Khóa luận tốt nghiệp
– HC33A
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em nhận
được sự giúp đỡ rất nhiều của gia đình, bạn bè, các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà Nội – những người đã truyền đạt, vun đắp kiến thức cho em trong suốt
những năm qua trên giảng đường đại học.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy cô khoa hành chính – Nhà
nước, Tổ bộ môn Luật Hiến pháp nước ngoài. Đặc biệt là Thầy giáo PGS.TS. Thái
Vĩnh Thắng – chủ nhiệm khoa Hành chính – Nhà nước, người đã trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em từng bước trong quá trình nghiên cứu đề
tài khóa luận. .
Vì thời gian, kiến thức, kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài khóa luận này
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của các thầy cô, các bạn để khóa luận đạt kết quả cao hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2012
Tác giả
Khóa luận tốt nghiệp
2
– HC33A
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
So với nhiều quốc gia có bề dày lịch sử như Anh, Pháp, Đức, Ý, Trung Quốc…
thì Hoa Kỳ là một quốc gia trẻ, nhưng Hoa Kỳ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nước, nhiều nhà khoa học muốn nghiên cứu về quốc gia này. Bởi, Hoa Kỳ là một nước
tư bản phát triển nhất, kinh tế Hoa Kỳ được coi là đầu tàu của nền kinh tế thế giới, có
trình độ phát triển cao về nhiều mặt. Có được như vậy là nhờ vào cách thức tổ chức bộ
máy nhà nước Hoa Kỳ một cách chặt chẽ, hợp lý trên cơ sở Hiến pháp. Hơn 200 năm
qua bản Hiến pháp đầu tiên trên thế giới – Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 vẫn đang tồn tại và
có hiệu lực. Chúng ra phải thừa nhận rằng sự sáng suốt của các nhà lập hiến Hoa Kỳ
cùng trình độ pháp lý của họ, thừa nhận những điểm hợp lý, hợp quy luật, làm cho nó
có thể tồn tại lâu dài và là cơ sở pháp lý quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước Hoa Kỳ. Với cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước
Hoa Kỳ xuất hiện từ những ngày đầu đấu tranh đòi quyền dân chủ của nhân dân thế
giới, nó đã làm cho bộ máy nhà nước Hoa Kỳ hoạt động nhịp nhàng, chặt chẽ, không
có sự xâm chiếm quyền lực mà thêm vào đó là tạo ra một thế cân bằng quyền lực giữa
các cơ quan lập pháp – hành pháp- tư pháp.
Trong tình hình hiện nay, Việt nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đang rất cần kinh nghiệm, cần học hỏi những nước trên thế giới.
Chúng ta không phải học tập để sao chép máy móc mà học tập với tinh thần cầu thị,
học tập để chúng ta tìm ra và vận dụng những hạt nhân hợp lý trong cách thức tổ chức
bộ máy nhà nước của nước khác vào hoàn cảnh của Việt Nam để xây dựng một Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Với mong muốn tìm hiểu về Hoa Kỳ và
làm phong phú thêm kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật, nhất là về khía cạnh
tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước em chọn đề tài “Cơ chế kiềm chế đối trọng
trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Khóa luận tốt nghiệp
3
– HC33A
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ đã có nhiều
bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu.
Trước hết phải kể đến đề tài “Hệ thống kiềm chế đối trọng trong Hiến pháp Mỹ”,
luận án Thạc sĩ luật học của cô Trần Thị Hiền bảo vệ năm 1999. Luận án đã cho ta
thấy tính kiềm chế đối trọng được thể hiện thành một hệ thống giữa ba nhánh quyền
lực lập pháp – hành pháp – tư pháp. Ngoài ra luận án cũng đã nêu lên những biểu hiện
khác của hệ thống kiềm chế đối trọng trong Hiến pháp Mỹ như mối quan hệ giữa
Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, mối quan hệ giữa liên bang và tiểu bang, và sự ảnh
hưởng của các đảng phái chính trị đến việc thực hiện kiềm chế đối trọng trong Hiến
pháp Mỹ.
Bên cạnh đó, cô Nguyễn Thị Ánh Vân có bài viết: “Bàn về thuyết tam quyền
phân lập và kiềm chế đối trọng trong Hiến pháp Hoa Kỳ” đăng trong Tạp chí luật học
số 12/2010. Bài viết đã khái quát về thuyết tam quyền phân lập, tính kiềm chế đối
trọng từ phía từng cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bài viết cũng đã cho ta
thấy hệ quả từ việc thừa nhận học thuyết tam quyền phân lập và kiềm chế đối trọng
trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Ngoài ra, cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ còn
là một phần nội dung của các tác phẩm khác như: “Sự hạn chế quyền lực của Quốc
hội Hoa Kỳ” của Ts. Nguyễn Quốc Văn, đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp số
12/2005. PGS.TS Thái Vĩnh Thắng có các bài viết “Chế định Tổng thống Hoa Kỳ
hiến pháp và thực tiễn” đăng trong Tạp chí luật học số 5/1996, “ Những hạt nhân hợp
lý trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước” đăng trong tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 2/1004, “ Hệ thống cơ quan tư pháp của nhà nước tư sản” trong tạp chí
luật học số 3/1996, “ Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại- lý luận và thực tiễn”
do Nhà xuất bản tư pháp xuất bản năm 2010. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung có bài “Sự
Khóa luận tốt nghiệp
4
– HC33A
hạn chế quyền lực nhà nước”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005. Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Kiểm soát quyền lực nhà nước – một số lý
luận và thực tiễn” năm 2008 của Ts. Trịnh Thị Xuyến.
Những công trình, tài liệu trên là nguồn tư liệu nghiên cứu, tham khảo có giá trị
mang tính lý luận và thực tiễn cao khi nghiên cứu về cơ chế kiềm chế đối trọng trong
tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ.
3. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu và phân tích cơ chế kiềm chế đối
trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ, để từ đó hiểu rõ hơn về cơ chế này
cũng như cách thức thiết lập mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực lập pháp – hành
pháp – tư pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ. Qua đó, có thể rút ra được
những điểm hợp lý có thể áp dụng vào Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy
nhà nước Hoa Kỳ.
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu như trên, phạm vi nghiên cứu đề tài giới
hạn chủ yếu nghiên cứu về cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước
Hoa Kỳ, bên cạnh đó cũng có liên hệ với cách thức thực hiện cơ chế này trong chính
thể cộng hòa tổng thống nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng trong quá trình
nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Kết hợp với phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng
hợp, diễn giải và quy nạp….
6. Bố cục của luận văn
Khóa luận tốt nghiệp
5
– HC33A
Ngoài phần mở đầu và kết luận, với những vấn đề đã xác định như trên khóa luận
gồm hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế kiềm chế đối trọng
Chương II. Cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ.
Trong quá trình làm đề tài, mặc dù đã có sự cố gắng, nỗ lực lớn. Song khóa luận
không thể tránh khỏi những điểm hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận
được sự chỉ bảo của các thầy cô và các bạn để khóa luận có kết quả tốt hơn.
Khóa luận tốt nghiệp
6
– HC33A
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ
KIỀM CHẾ ĐỐI TRỌNG
1. Khái niệm cơ chế kiềm chế đối trọng
Nhà nước luôn là đại diện chính thức cho một quốc gia trong mọi quan hệ đối
nội, đối ngoại. Để đảm bảo cho Nhà nước giữ vị trí trung tâm trong cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị, nhà nước có pháp luật và một bộ máy nhà nước là công cụ để thực
hiện điều đó. Nhà nước có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất, đồng thời
là chủ thể thực hiện quyền lực nên nhà nước có thể buộc các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội phải phục tùng ý chí của mình. Do đó, cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước là vấn đề quan trọng được đặt lên hàng đầu khi tìm hiểu về bất kì nhà nước
nào. Muốn cho quyền lực Nhà nước được thực hiện một cách có hiệu quả thì phải tìm
cho nó một cơ chế vận hành phù hợp. Hiện nay, việc tổ chức quyền lực nhà nước được
thực hiện theo nguyên tắc tập quyền hay nguyên tắc phần quyền. Tuy nhiên, một nhà
nước dù có được tổ chức theo nguyên tắc nào thì nguy cơ lạm dụng quyền lực vẫn có
thể xảy ra nếu không có sự kiểm soát hợp lý lẫn nhau giữa các cơ quan công quyền.
Đa số các nước đều tuyên bố trong Hiến pháp của mình quyền lực nhà nước được
thực hiện nhân danh nhân dân và đại diện cho lợi ích toàn xã hội. Tuy nhiên, xét về
bản chất giai cấp, quyền lực nhà nước chủ yếu là quyền lực của giai cấp thống trị và
một phần là quyền lực xã hội. Bất cứ ở đâu có quyền lực sẽ xuất hiện xu thế lạm
quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực đó thuộc về ai. Do đó, để đảm bảo các
quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm
giữ quyền lực nhà nước phải thiết lập một hành lang pháp chế nhằm giới hạn quyền
lực nhà nước. Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì phải phân quyền và phải làm cho
các nhánh quyền đã được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi đã được quy
Khóa luận tốt nghiệp
7
– HC33A
định. Kiềm chế đối trọng được coi như là giải pháp nhằm ngăn chặn sự lạm quyền,
chuyên quyền đó. Nó có thể có được khi quyền lực Nhà nước được phân thành ba
quyền năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm chống sự độc tài trong việc thực
hiện quyền lực Nhà nước, qua đó đảm bảo được quyền tự do của công dân. Điều đó sẽ
có ý nghĩa khi đảm bảo được tính độc lập và vị trí ngang bằng của ba quyền năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi,
trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của
Montesquieu có nói: “ Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một
người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng
chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành độc tài. Cũng không có gì
là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền
sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra Luật. Nếu quyền tư
pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp.
Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng
nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.”(1)
Như vậy, để đảm bảo được tính độc lập và vị trí ngang bằng nhau giữa ba quyền
năng lập pháp, hành pháp và tư pháp thì không thể không có sự chuyên môn hóa, tức
là mỗi cơ quan chỉ đảm nhận một chức năng của riêng mình, không xâm lấn quyền của
các cơ quan khác nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác. Quyền lực ngăn chặn
quyền lực chính là điểm cốt yếu trong chủ trương phân chia quyền lực.
Sự phân chia quyền lực ở các nước hiện nay được thể hiện: Quốc hội (Nghị viện)
đảm nhận chức năng lập pháp, Chính phủ (Nội các) đảm nhận chức năng hành pháp
và Tòa án đảm nhận chức năng xét xử. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự chuyên môn
hóa giữa các cơ quan mà không có sự chế ước lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau thì quyền
lực nhà nước sẽ bị phân tán và không có khả năng thực hiện được. Vì vậy, ở mỗi cơ
1()
: Xem: Tinh thần pháp Luật – Montesquieu, Nxb Giáo dục 1996
Khóa luận tốt nghiệp
8
– HC33A
quan công quyền cần có một phương tiện tương xứng để có thể kiểm tra, chế ước hoạt
động của nhau. Hay nói cách khác giữa các cơ quan phải được đặt trong một hệ thống
kiềm chế đối trọng nhau để cho chúng không biệt lập, phân tán mà tồn tại ở một thế
cân bằng trong một quyền lực nhà nước thống nhất.
Như vậy, có thể hiểu, cơ chế là cách thức sắp xếp, tổ chức thực hiện để làm cơ sở
theo đó mà thực hiện. Kiềm chế là sự can thiệp vừa đủ vào tổ chức và hoạt động của
nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp để các cơ quan này có thể thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Song sự can thiệp đó phải giữ ở mức không
làm mất đi tính độc lập tương đối của từng cơ quan. Còn đối trọng là sự tương xứng,
cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan công quyền có được do sự kiềm chế lẫn nhau.
Tóm lại, cơ chế kiềm chế đối trọng là cơ chế kiểm soát, chế ngự lẫn nhau để ngăn
chặn sự lạm quyền hay lấn át quyền và duy trì thế cân bằng giữa các cơ quan thực thi
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cơ chế kiềm chế đối trọng mà học thuyết tam quyền phân lập đưa ra nhằm mục
đích giám sát và ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, trong đó mỗi tổ chức sử dụng
quyền lực nhà nước đều có sự độc lập cần thiết, đồng thời có quyền và phương tiện
tương xứng để giám sát hoạt động của các cơ quan khác, tạo thế cân bằng về quyền
lực giữa các cơ quan. Đây là cơ sở lý luận để hình thành nguyên tắc kiềm chế đối
trọng trong tổ chức và thực hiện quyền lực của nhà nước tư sản. Nhờ có sự tác động
của hệ thống kiềm chế đối trọng mà có được thế cân bằng quyền lực giữa các cơ quan
thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp, đảm bảo không có cơ quan nào
nằm trọn vẹn quyền lực Nhà nước trong tay mình, lấn át hoặc chi phối hoàn toàn hoạt
động của các cơ quan khác, đồng thời không có cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát,
kiểm tra từ phía cơ quan khác. Quyền lực nhà nước và quyền lực của từng cơ quan đều
bị hạn chế trong một phạm vi nhất định.
Khóa luận tốt nghiệp
– HC33A
9
2. Cách thức áp dụng cơ chế kiềm chế đối trọng trong chính thể cộng hòa
tổng thống
Chính thể cộng hòa tổng thống là một hình thức chính thể trong đó nguyên thủ
quốc gia – Tổng thống do nhân dân bầu ra, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là
người đứng đầu Chính phủ.
Trong chính thể cộng hòa tổng thống, tất cả các nhà nước đều bị đặt trong một cơ
chế kiềm chế và đối trọng lẫn nhau, điều này xuất phát từ yêu cầu của sự phân quyền
cứng rắn. Khác với nhà nước của các chính thể đại nghị, việc tổ chức quyền lực nhà
nước ở các nước có chính thể cộng hòa tổng thống áp dụng học thuyết phân chia
quyền lực nhà nước một cách cứng rắn và tăng cường quyền lực của cá nhân Tổng
thống. Chính việc áp dụng này là cơ sở cho việc không chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa
lập pháp và hành pháp. Thay cho cơ chế chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và
hành pháp là cơ chế kiềm chế và đối trọng lẫn nhau để không có cơ quan nào lợi dụng
quyền lực.
Theo T.Jefferson thì sự phân quyền ở đây có hai chiều: “Thứ nhất, đó là sự phân
quyền giữa các nhánh riêng rẽ của chính quyền; Thứ hai, đó là sự phân chia chính
quyền theo cách thức sao cho chức năng của một nhánh quyền trong một vấn đề cụ
thể bị giới hạn bởi chức năng của một nhánh khác có thẩm quyền về cùng một vấn đề
ấy hoặc các vấn đề khác có liên quan, được gọi là “các biện pháp và cân đối tăng
cường quyền lực lẫn nhau”. Đây là một hệ thống nằm bên trong chính quyền nhằm
đảm bảo tính trách nhiệm của chính quyền”
(2)
. Mục đích của hệ thống này là nhằm
ngăn ngừa trước những hậu quả xấu có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của các
nhánh quyền lực nhà nước. Một bộ máy không tốt chỉ biết đảm nhiệm các công việc
được phân công của mình mà còn phải trù liệu trước và ngăn ngừa trước những hậu
quả xấu có thể xảy ra trong hoạt động điều hành và quản lý đất nước.
2):
Xem : Nguyễn Cảnh Bình (Biên dịch), Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào, Nxb tri thức, Hà Nội 2006
Khóa luận tốt nghiệp
10
– HC33A
Cơ chế kiềm chế và đối trọng trong chính thể cộng hòa tổng thống được thể hiện
ở một số nội dung sau:
- Lập pháp được quyền phê chuẩn các quyết định bổ nhiệm của Tổng thống và
phê chuẩn các Hiệp định đã được Tổng thống hoặc Bộ trưởng đã kí kết;
- Hành pháp được quyền phủ quyết các dự án luật đã được Nghị viện thông qua;
- Tư pháp được quyền xét xử các hành vi của hành pháp;
- Lập pháp được quyền quyết định ngân sách hoạt động của hành pháp và tư
pháp, phê chuẩn và quyết định bổ nhiệm Thẩm phán;
- Hành pháp được quyền bổ nhiệm các Thẩm phán của Tòa án tối cao và các Tòa
án liên bang;
- Tư pháp được quyền phán xét các đạo luật vi hiến của lập pháp.
Theo đó, quyền lực nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống có sự phân chia,
tách biệt, độc lập và chuyên môn hóa các cơ quan công quyền như Nghị viện, Chính
phủ, Tòa án nhằm tạo thế cân bằng giữa quyền lực và cơ chế kiềm chế đối trọng để
ngăn cản và kiểm soát lẫn nhau.
Chủ thể nắm quyền hành pháp là Tổng thống - có quyền lực rất lớn, là trung tâm
của quyền lực nhà nước, vừa là người đứng đầu quốc gia, vừa là người đứng đầu
Chính phủ. Tổng thống do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra nên chỉ chịu trách
nhiệm trước công dân mà không chịu trách nhiệm trước Quốc hội, độc lập với Quốc
hội và nắm trọn quyền hành pháp trong tay. Tổng thống có quyền tự mình lựa chọn,
bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ từ số các chính khách không phải là Nghị sĩ và
có thể tùy ý bãi miễn họ bất cứ lúc nào. Tổng thống có quyền cử, triệu hồi các đại sứ
có quyền thay mặt Chính phủ ký kết các Điều ước, các Hiệp định với nước ngoài, là
thống soái các lực lượng vũ trang, có quyền ký các văn bản pháp luật, ban bố các
mệnh lệnh hành chính đã có hiệu lực pháp lý.
Khóa luận tốt nghiệp
11
– HC33A
Nghị viện ( Quốc hội ) là chủ thể nắm quyền lập pháp, do cử tri bầu ra. Quốc hội
gồm hai viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, hai viện này được lập theo những
phương thức khác nhau. Hạ nghị viện do dân bầu ra, số lượng Hạ nghị sĩ được phân bổ
theo số lượng cử tri. Còn Thượng nghị viện do các bang cử, Thượng nghị sĩ được coi
là sứ giả của các bang trong Quốc hội.
Chủ thể của ngành tư pháp là Tòa án tối cao do Tổng thống và Thượng nghị viện
đồng thời cử ra. Tòa án có toàn quyền xét xử các vụ tội phạm hình sự và tranh chấp
dân sự nhưng chỉ trên cơ sở các quy định của luật. Đồng thời Tòa án tối cao có quyền
kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật của Quốc hội.
Hệ thống kiềm chế đối trọng đã tạo ra một cơ chế trong đó mỗi nhánh quyền lực
đều có khả năng kiềm chế sự can thiệp từ phía nhánh quyền khác. Tổng thống và các
bộ trưởng có toàn quyền trong lĩnh vực hành pháp và Nghị viện có toàn quyền trong
lĩnh vựa lập pháp. Nghị viện không có quyền lật đổ Chính phủ và Tổng thống cũng
không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn. Vì vậy, ở đây không xảy ra chuyện
lập pháp được quyền đứng ra thành lập hành pháp và hành pháp phải chịu trách nhiệm
trước lập pháp, rồi dẫn đến việc lật đổ và giải tán lẫn nhau như ở chế độ đại nghị mà
lập pháp là lập pháp, hành pháp là hành pháp. Thượng nghị viện có quyền bãi bỏ bất
cứ ứng cử viên nào mà Tổng thống tiến cử giữ các chức vụ cao trong bộ máy nhà nước
và bác bỏ những Điều ước quốc tế mà Tổng thống đã kí. Nghị viện có quyền xem xét
và buộc tội Tổng thống theo trình tự “impeachment” và nếu như Thượng viện tuyên
bố là Tổng thống có tội thì sẽ cách chức Tổng thống. Tổng thống có thể khống chế
một phần quyền lực của Nghị viện trong việc ban hành luật và chi phối hoạt động của
Tòa án tối cao bằng việc bổ nhiệm Chánh án. Tuy nhiên, Tổng thống không có quyền
giải tán Nghị viện, bãi chức Thẩm phán và Nghị viện cũng không có quyền bỏ phiếu
tín nhiệm Chính phủ. Tòa án là cơ quan xét xử có thể coi là cơ quan tương đối độc lập
Khóa luận tốt nghiệp
12
– HC33A
đối với các cơ quan nhà nước khác, tuy nhiên, Tòa án cũng có quyền thanh tra hoạt
động của nội các chính phủ và Nghị viện.
Dạng chính thể này hiện đang tồn tại ở Mỹ, các nước Trung Mỹ như Panama,
Coxtarica, các nước Nam Mỹ như Braxin, Achentina, Chi lê.. và một số nước Châu Á
như Philippin, Pakistan…Tuy việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của
những nước này có những nét đặc thù riêng, nhưng chúng đều có một điểm chung là
đều mang những đặc trưng nhất định của tư tưởng phân chia quyền lực cứng rắn như
trên, trong đó có cơ chế kiềm chế đối trọng.
3. Sự xuất hiện cơ chế kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước
Hoa Kì
Kiềm chế đối trọng là một sáng tạo hoàn toàn mới của các Nhà lập hiến Hoa Kỳ
tại Hội nghị Philadenphia, khi Montesquieu chỉ mới nói đến tam quyền phân lập mà
chưa nói đến kiềm chế đối trọng và cũng chưa có một tiền lệ nào trên thế giới nói đến.
Kiềm chế đối trọng thể hiện tính nhân bản sâu sắc, một cơ chế bảo vệ chủ quyền nhân
dân ngay từ trong bộ máy nhà nước.
Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 là bản Hiến pháp đầu tiên trên thế giới, giá trị của nó vẫn
còn nguyên vẹn đến hôm nay. Nói đến Hiến pháp Hoa Kỳ, người ta không thể không
nói đến hệ thống kiềm chế đối trọng, bởi nó là một trong những giá trị của Hiến pháp
Hoa Kỳ. Những yếu tố lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội thời lập quốc là
nguyên nhân làm xuất hiện hệ thống kiềm chế đối trọng trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Vùng đất Châu Mỹ là Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay, xưa kia vốn là nơi sinh
sống của những bộ tộc người da đỏ mà tổ tiên của họ từ miền Đông Á tới. Vùng đất
Châu Mỹ được khám phá vào thế kỷ 15. Người Tây Ban Nha là những di dân Châu
Âu đầu tiên đặt chân tới, sau đó là di dân người Pháp, Hà Lan, Thụy Điển và đặc biệt
là cuộc di dân ồ ạt của người Anh vào những năm đầu thế kỷ XVII. Cư dân Mỹ ngày
càng tăng về số lượng. Trên vùng đất châu Mỹ này đã diễn ra những cuộc tàn sát đẫm
Khóa luận tốt nghiệp
13
– HC33A
máu giữa những người da trắng và người da đỏ. Thêm vào đó là cuộc chiến tranh
giành thuộc địa giữa người Anh và người Pháp trên đất Bắc Mỹ được biểu hiện bằng
những cuộc chiến tranh kéo dài trong suốt 70 năm. Cuối cùng, Pháp buộc phải ký hiệp
ước Paris kết thúc cuộc chiến tranh đế quốc giữa Anh và Pháp trên đất Bắc Mỹ. Quyền
kiểm soát các thuộc địa đã hoàn toàn thuộc về Anh Quốc. (3)
Trong những năm hậu chiến đầy biến cố kể từ năm 1763, các thuộc địa vẫn còn
tách biệt nhau, không có mối liên hệ với nhau. 13 bang thuộc địa có các quy chế pháp
lý khác nhau: hoặc là nhà vua chỉ định các thống đốc cho thuộc địa hoặc là thuộc địa
theo kiểu Âu chiếu. Nhưng đều có đặc điểm chung là các thuộc địa đều được thực hiện
chế độ đại biểu giành được quyền tự trị nhất định. Ngay trong bối cảnh đó, ở một vài
nơi tại các thuộc địa đã có những cá nhân có quan niệm mình là người Mỹ, có cá tính
riêng biệt của người Mỹ và họ có ý tưởng sau này sẽ thống nhất 13 bang thuộc địa đó
trong một quốc gia độc nhất.
Nghị viện Anh ra đời đã đem lại quyền tự do dân chủ cho dân chúng, chống lại sự
độc tài của Nhà vua. Theo đó, sự mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa ngày càng
trở nên gay gắt. Sự mâu thuẫn này có những nét đặc thù riêng, đó là mâu thuẫn giữa
những người cùng dòng máu Anh, họ dễ gần nhau hơn bởi tính truyền thống và văn
hóa có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng khó gần nhau hơn bởi sự ra đi cũng là sự
đoạn tuyệt với chính quốc. Người dân thuộc địa cho rằng, họ là người khai phá lục địa,
họ phải được toàn quyền quyết định. Địa vị của họ và của người Anh ở chính quốc là
ngang nhau, họ không thể bị người Anh ở chính quốc cai trị. Sự mâu thuẫn đó càng
trở nên gay gắt hơn khi tại các thuộc địa các tư tưởng và học thuyết cộng hòa đối lập
với tất cả mọi hình thức độc tài và độc đoán của chủ nghĩa quân chủ. Đặc biệt là tư
tưởng về nhà nước của Jon Locke và Montesquieu. Ngày 4/7/1776 bản tuyên ngôn độc
lập Mỹ được tuyên bố, Mỹ giành độc lập và có điều kiện để phát triển. Giai cấp tư sản
3()
: Xem: Lịch sử nước Mỹ, Bản dịch của Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị, Nxb Thông tin văn hóa 1994
Khóa luận tốt nghiệp
14
– HC33A
cần củng cố vai trò thống trị của mình chế độ hiệp bang tỏ ra không còn phù hợp nữa
nên đã nảy sinh tư tưởng xây dựng một liên bang vững mạnh.
Ngày 27/5/1787 dưới danh nghĩa sửa đổi bản Điều lệ của Hiệp bang, Hội nghị
các bang đã hợp ở Philadenphia xóa bỏ bản điều lệ hợp bang và sự thảo một bản Hiến
pháp mới. Các bang đã chọn những người có khả năng nhất để đại diện cho mình ở
Hội nghị, đa số đại diện là ở tầng lớp giàu có trong xã hội nên tư tưởng nhiều khi bảo
thủ. Tuy nhiên, không có nghĩa là những người tham gia hội nghị ở Philadenphia đều
là những người phản động mà họ là những người biết lắng nghe dư luận chung và
không muốn đưa vào Hiến pháp một điều khoản trực tiếp nào đi ngược lại với nguyện
vọng của quần chúng. Theo Sorgi – một giáo sư người Mỹ cho rằng: “ Những ông tổ
sáng lập Hoa Kỳ là những nhà hoạt động chính trị giàu kinh nghiệm và sáng suốt, biết
chế ngự những tư tưởng bảo thủ mà chắc chắn sẽ không được đa số cử tri ủng hộ” (4).
“Hiến pháp Hoa Kỳ là sự thỏa hiệp giữa các nhóm này với toàn thể cử tri”
(5)
. Chính
điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự hình thành hệ thống kiềm chế đối trọng
trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh của
giai cấp tư sản chống giai cấp phong kiến đang trở nên mạnh mẽ, đồng thời những tư
tưởng mới về Nhà nước của Jon Locke và Montesquieu đang được phổ biến rộng rãi.
Giai cấp tư sản Mỹ đã mạnh dạn đưa ra một hình thức Nhà nước mới mẻ, mang đậm
nét dân chủ tư sản.
“Hoa Kỳ đã thiết lập một hệ thống tổ chức Công quyền về hình thức gần giống
Anh quốc, song các quan niệm dân chủ đối lập lại các nét quan liêu và quân chủ của
hệ thống công quyền Anh, làm cho dân được bình đẳng hơn về mặt chính trị, được đại
diện nhiều hơn ở cơ quan lập pháp tiểu bang và liên bang, làm cho địa phương được
tự trị nhiều hơn và làm cho con người được tự do, ít bị chính quyền kiểm soát hơn
4()
5()
: Xem: Chính trị học tập 1, Nxb Thông tin khoa học xã hội
: Xem: Lịch sử nước Mỹ được làm ra như thế nào? Nguyễn Cảnh Bình (dịch)
Khóa luận tốt nghiệp
15
– HC33A
trước. Hoa Kỳ đã hoàn tất hệ thống này phản ánh một sự dung hòa giữa các ý niệm
của Anh và của Pháp” (6).
Có thể nói, thuyết phân quyền của Jon Locke và Montesquieu đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tư tưởng những nhà lập Hiến Hoa Kỳ. Theo quan điểm của các nhà xây
dựng lên thuyết phân quyền thì quyền lực Nhà nước phải được phân chia thành các
quyền năng khác nhau và phải trao cho các cơ quan khác nắm giữ, có như thế mới
tránh được chuyên chế, độc tài. Tư tưởng của Học thuyết phân quyền được các nhà lập
hiến Hoa Kỳ áp dụng triệt để.
Cũng theo thuyết phân quyền, quyền lực Nhà nước không chỉ được phân chia
thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp để chuyên môn hóa các quyền
mà giữa các nhánh quyền này phải có cơ chế kiểm soát lẫn nhau, chế ước lẫn nhau tạo
ra thế cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là
cơ sở lý luận cho sự hình thành hệ thống kiềm chế đối trọng trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Theo quan điểm của các nhà lập hiến Hoa Kỳ, sự phân quyền được đặt ra nhằm bảo vệ
sự tự do của nhân dân cũng như của mỗi nhánh quyền lực. Sự hình thành ba loại cơ
quan công quyền dựa trên một hệ thống chung, đó là do sự lựa chọn của nhân dân
nhưng bằng ba phương pháp khác hẳn nhau. Mỗi nhánh quyền theo một đường lối
riêng biệt, không phụ thuộc nhau. Phân quyền là để kiểm soát lẫn nhau và để giữ mực
cân đối. Phân quyền và kiềm chế đối trọng là hai yếu tố không thể tách rời, chúng hợp
nhất với nhau tạo thành nguyên tắc quan trọng nhất thuộc về tổ chức bộ máy nhà nước
Hoa Kỳ còn kiềm chế đối trọng là yếu tố thuộc về hoạt động của bộ máy nhà nước.
Theo ông Mandison cho rằng: “ Phương pháp ngăn ngừa sự tập chung nhiều quyền
lực trong một bộ hoặc một ngành là giao phó cho mỗi bộ, mỗi ngành những phương
tiện được tiên liệu trong Hiến pháp, để mỗi bộ, mỗi ngành có thể chống đối lại sự can
thiệp, sự xâm lấn của các ngành, bộ khác. Phương tiện chống đối cần phải cân xứng
6()
: Xem: Những cuộc nói chuyện về Luật pháp Hoa Kỳ, Berman J. Harold – Sài Gòn 1968
Khóa luận tốt nghiệp
16
– HC33A
với lực lượng uy hiếp của ngành hoặc bộ đối phương.” “ chúng ta cần phải tổ chức
cơ cấu của chính quyền theo một hệ thống khiến cho các ngành, các bộ của chính
quyền, trong các liên hệ giữa chúng, tự chúng kiểm soát lẫn nhau và duy trì cho nhau
được vững vàng.”(7)
Như vậy, có thể thấy rằng, nguyên tắc phân quyền được coi là một trong những
nguyên tắc chính trị pháp lý mà những nhà lập hiến Hoa Kỳ đã lựa chọn và áp dụng.
Họ cho rằng, nước Mỹ phải là một nước Cộng hòa liên bang chứ không thể khác được
và Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền. Sở dĩ như
vậy bởi họ cho rằng: “ Trong một cộng hòa tập trung, dân chúng giao phó quyền hạn
cho một chính phủ độc nhất. Để ngăn ngừa Chính phủ lạm dụng quyền lực mà dân
chúng giao phó, Chính phủ phải được chia thành nhiều ngành khác nhau và hoàn
toàn riêng biệt. Ở Mỹ, dân chúng giao phó quyền lực cho hai chính phủ, Chính phủ
liên bang và Chính phủ tiểu bang. Quyền lực của mỗi Chính phủ cũng được chia
thành nhiều ngành, bộ. Như vậy, sự ngăn ngừa chính quyền lạm dụng quyền lực được
nhân lên gấp hai, bởi vì có hai Chính phủ kiểm soát lẫn nhau, và mỗi Chính phủ lại tự
kiểm soát mình do sự phân chia thành nhiều ngành, nhiều bộ.” (8)
Các nhà lập hiến Hoa kỳ cũng rất chú trọng đến vấn đề ngăn ngừa sự lạm dụng
quyền lực Nhà nước. Theo họ: “ Chính phủ là cái phản chiếu rõ ràng nhất bản tính
của loài người. Nếu người là thần thánh thì không cần đến Chính phủ, và nếu người
được thần thánh cai trị thì Chính phủ của loài người không cần đến những khoản tiên
liệu để Chính phủ kiểm soát dân chúng và Chính phủ tự kiểm soát lấy mình. Nếu
thành lập một Chính phủ để người cai trị người thì khó khăn lớn nhất là phải làm thế
nào để Chính phủ cai trị được dân chúng và phải làm thế nào để Chính phủ tự kiểm
soát lấy mình.”(9)
7()
: Xem: Nguyễn Hưng Vượng (biên dịch) Luận về hiến pháp Hoa Kỳ, Nxb Như Nguyện, Hà Nội 1967
8()
: Xem: Luận về hiến pháp Hoa Kỳ, Nguyễn Hưng Vượng (biên dịch)Nxb Như Nguyện, Hà Nội 1967
9()
: Xem: Luận về hiến pháp Hoa Kỳ, Nguyễn Hưng Vượng (biên dịch)Nxb Như Nguyện, Hà Nội 1967
Khóa luận tốt nghiệp
17
– HC33A
Tóm lại, Cơ chế kiềm chế đối trọng xuất hiện trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa
Kỳ do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, lịch sử hình thành nước Mỹ. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được hình thành
từ 13 bang thuộc địa của Anh, người Mỹ nguyên thủy chủ yếu là người Anh di cư
sang. Chế độ quân chủ Anh Quốc đã làm cho họ chán ngán. Người dân thuộc địa Mỹ
phải trải qua những cuộc chiến tranh đầy gian khổ, hy sinh mới giành được quyền độc
lập, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Anh quốc và họ đã thiết lập nên một chính thể mới.
Thứ hai, Quyền lực nhà nước luôn bị đe dọa bởi sự lạm dụng. Sự lo sợ quyền lực
Nhà nước bị lạm dụng từ nhiều phía là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm
xuất hiện hệ thống kiềm chế đối trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ. Ở Hoa
Kỳ mặc dù không trực tiếp bị lạm dụng quyền lực Nhà nước bởi những ông vua phong
kiến, nhưng sự cai trị của vua Anh thể hiện ở khắp mọi nơi. Thêm vào đó là sự tương
quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội, giai cấp phong kiến đang lâm vào tình
trạng suy thoái, giai cấp tư sản đang được nhìn nhận là giai cấp có tư tưởng cấp tiến,
nhưng giai cấp tư sản không đủ mạnh để có thể vừa đánh đổ giai cấp phong kiến vừa
duy trì sự thống trị tuyệt đối đối với số đông quần chúng nhân dân lao động thuộc giai
cấp vô sản đang ngày càng một lớn mạnh. Sự lựa chọn cơ chế kiềm chế đối trọng là
một biện pháp ngăn ngừa nguy cơ đe dọa quyền lợi của giai cấp tư sản có thể xảy ra
trong trường hợp cơ quan nhà nước do đa số nhân dân lao động bầu ra. Các nhà lập
Hiến Hoa Kỳ lo ngại sự lạm quyền của Nghị viện có thể xảy ra, nên đã chủ động xây
dựng một nền hành pháp đủ mạnh để có thể giữ thế cân bằng. Hơn nữa Hiến pháp Hoa
Kỳ xác định, chính quyền liên bang là một chính quyền hạn chế nên cũng cần phải có
một cơ quan thực hiện quyền tư pháp để xác định những quyền hạn của Nghị viện có
vượt quá hay không.
Thứ ba, thuyết tam quyền phân lập của Jon Locke và Montesquieu đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tư tưởng các nhà lập hiến Hoa Kỳ. Nguyên tắc phân quyền đã được nhận
Khóa luận tốt nghiệp
18
– HC33A
thức và được áp dụng một cách nhanh chóng ở Hoa Kỳ, bởi các nhà lập Hiến Hoa Kỳ
chủ trương áp dụng nguyên tắc phân quyền “tránh độc tài và làm thế nào cho độc tài
không ngóc đầu lên được”. (10) Nguyên tắc phân quyền trở thành một nguyên tắc chính
trị pháp lý được ghi nhận trong Hiến pháp của các bang và Hiến pháp 1787 của Liên
bang. Học thuyết phân quyền được chấp nhận và áp dụng, điều đó cũng có nghĩa là cơ
chế kiềm chế đối trọng được hình thành.
CHƯƠNG II: CƠ CHẾ KIỀM CHẾ ĐỐI TRỌNG TRONG TỔ
CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC HOA KỲ
Nếu như tam quyền phân lập chú ý đến quyền lực nhà nước ở trạng thái tĩnh thì
kiềm chế đối trọng quan tâm quyền lực nhà nước ở trạng thái động. Nó tạo ra sự kiểm
tra, giám sát, đối trọng lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước và tất cả đều dựa trên một
10()
: Xem: Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy Nhà nước tư sản hiện đại. Viện thông tin khoa học xã hội – Hà Nội
1992
Khóa luận tốt nghiệp
– HC33A
19
căn cứ chung: Hiến pháp có một mục đích chung là lợi ích của nhân dân. Điều này có
thể diễn tả dưới dạng lược đồ tam giác quyền lực sau:
Tổng thống
Nghị viện
Tòa án
1. Cách thức thiết lập mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp – hành pháp –
tư pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kì
Thuyết phân quyền của Montesquieu ảnh hưởng nhiều đến các quan niệm lý luận,
nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước, chế độ chính trị, quá trình lập hiến của các
nhà nước tư sản và thực tiễn pháp luật – nhà nước ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Có thể nói, Hoa Kì là quốc gia đã khai sinh ra chế độ phân quyền cứng rắn. Cơ
chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Hoa Kì thể hiện sự trung thành với thuyết tam
quyền phân lập. Theo đó, quan hệ giữa các nhánh quyền lực trong tổ chức chính quyền
Hoa Kì được áp dụng theo nguyên tắc phân chia quyền lực một cách cứng rắn: Lập
pháp là lập pháp, hành pháp là hành pháp và tư pháp là tư pháp. Sự phân quyền này
được thể hiện cả về mặt chức năng, cả về mặt nhân viên đảm nhiệm và tiến xa hơn
trong một cơ chế kìm chế và đối trọng.
Hệ thống kiềm chế đối trọng là một cơ chế kiểm soát quyền lực với nội dung chủ
yếu là hạn chế quyền lực của bên này đối với bên kia trong mối quan hệ giữa các cơ
quan công quyền với nhau, sao cho những quyền lực ấy các bên có thể kiểm soát lẫn
nhau, chế ước lẫn nhau nhằm ngăn cản sự lạm quyền và duy trì thế cân bằng quyền lực
giữa các bên.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ, cách thức thiết lập mối quan hệ giữa các
cơ quan lập pháp – hành pháp – tư pháp thể hiện ở những điểm sau:
Khóa luận tốt nghiệp
20
– HC33A
Thứ nhất, giao quyền cho các cơ quan nhà nước nhưng việc giao quyền này
không trọn vẹn mà có sự hạn chế quyền lực của từng cơ quan. Hoạt động của cơ quan
này chịu sự ảnh hưởng của cơ quan khác, có sự tham gia của các cơ quan khác ở mức
độ nhất định.
Thứ hai, việc giao quyền đối với các cơ quan là tương đương nhau, đối trọng
nhau sao cho không một nhánh quyền nào có ưu thế tuyệt đối
Thứ ba, phân chia quyền lực rành mạch giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp, nhằm đảm bảo độc lập tương đối giữa các cơ quan.
Thực hiện cơ chế này, trong nội dung, cơ cấu các điều Hiến pháp Hoa Kì 1787 đã
thể hiện rõ nét sự phân quyền. Hiến pháp chỉ gồm 7 Điều, 3 điều đầu tiên nói về cơ
chế thực hiện quyền lực nhà nước theo nội dung của thuyết tam quyền phân lập. Điều
I khẳng định: “Mọi quyền hành do bản Hiến pháp này chấp thuận, sẽ trao cho một
Quốc hội của Hiệp chủng quốc, gồm một Thượng nghị viện và một Hạ nghị viện”.
Tiếp đó là các quy định về bầu Thượng nghị viện, Hạ nghị viện, tiêu chuẩn của các
Nghị sỹ, thẩm quyền của Quốc hội trong lĩnh vực lập pháp, trình tự xây dựng và thông
qua các đạo luật…Điều II Hiến pháp quy định: “ Quyền hành pháp sẽ được trao cho
một vị Tổng thống Hiệp chủng quốc Mỹ châu”, Tiếp đó là các quy định về nhiệm kì,
quy trình bầu cử Tổng thống, thẩm quyền của Tổng thống. Khoản 1 Điều III Hiến
pháp quy định: “ Quyền tư pháp Hợp chủng quốc sẽ được trao cho Tòa án Tối cao và
các cấp dưới do Quốc hội lập ra”. Tiếp theo là những quy định về thẩm quyền xét xử
của Tòa án.
Như vậy, cách thức tổ chức hoạt động của bộ máy Hoa Kì được tập hợp thành ba
ngành. Ba ngành này phát sinh từ tính chất chức năng nhà nước. Hiến pháp Hoa Kỳ đã
quy định rõ về tổ chức, thẩm quyền và sự tác động giữa ba ngành.
Về phương diện lập pháp, quyền làm luật được trao cho Nghị viện (Quốc hội),
Nghị viện bao gồm Thượng viện và Hạ viện. Chức năng chủ yếu của Nghị viện là sử
Khóa luận tốt nghiệp
21
– HC33A
dụng quyền lực của mình để làm nên các đạo luật cần thiết và phù hợp với quy định
của Hiến pháp. Hạ nghị viện gồm các đại biểu do nhân dân toàn liên bang bầu ra. Số
đại biểu của mỗi bang được cử ra theo tỉ lệ dân số của bang ấy, theo nguyên tắc cứ ba
mươi ngàn người có một đại biểu nhưng ít nhất mỗi bang có một đại biểu. Tuy nhiên,
tỷ lệ này bị bãi bỏ bởi sửa đổi thứ 14 (được phê duyệt vào ngày 9/7/1848), theo quy
định này, số lượng đại biểu Hạ viện sẽ do Quốc hội quyết định. Trên cơ sở đó, mỗi
bang sẽ được bầu một lượng đại biểu tỷ lệ với dân số của bang. Năm 1929, Quốc hội
thông qua luật ấn định số lượng đại biểu Hạ viện. Năm 1949, Luật được sửa đổi, theo
đó, số lượng thành viên của Hạ viện được ấn định là 435 đại biểu, đồng thời giao cho
Tổng thống nhiệm vụ cứ 10 năm một lần trên cơ sở kết quả tổng điều tra dân số, phân
bổ số đại biểu cho các bang. Nhiệm kỳ của Hạ nghị viện là 2 năm. Muốn ứng cử Nghị
sỹ Hạ nghị viện phải trên 25 tuổi, là công dân Mỹ, ít nhất 7 năm trong thời gian tuyển
cử phải cư trú ở nơi bang mình ứng cử. Thượng nghị viện gồm những đại biểu do các
bang bầu ra. Mỗi bang không phân biệt lớn nhỏ được bầu ra hai đại diện vào Thượng
nghị viện. Thượng nghị viện do dân chúng của mỗi tiểu bang bầu lên thay vì trước đó
là do Nghị viện lập pháp của mỗi tiểu bang tuyển lựa. Nhiệm kì của Thượng nghị viện
là 6 năm. Tiêu chuẩn để ứng cử Nghị sỹ Thượng nghị viện phải từ đủ 30 tuổi, là công
dân nước Mỹ ít nhất 9 năm và khi tuyển cử phải cư trú ở bang mình ứng cử.
Hoa Kỳ là nhà nước liên bang, cơ quan lập pháp của liên bang được thành lập vừa
theo nguyên tắc đại diện cân xứng vừa theo nguyên tắc đại diện bình đẳng giữa các
bang. Hạ nghị viện được thành lập theo nguyên tắc đại diện cân xứng thì Thượng nghị
viện phải được thành lập theo nguyên tắc bình đẳng. Về cơ cấu của mỗi Viện gồm có:
Chủ tịch, Phó chủ tịch và các Ủy ban, song con đường hình thành và hoạt động của
những bộ phận này có sự khác nhau giữa hai viện.
Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, do đó Nghị viện có quyền làm mọi đạo luật
cần thiết, có quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Trong lĩnh vực lập pháp, thẩm quyền
Khóa luận tốt nghiệp
22
– HC33A
của Thượng nghị viện và Hạ nghị viện gần như ngang nhau, cả hai viện đều có quyền
sáng quyền lập pháp, tức là đều có quyền đưa ra các dự án luật. Một đạo luật thông
thường chỉ được coi là đã thông qua khi có đa số phiếu tán thành ở cả hai Viện.
Chủ thể nắm giữ quyền hành pháp là Tổng thống. Tổng thống là người đứng đầu
nhà nước, thay mặt Nhà nước trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại, đồng thời là người
đứng đầu hành pháp nên Tổng thống có quyền lực rất lớn. Tổng thống theo Hiến pháp
quy định: Do toàn dân bầu nhưng theo lối đầu phiếu gián tiếp. Tổng thống Hoa Kỳ là
nguyên thủ quốc gia, là người đứng đầu Nhà nước, đứng đầu bộ máy Hành pháp.
Chính chức năng đứng đầu bộ máy Hành pháp đã làm cho Tổng thống có thực quyền.
Tất cả quyền lực Nhà nước tập chung trong tay Tổng thống – là người duy nhất có
quyền quản lý đất nước và về mặt hình thức, ông không có nghĩa vụ chia sẻ với bất kỳ
ai quyền lực ấy. Thẩm quyền của Tổng thống được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau: Do nắm quyền hành pháp là nguyên thủ quốc gia nên Tổng thống có quyền đề
cử theo ý kiến và với sự chấp thuận của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các quan chức
cấp cao của bộ máy hành pháp, nhưng không được bổ nhiệm những người là Nghị sỹ.
Về mặt hình thức thì quyền hạn của Tổng thống Hoa Kỳ được quy định như vậy,
nhưng trong thực tế, Tổng thống gần như có toàn quyền quyết định nhân sự của Chính
phủ. Tổng thống Mỹ thực hiện quyền hạn của mình với tư cách vừa là nguyên thủ
quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ. Mặc dù trong Hiến pháp Hoa Kỳ không có
điều khoản nào quy định về cơ cấu tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ, song có thể thấy, Chính phủ Mỹ có quyền hạn khá lớn trong nhiều lĩnh vực thông
qua những quy định về quyền hạn của Tổng thống – Người đứng đầu Chính phủ. Tổng
thống hoạt động với sự trợ giúp của các Bộ trưởng do ông tự ý lựa chọn trong số các
chính khách không phải là Nghị sỹ. Bộ trưởng chỉ chịu trách nhiệm chính trị trước
Tổng thống mà không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện ở bất cứ mức độ nào.
Khóa luận tốt nghiệp
23
– HC33A
Về mặt tư pháp, chủ thể quyền tư pháp là Tòa án tối cao và các Tòa án cấp dưới
do Nghị viện thành lập. Hệ thống Toàn án Hoa Kỳ là một bộ phận trong bộ máy Nhà
nước Hoa Kỳ, hoạt động theo quy định của Hiến pháp và các quy định khác của pháp
luật. Với chức năng xét xử để thực hiện quyền tư pháp, hệ thống Tòa án được pháp
luật trao cho những quyền hạn hoàn toàn độc lập để có thể giữ thế cân bằng trong việc
thực hiện quyền lực Nhà nước. Phạm vi hiệu lực của quyền tư pháp bao gồm xét xử tất
cả các vụ việc trên phương diện pháp luật và Hiến pháp và những Hiệp ước được kí
kết hoặc sẽ được ký kết do thẩm quyền của Hợp chủng quốc. Tòa án cũng được quyền
xét xử mọi vụ trọng tội, ngoại trừ những vụ lạm dụng công quyền được xét xử theo
thủ tục đàn hạch. Quyền tư pháp là quyền xét xử, quyền được đưa ra các phán quyết
theo quy chuẩn pháp luật. Muốn cho hoạt động xét xử được hiệu quả thì ngành tư
pháp cần phải được độc lập, ít phụ thuộc vào ngành khác càng tốt. Sự độc lập của
ngành Tư pháp là một cốt yếu đảm bảo tính tối cao cho một Hiến pháp có hạn định.
Hệ thống Tòa án Hoa Kỳ cũng giống như ngành lập pháp và ngành hành pháp, theo
nguyên tắc phân quyền giữa Chính phủ liên bang và Chính phủ bang, hệ thống Tòa án
Hoa Kỳ được chia thành hai hệ thống: hệ thống Tòa án liên bang và hệ thống Tòa án
các bang.
Thực hiện theo nguyên tắc phân quyền cứng rắn giữa ba nhánh quyền: lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Hoa Kỳ giữa ba nhánh quyền lực có mối liên hệ với nhau, có khả năng kiềm chế để
ngăn cản sự xâm lấn, lạm quyền từ phía nhánh khác.
Tổng thống đứng đầu bộ máy nhà nước, hoàn toàn độc lập với Nghị viện. Tuy
nhiên, giữa Tổng thống và Nghị viện vẫn có sự thỏa thuận, trao đổi, thương thuyết và
chịu trách nhiệm với nhau, vừa thể hiện sự hợp tác, vừa thể hiện sự kiềm chế, đối
trọng lẫn nhau giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp, giảm bớt sự cứng rắn và tạo
ra sự nhịp nhàng cho bộ máy nhà nước. Với tư cách là cơ quan thực thi pháp luật, Tòa
Khóa luận tốt nghiệp
24
– HC33A
án được pháp luật trao cho quyền năng hoàn toàn độc lập nhằm tạo thế “kiềng ba
chân” trong phân chia quyền lực nhà nước, độc lập với lập pháp và hành pháp trong
hoạt động. Đồng thời, độc lập với dân chúng vì cơ quan tư pháp không do dân bầu ra,
không chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Tòa án được giao quyền kiểm lại các đạo luật vi phạm Hiến pháp, một phần của
chức năng lập pháp. Phần lớn các chức năng tư pháp được Hiến pháp giao cho Tòa án,
nhưng Quốc hội có thể hành xử một phần của quyền này trong việc khởi tố và xét xử
các hành vi của các quan chức cấp cao của nhà nước. Trong trường hợp này, Hạ nghị
viện buộc tội và Thượng nghị viện xét xử. Đồng thời, Tổng thống có quyền ân xá mọi
tội phạm, ngoại trừ tội phản bội Tổ quốc.
Nghị viện tham gia vào tổ chức của hành pháp thông qua quyền đề cử một công
chức đảm nhiệm chức vụ của Tổng thống cho đến khi Tổng thống hoặc Phó tổng
thống bất lực, hoặc khi bầu cử được một Tổng thống mới nếu cả Tổng thống và Phó
tổng thống đều bị cách chức, tạ thế, từ chức hay bất lực. Hạ nghị viện có quyền bỏ
phiếu chọn Tổng thống trong trường hợp không một ứng cử viên nào được đa số phiếu
cần thiết, còn Thượng nghị viện có quyền lựa chọn Phó tổng thống trong trường hợp
tương tự. Nếu cả Tổng thống và Phó tổng thống vừa trúng cử đều không đủ điều kiện
làm Tổng thống và Phó tổng thống thì Quốc hội có quyền chỉ định người đảm nhận
chức vụ Tổng thống. Quốc hội có thể bằng một đạo luật trao quyền bổ nhiệm những
viên chức cấp dưới cho một mình Tổng thống, cho các tòa án hay cho các Bộ trưởng,
có quyền lập và thu các thứ thuế lợi tức.
Như vậy, có thể thấy một trong những sáng tạo độc đáo nhất của Hiến pháp Hoa
Kỳ - Hiến pháp đầu tiên và cũng là Hiến pháp tồn tại lâu nhất trên thế giới, chính là sự
thiết lập một chính quyền hành pháp mạnh mẽ. Mặt khác cũng phải nói rằng vai trò
của Pháp viện tối cao trong việc kiểm tra tính hợp hiến của các luật và các văn bản
luật khác cũng là một vấn đề độc đáo và quan trọng của hệ thống chính trị Hoa Kỳ.
Khóa luận tốt nghiệp
25
– HC33A
Điều này làm cho chính thể của Hoa Kỳ theo Hiến pháp 1787 luôn được coi là điển
hình cho chính thể cộng hòa tổng thống ở các nước trên thế giới.
2. Kiềm chế đối trọng giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong tổ
chức bộ máy nhà nước Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang có chính thể cộng hòa tổng thống. Với sự phân
quyền rõ rệt giữa lập pháp và hành pháp và có sự độc lập ở mức độ cao của hai cơ
quan này. Điều này làm cho người dân Hoa Kỳ tự hào rằng họ đã tìm ra một cơ cấu
chính trị mới lạ chưa từng có trong lịch sử.
Mối quan hệ trung tâm nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là
quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Quyền lập pháp Hoa Kỳ được
trao cho Nghị viện, song không có nghĩa là Nghị viện được độc quyền một cách tuyệt
đối để thực hiện quyền lập pháp của mình mà nó được đặt trong mối liên hệ với quyền
hành pháp, quyền tư pháp hay nói cách khác là được đặt trong cơ chế kiềm chế đối
trọng giữa các cơ quan công quyền cấp cao.
Với mục đích là bảo vệ tự do, độc lập cho mỗi ngành quyền lực. Các nhà lập hiến
Hoa Kỳ đã áp dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước Hoa Kỳ, mà nội dung chủ yếu là: Mỗi ngành cần có ý chí độc lập, riêng biệt,
mỗi ngành cần phụ thuộc lẫn nhau càng ít càng tốt trong tổ chức và hoạt động của mỗi
ngành.
2.1. Kiềm chế đối trọng từ phía cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp
Theo “Tinh thần Hiến pháp”: “ Các nhà lập hiến Hoa Kỳ cho rằng các điều
khoản hạn chế quyền lập pháp của Quốc hội là đòi hỏi khách quan và là biểu hiện
bình thường của cơ chế phân quyền, kiềm chế đối trọng. Sự kiềm chế đó không làm
triệt tiêu mà ngược lại làm cho Quốc hội Hoa Kỳ trở thành cơ quan lập pháp có nhiều
quyền lực nhất thế giới”(11). Để làm được điều đó, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã chủ
11()
: Xem: Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ, Nguyễn Hưng Vượng (biên dịch), Nxb Như Nguyện, Hà Nội 1967