những biện pháp cụ thể để trừng phạt
nghiêm khắc những hành vi của người phạm tội. Xã hội ngày càng phát triển,
loại tội xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do của
con người ngày càng gia tăng, đặc biệt là loại tội xâm hại tới tính mạng, sức
khỏe của con người. Có rất nhiều vụ án đều đề cập đến loại tội phạm xâm hại tới
tính mạng, sức khỏe của con người, và dưới đây là một tình huống mà nhóm em
lựa chọn cũng nói tới loại tội phạm nói trên:
“A giăng dây điện trần để bảo vệ ao cá của mình. B đi bắt ếch ban đêm
vướng phải dây điện bị điện giật và bị thương nặng. B được người nhà đưa
đi bệnh viện để cứu chữa không may B lại bị tai nạn giao thông và chết (do
M – người lái xe tải trong lúc say rượu đi quá tốc độ cán chết).
a) Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội
(của A, M) và hậu quả B chết trong vụ án này.
b) Xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội của A và M.
c) Hãy chỉ ra khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội
phạm trong trường hợp này”.
2
B: NỘI DUNG
I: Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội (của
A, M) và hậu quả B chết trong vụ án này.
Để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay
không, chúng ta xét xem nó có thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định
trong BLHS hay không? Nhưng trước khi xác định điều đó, chúng ta phải dựa
trên những căn cứ trực tiếp nhất, những dấu hiệu mà giúp chúng ta định hình và
đặt ra trong mình câu hỏi: “Hành vi này có phải là tội phạm hay không?”, đó
chính là những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm. Trong thực tiễn
điều tra và xét xử thì việc xác định một hành vi thỏa mãn các yếu tố thuộc mặt
khách quan của tội phạm hay không là điều không dễ, nhất là xác định mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Để làm được việc này, cần phải có một cơ
sở lý luận vững chắc để tránh rơi vào tình trạng nhầm lẫn trong điều tra, xét xử.
Khoa học luật hình sự không có lý luận chung về quan hệ nhân quả mà chỉ cụ
thể hóa nội dung cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả của chủ nghĩa duy vật
biện chứng vào lĩnh vực của mình, nhằm giải quyết những vấn đề cơ sở khách
quan của trách nhiệm hình sự. Việc xác định chính xác mặt khách quan của tội
phạm nói chung và mối quan hệ nhân quả nói riêng của mỗi tội phạm có ý nghĩa
rất lớn trong việc định khung hình phạt, xác định mức độ trách nhiệm hình sự và
xác định lỗi, cũng như đánh giá mức độ lỗi của hành vi người phạm tội. Với vai
trò to lớn của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, chúng ta xét trong
ví dụ đã cho để làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của A và hậu quả làm B bị thương:
Hành vi của A là hành vi giăng dây điện để bảo vệ ao cá của mình, vì mục
đích cá nhân. Hậu quả làm B bị điện giật và bị thương nặng.
- Xét về mặt thời gian, thì hành vi của A là hành vi trái pháp luật diễn ra trước
khi hậu quả làm cho B bị thương. A đã giăng dây điện để bảo vệ ao cá của mình
trước, sau đó B đi bắt ếch mới bị điện giật dẫn đến bị thương nặng. Dựa vào căn
cứ này thì có thể khẳng định rằng mối quan hệ nhân quả có khả năng tồn tại giữa
hành vi của A và B bị thương.
- Hành vi giăng dây điện trần của A chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả là làm B bị thương. Theo quy định của nhà nước về cung cấp và sử
dụng điện thì không cho phép sử dụng điện trần để bảo vệ tài sản cá nhân, hành
3
động này làm cho B biến đổi tình trạng bình thường về sức khoẻ, tính mạng con
người.
- B bị thương là do chính hành vi giăng dây điện trần (trái pháp luật) của A gây
ra. Nếu bất cứ người nào đi bắt ếch ban đêm giống B (hoặc làm một việc gì đó)
cũng có thể bị vướng vào dây điện và bị thương như B. Vì thế có thể kết luận
rằng, hậu quả B bị thương nặng chính là sự hiện thực hóa cái khả năng giật điện
dẫn đến bị thương hoặc chết người của hành vi trái pháp luật này.
Ở đây, hành vi giăng dây điện là nguyên nhân trực tiếp, giữ vai trò quyết
định đối với việc B bị thương, chúng ta có thể kết luận có tồn tại mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi của A và hậu quả xảy ra đối với B (bị thương nặng).
Mối quan hệ nhân quả trong hành vi của M và cái chết của B:
Hành vi của M là hành vi lái xe trong tình trạng say rượu, vi phạm an toàn
giao thông. Để lại hậu quả là tai nạn xảy ra trong đó B chết.
- Xét về mặt thời gian thì có thể thấy ngay có tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi cuả M với cái chết của B bởi lẽ hành vi lái xe trong tình trạng say rượu
là hành vi diễn ra trước, đã diễn ra và M đã đi được một quãng đường thì mới
gây ra tai nạn, hậu quả là cái chết của B.
- Khi say rượu thì người cầm lái khó có thể làm chủ tay lái, không thể xử lý kịp
thời nếu như có một sự cố xảy ra như có người qua đường hoặc đến đoạn rẽ,
khúc cua... Do vậy mà hành vi của M chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả nguy hiểm cho xã hội là có thể gây ra tai nạn giao thông, thực tế chuyện
đó đã xảy ra với B.
- Nếu người bị cán trong tai nạn đó không phải B mà là một ai khác cũng ở vị
trí đó thì khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về người của hành vi lái xe
trong tình trạng say rượu của M. Như vậy, hành vi trái pháp luật của M là hành
vi giữ vai trò quyết định, với sự phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội, là
nguyên nhân trực tiếp quyết định cái chết của B.
Nhưng nếu không có hành vi trái pháp luật của A (giăng dây điện trần) thì B
có bị thương không? Và như vậy thì B không phải đi bệnh viện cấp cứu, không
gặp phải xe của M và không bị cán chết? Liệu hành vi của A và M có quan hệ
nhân quả trong cái chêt của B?.
Trong thực tế điều tra xét xử, người ta nhận thấy quan hệ nhân quả giữa hành
vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra tồn tại dưới nhiều dạng
4
khác nhau. Trong ví dụ xét đây, thì hành vi giăng dây điện của A làm B vướng
phải và bị thương nặng có mối quan hệ nhân quả, khi người nhà B phát hiện ra
và đưa B đi bệnh viện cấp cứu thì gặp phải chiếc xe tải do M lái. M lái xe quá
tốc độ do say rượu gây ra tai nạn làm B chết. Như vậy, xét về mặt thời gian,
hành vi trái pháp luật của A xảy ra trước hành vi trái pháp luật của M. Tuy nhiên
hành vi của A và hành vi của M là hai hiện tượng tách rời nhau về địa điểm và
chủ thể thực hiện. Hành vi của A diễn ra ở ao cá với chủ thể là A, hành vi của M
diễn ra trên đường với chủ thể là M, không hề có quan hệ với nhau. Hành vi của
A không phải là nguyên nhân nội tại dẫn đến hành vi đi quá tốc độ của M. Mà
hành vi trái pháp luật của M là do M say rượu nên đã không làm chủ được tay
lái của mình. Do vậy, hành vi của A không chứa đựng thực tế làm phát sinh
hành vi nguy hiểm cho xã hội của M, và hành vi của M cũng không phải là sự
hiện thực hóa khả năng mà hành vi giăng dây điện của A. Vì thế, giữa hành vi
trái pháp luật của A và M không có quân hệ nhân quả.
Hơn thế nữa, hành vi trái pháp luật của A có mối quan hệ trực tiếp với hậu
quả làm cho B bị thương. Còn cái chết của B nguyên nhân trực tiếp là M lái xe
trong tình trạng say rượu, vi phạm về an toàn giao thông đường bộ gây ra. Giả
sử, nếu một người bình thường khác không phải là người bình thường như B,
tham gia giao thông khi M lái xe trong tình trạng đang say rượu thì hậu quả
nguy hiểm vẫn cứ xảy ra. Tức là: không phải tai nạn thúc đẩy vết thương của B,
làm B chết mà chính là do tai nạn giao thông làm chết B. Như vậy, không thể
coi hành vi trái pháp luật của M là hành vi đóng vai trò làm điều kiện cho hành
vi của A.
Tóm lại, không thể đưa trường hợp trong ví dụ này (quan hệ nhân quả giữa
hành vi của A và M với cái chết của B) là dạng quan hệ nhân quả lây truyền hay
quan hệ nhân quả gián tiếp mà xác định quan hệ nhân quả trong ví dụ này là
quan hệ nhân quả đơn trực tiếp giữa hành vi trái pháp luật của M với cái chết
của B. Chúng ta có thể kết luận rằng hành vi trái pháp luật của A có quan hệ
nhân quả với việc B bị thương nặng chứ không có quan hệ nhân quả với cái chết
của B, do đó A chỉ phải chịu TNHS với hậu quả B bị thương nặng. Còn hành vi
trái pháp luật của M mới có quan hệ nhân quả với hậu quả đó, do vậy M sẽ phải
chịu trách nhiệm về cái chết của B. Hành vi của A chỉ là điều kiện để xác định
hậu quả chết người xảy ra với B chứ không phải một người khác.
5
II: Xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội của A và M.
Tội phạm dưới góc độ của Luật hình sự Việt Nam được hiểu là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến các quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình sự
bảo vệ. Một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi nó thỏa mãn đầy đủ các dấu
hiệu, các đặc điểm của tội phạm. Trong đó, tính có lỗi là cơ sở quan trọng để xác
định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải chịu TNHS hay
không.
Lỗi trong luật hình sự được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với
xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đã
được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan thể
hiện ở sự tự lựa chọn, tự quyết định và thực hiện xử sự khách quan gây thiệt hại
cho xã hội và trái pháp luật hình sự.
Với ý nghĩa là nội dung của của lỗi, quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với
xã hội luôn luôn được thể hiện và tồn tại là quan hệ tâm lí nhất định của chủ thể
với hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Đó là mặt hình thức của lỗi. Căn cứ vào mặt
hình thức này của lỗi có thể định nghĩa lỗi như sau:
“Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi
cố ý hoặc vô ý”.
Là mặt hình thức của lỗi, quan hệ tâm lí ở đây bao gồm yếu tố lý trí và yếu tố
ý chí là hai yếu tố cần thiết tạo thành lỗi. Hai yếu tố này – một thể hiện năng lực
nhận thức thực tại khách quan, một thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ
sở của sự nhận thức. Nếu xử sự gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi thì quá
trình lý trí và ý chí phải có những đặc điểm nhất định phản ánh được rằng xử sử
gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện là kết quả của sự tự lựa chọn và tự quyết
định của chủ thể, trong khi chủ thể có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định xử
sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trong đó:
Lý trí là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
người phạm tội gây ra, thể hiện ở chỗ người đó có thấy trước hậu quả nguy hại
cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra hay không.
Ý chí là việc người phạm tội có mong muốn về hậu quả có xảy ra hay không?
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lí của yếu tố lý trí và ý chí trong những trường
6
hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam chia thành hai loại lỗi cố ý và vô ý. Lỗi cố ý
bao gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý bao gồm hai
hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.
- Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy
ra.
- Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây
hậu quả nguy hại đó.
- Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.
Sự phân biệt về các hình thức lỗi trong luật hình sự là cơ sở xem xét, xác định
rõ hình thức lỗi của A và M trong tình huống đặt ra.
Về phía A, trong tình huống cho biết: A giăng dây điện trần để bảo vệ ao cá
của mình, B đi bắt ếch ban đêm vướng phải dây điện bị giật và bị thương nặng.
Nhà nước cho phép cá nhân có quyền tự bảo vệ tài sản của mình nhưng
không được trái với các quy định của pháp luật. A có quyền tự bảo vệ tài sản của
mình bằng những phương thức khác nhau tuy nhiên không được vi phạm những
quy định cấm. Để bảo vê ao cá của mình, A có thể sử dụng các công cụ khác
nhau như: dựng hàng rào, tổ chức trông coi... Nhưng trong điều kiện đó, A lại sử
dụng dây điện trần – một nguồn nguy hiểm cao độ để bảo vệ lợi ích cá nhân.
Nên có thể kết luận rằng: A có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn
và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội nhưng đã lựa chọn cho
mình xử sự trái pháp luật. Vì vậy, hành vi của A được coi là hành vi có lỗi.
Về mặt lí trí: Trong khi giăng dây điện để bảo vệ ao cá, bản thân A có thể
thấy trước được tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình. Công cụ
mà A sử dụng để bảo vệ ao cá là dây điện trần – một nguồn nguy hiểm cao độ.
7
Bởi khi thực hiện hành vi giăng dây điện trần, A nhận thức được tính chất nguy
hiểm của dòng điện chạy trên dây điện trần, từ đó nhận thức tính nguy hiểm của
hành vi mà mình thực hiện.
Về mặt ý chí: Việc B vướng phải dây điện và bị giật dẫn đến thương nặng
không phải là mong muốn của A. Mục đích của A chỉ là giăng dây điện trần để
bảo vệ ao cá, để ngăn ngừa hành vi xâm hại đến lợi ích của mình. Nhưng cũng
chính vì để đạt được mục đích này mà A chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình gây ra. Tuy không mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng
A đã có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Hậu quả không xảy ra cũng được và
nếu hậu quả xảy ra thì chấp nhận. Sự bỏ mặc cho hậu quả xảy ra của A dẫn đến
thiệt hại đáng tiếc cho B.
Xem xét các yếu tố thuộc về mặt lí trí và ý chí trong trường hợp phậm tội của
A, có thể đi đến kết luận A có lỗi với tình trạng B bị thương nặng do bị điện giật
và hình thức lỗi của A được xác định là lỗi cố ý gián tiếp.
Sau khi bị thương nặng do bị điện giật, B được người nhà đưa đi bệnh viện
để cứu chữa nhưng không may B lại bị tai nạn giao thông và chết (do M – người
lái xe tải trong lúc say cán chết).
Một câu hỏi được đặt ra là: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà BLHS quy định là tội phạm trong tình trạng say do dùng rượu có bị coi là có
lỗi không ?”.
Để trả lời câu hỏi này cần phải làm rõ các vấn đề sau: Say rượu có ảnh hưởng
như thế nào đến năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người
say? Tại sao người say do dùng rượu bị coi là người có lỗi đối với hành vi của
mình?
Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu là người có lỗi đối với tình
trạng say của mình và do đó cũng có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
thực hiện trong khi say. Người say rượu trong trường hợp này là người có năng
lực trách nhiệm hình sự. Vấn đề đặt ra là xác định hình thức lỗi của người phạm
tội trong tình trạng say do dùng rượu là lỗi vô ý hay cố ý? Nếu là lỗi cố ý thì là
cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp?. Nếu là lỗi vô ý thì là vô ý vì quá tự tin hay vô
ý do cẩu thả?. Việc xác định hình thức lỗi của người phạm tội có gì khác so với
các trường hợp khác không? Việc xác định hình thức lỗi của người phạm tội
trong tình trạng say do dùng rượu là vấn đề rất quan trọng vì xác định đúng hình
8
thức lỗi trong nhiều trường hợp ảnh hưởng đến việc xác định đúng tội danh và
chế tài mà người phạm tội phải chịu.
Nếu người phạm tội không chủ động lựa chọn và sử dụng rượu – tình trạng
say của mình để phạm tội và trong tình trạng say đã không làm chủ được xử sự
của mình, không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội dù có nguyên nhân khách quan nào khiến người phạm tội không thấy
trước hậu quả của hành vi của mình và trong hoàn cảnh cụ thể đã gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội thì lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý do cẩu thả.
Như đã trình bày ở trên trong tình huống đưa ra, hành vi của A có mối quan
hệ nhân quả với cái chết của B. M đã gây hậu quả nguy hiểm trong tình trạng
say do dùng rượu. Say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác đều có ảnh
hưởng ở những mức độ khác nhau đến năng lực nhận thức và năng lực điều
khiển hành vi của con người. Tình trạng say rượu, năng lực nhận thức đòi hỏi
của xã hội và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi đó của chủ thể có thể bị
hạn chế (trong trường hợp say nhẹ) hoặc bị loại trừ (trong trường hợp bị say
nặng).
Về mặt pháp lý, Điều 14 BLHS Việt Nam quy định: “Người phạm tội do
dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự”. Theo quy định này của bộ luật hình sự thì M vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự (TNHS) về hành vi mà mình đã phạm tội trong lúc say. Thực tế thì, mặc
dù đã thực hiện hành vi nguy hiển cho xã hội trong lúc say, M không thể hoặc
có thể (nhưng bị hạn chế) nhận thức rằng hành vi của mình có nguy hiểm cho xã
hội hay không và từ đó cũng khó có thể điều khiển hành vi của mình cho phù
hợp với đòi hỏi của xã hội. Cho nên, việc xác định rõ hậu quả chắc chắn xảy ra
hay không là không thể và cũng không thể xác định chính xác được hậu quả sẽ
xảy ra như thế nào. Nhưng M có năng lực TNHS khi đặt mình vào tình trạng
say, điều đó cũng có nghĩa là M đã tự tước bỏ năng lực nhận thức và năng lực
điều khiển hành vi của mình, tự đặt mình vào tình trạng năng lực TNHS bị hạn
chế hoặc bị loại trừ. M là người có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
mình gây ra (hành vi lái xe tải quá tốc độ trong khi say gây ra tai nạn giao thông
dẫn tới hậu quả B chết).
Nhưng trong trường hợp này để giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của M, ta
cần phải xác định thêm hình thức lỗi đối với hành vi mà M thực hiện. Khi uống
9
rượu M có thể nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà M thực hiện
sau khi uống rượu (lái xe và không làm chủ được tốc độ, trong tình trạng say
rượu) nhưng M không mong muốn tai nạn xảy ra, và đương nhiên cũng không
mong muốn cái chết đến với B. Do vậy, có thể khẳng định rằng M có lỗi với cái
chết của B và hình thức lỗi của M được xác định là lỗi vô ý do cẩu thả.
III: Hãy chỉ ra khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm
trong trường hợp này.
Mọi hoạt động của con người đều nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại
ngoài ý thức và và độc lập với ý thức của con người với mục đích là cải biến
chúng theo ý chí của bản thân. Tội phạm là một trong những dạng hoạt động
tiêu cực của con người, nó cũng hướng tới những khách thể cụ thể nhưng không
phải để cải biến mà để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những khách
thể đó. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Như vậy, không phải mọi quan hệ xã hội đều là
khách thể của tội phạm mà chỉ quan hệ xã hội được cụ thể hóa trong những quy
phạm pháp luật hình sự và bị hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
xã hội xâm phạm mới bị coi là khách thể của tội phạm.
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam, khách thể của tội phạm được quy định tại
Điều 8 gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn, lãnh thổ, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người. Trong số các quyền
nhân thân, quyền sống của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý
nhất, không những quy định trong Luật Hình sự mà còn được quy định trong các
VBQPPL khác.
Trong tình huống trên, khách thể tội phạm là quyền sống, quyền được tôn
trọng và bảo vệ tính mạng của B. Hành vi của A và M đã xâm hại đến những
quyền này dẫn đến hậu quả cuối cùng là cái chết của B.
Sự gây thiệt hại cho khách thể, dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn
ra trên cơ sở hành vi phạm tội tác động vào đối tượng tác động – bộ phận cấu
thành quan hệ xã hội là chủ thể, là nội dung hoặc là khách thể của quan hệ xã
10
hội. Như vậy, “đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của
tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”.
Bất cứ loại tội phạm nào cũng đều tác động vào đối tượng tác động cụ thể.
Sự tác động này trong loại tội phạm nhất định có thể làm biến đổi tình trạng
bình thường của đối tượng tác động. Ở đây, đối tượng tác động có thể là con
người, các đối tượng vật chất hay hoạt động bình thường của con người.
Trong tình huống trên, đối tượng tác động của tội phạm là con người – B là
người đang sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là chủ thể
của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Hành vi A làm biến
đổi tình trạng bình thường của B là hành vi xâm phạm trái pháp luật tới quyền
được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của B. Hành vi của M làm biến đổi tình trạng
bình thường của B là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác,
cụ thể là trong tình huống trên là B.
Với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại, khách thể là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm có vị trí quan
trọng đặc biệt. Việc nghiên cứu khách thể có ý nghĩa về nhiều mặt, kể cả trong
công tác lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật, và đặc biệt trong
việc định tội, phân biệt các tội phạm khác nhau, việc định khung và quyết định
hình phạt. Chúng ta chỉ có thể nhận thức được một cách đầy đủ tính chất nguy
hiểm của tội phạm, nhiệm vụ của luật hình sự trên cơ sở nghiên cứu nội dung
của các quan hệ xã hội được coi là khách thể của tội phạm nói riêng cũng như
khách thể bảo vệ của luật hình sự nói chung.
C: KẾT LUẬN
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật
hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Xã hội ngày càng phát
triển, vai trò của luật hình sự trong đấu tranh, phòng chống loại tội phạm xâm
hại tính mạng, sức khỏe con người ngày càng được đề cao và hoàn thiện hơn.
Nhưng pháp luật Việt Nam cũng cần có những biện pháp và hình phạt nghiêm
khắc đối với những hành vi xâm hại tính mạng, sức khỏe con người để đất nước
trở nên tốt đẹp hơn.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1999.
2. Đinh Văn Quế (Thạc sĩ luật học, Tòa án nhân dân tối cao), Bình luận khoa
học BLHS – Phần các Tội phạm, Tập 1, (Bình luận chuyên sâu), Nxb. TPHCM,
Hà Nội, 2002.
3. Học viện cảnh sát nhân dân – Thạc sĩ luật học: Phùng Văn Ngân, Hỏi và trả
lời về Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2004.
4. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự ( Phần chung),
Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005.
5. Luật gia: Hoàng Hoa Sơn, Hỏi đáp về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2006.
6. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa – PGS.TS. Lê Thị Sơn. Từ điển pháp luật hình
sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
7. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 1,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2007, 2009, 2010.
8. TS. Phùng Thế Vắc – TS. Trần Văn Luyện – Luật sư. Th.S Phạm Thanh Bình
– Th.S Nguyễn Đức Mai – Th.S Nguyễn Sĩ Đại – Th.S Nguyễn Mai Bộ, Bình
luận khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
9. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam
năm 1999, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
12