MỤC LỤC
A.MỞ BÀI.
……………………………………………………….1
B. NỘI DUNG.
I. TÌM HIỂU CHUNG. ……………………………………………………...1
1. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán
2. Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
3. Thị trường chứng khoán.
II. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHỦ THỂ
KINH DOANH CHÚNG KHOÁN
…………………………………2
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM.
1.1.Tác động hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán có đối với
TTCK.
………………………………………………3
1.1.1 Tác động tích cực đối với TTCK.
1.2. Tác động tiêu cực đối với thị trường chúng khoán.
2. Tác động trở lai của TTCK với các chủ thể kinh doanh chứng khoán …8
A. MỞ BÀI.
Nhận thức rõ việc xây dựng thị trường chứng khoán (TTCK) là một
nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng
và phát triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với
các điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời và được đánh dấu bằng
việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Từ
khi hình thành, phát triển TTCK có sự đóng góp hết sức quan trọng hoạt động
của các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Để timg hiểu kĩ hơn về mối quan hệ
này em làm đề tài: “ Sự tác động qua lại giữa hoạt động của các chủ thể kinh
doanh chứng khoán với sự phát triển thị trường chúng khoán”
B. NỘI DUNG.
I. TÌM HIỂU CHUNG.
1. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán
Theo quy định của luật chúng khoán thì các chủ thể kinh doanh chứng
khoán gồm những chủ thể sau:
- Công ty chứng khoán.
- Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lí quỹ.
- các tổ chức khác:- Công ty lưu kí và thanh toán bù trừ
-Ngân hàng thương mại
- Các tổ chức trung gian tài chính khác: Công ty bảo hiểm,
các quỹ hưu lương……
2. Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, quản lí quỹ đầu tư chứng khoán và quản lí danh mục đầu tư
chứng khoán. ( Quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán 2010)
Qua khái niệm này ta thấy được hoạt động kinh doanh chứng khoán gồm
những đặc điểm:
-Kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có lien quan đến
quyền lợi của nhà đầu tư và các doanh nghiệp.
-Đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các chứng
khoán- giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán.
3. Thị trường chứng khoán.
TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc
mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp
khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ
cấp.
Như vậy, Vậy ta có thể hiểu TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán trao
đổi chứng khoán trung và dài hạn( cổ phiếu, trái phiếu…)
II. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHỦ THỂ
KINH DOANH CHÚNG KHOÁN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT
NAM.
Lịch sử hình thành và phát triển đã chứng minh TTCK Việt Nam có mối
quan hệ mật thiết và tác động qua lại với các chủ thể kinh doanh chứng khoán
thông qua các hoạt động. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán đã tạo điều kiện
hết sức quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển thị trường sơ cấp cũng như hình
thành thị trường thứ cấp ở Việt Nam. Những loại chủ thể này là một trong
những nhân tố quyết định sự sôi động hoặc có thể kìm hãm TTCK. Còn TTCK
sẽ là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh chúng khoán ngày càng mạnh mẽ.
Dưới đây là sự phân tích cụ thể về sự tác động qua lại này:
1.1.Tác động hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán có đối với
TTCK.
1.1.1 Tác động tích cực đối với TTCK.
Một là: Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán là chất xúc
là cầu nối giữa cung- cầu trên thị trương chứng khoán.( Hay noi cách khác nó là
Phương thức thiết lập kênh dẫn vốn trực tiếp giữa các nhà đầu tư là công chúng
với chính phủ và doanh nghiệp).
Nếu coi chứng khoán là hàng hóa vơi các đặc điểm đầy đủ của chúng.
Chứng khoán cần được “ sản xuất”, lưu thông và nhà “sản xuất”, tham gia “ lưu
thông” có nhu cầu đường nhiên là tạo thu nhập từ hoạt động của mình thông
qua TTCK. Nhưng để chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới các nhà
đầu tư đem lại hiệu quả thì không phải là việc dễ dàng. Như vậy, cần phải có
những tổ chức làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán trên thị trường.
Trên thị trường sơ cấp một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn
bằng cách phát hành chứng khoán thường họ không tự bán chứng khoán của
mình bởi lẽ các công việc trong quá trình phát hành như: xác định giá bán, số
lượng và thời điểm phát hành chứng khoán…nếu doanh nghiệp phát hành tự
tiến hành thì hiệu quả thường không cao, mất nhiều thời gian và quá tốn kém,
thậm chí còn gánh chịu hậu quả rủi ro về mặt tài chính và pháp lí. Nên cần nhờ
đến các chủ thể chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường chứng khoán tư vấn và
giúp họ phát hành chứng khoán thì những khó khăn trên sẽ được giải quyết và
chi phí cho những công việc này cũng giảm đi.
Trên thị trường sơ cấp: Chứng khoán cơ sự lưu thông của nhiều loại
chứng khoán của các ngành kinh tế. Mà chứng khoán là loại hàng hóa đạc biệt,
giá trị chứng khoán không được kết tinh vào kết cấu lí, hóa của bản thân nó mà
phụ thuộc vào tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Để đánh giá chính
xác giá trị thực của chứng khoán từ đó đưa ra quyết định đầu tư hợp lí thì người
đầu tư phải có thông tin đáng tin cậy và phải cập nhập thường xuyên về tình
hình kinh doanh của tổ chức phát hành thì đây là một công việc vượt qua khả
năng của nhà đầu tư bình thường. Trong khi đó, có tổ chức chuyên nghiệp cập
nhập, lưu trữ và xử lí các thông tin về tổ chức phát hành để cung cấp cho người
đầu tư bất cứ lúc nào mà họ cần. Hơn nữa, trong TTCK bao giờ cũng có người
cần mua, người cần bán chứng khoán nhưng họ không biết nhau. Nếu họ tự đi
đối tác thì rất mất thời gian, có khi còn bị ép giá. Cách tôt nhất họ ủy quyền cho
các tổ chức chuyên nghiệp thu thập các nguyện vọng kiểu này đó là những nhà
môi giới chứng khoán. Theo cách này , cơ hội gặp nhau của người mua và
người bán chứng khoán dễ dàng hơn mà thời gian, chi phí cho những giao dịch
này cũng thấp. Đối với người đầu tư chứng khoán khi mua bán chứng khoán
cuãng cần có sự giúp đỡ của những người môi giới đầu tư giàu kinh nghiệm để
không bị nhầm lẫn hoặc lừa gạt, dẫn đến rủi ro trong hoạt động đầu tư.
Tác động này được thể hiện trong các hoạt động của các chủ thể kinh
doanh chứng khoán như ngân hàng thương mại, công ty quản lĩ quỹ. Trong đó
điển hình nhất là hoạt động của công ty chứng khoán gồm những hoạt động
kinh như: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư
chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính khác. Với tư cách là một định
chế tài chính trung gian tham gia hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng
khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán
trên thị trường thứ cấp:
Trên thị trường sơ cấp: thì công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát
hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh
chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệp nghề
nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới
mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, công ty
chứng khoán thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu.
Còn trên thị trường thứ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà
đàu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong
môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có
tính thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn
rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ
môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho cácnhà
đầu tư giảm thiều thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
Hay nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông
qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM phát hành
trái phiếu chính là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu
tăng trưởng của nền kinh tế.
Hai là: Tác động làm thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động thông qua
đòn bẩy lợi ích kinh tế của các nhà kinh doanh chứng khoán chhuyên nghiệp.
Điều dễ hiểu là khi các nhà kinh doanh chứng khoán được lợi nhuận
nhiều hơn trong các hoạt động kinh doanh thì đương nhiên họ sẽ tham gia vào
thị trướng chứng khoán một cách tích cực hơn và ngược lại. Khoản lợi ích này
thực chất là sự chia sẻ giữa khách hàng với các nhà kinh doanh chứng khoán
thông qua con đường thương lượng bằng hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán. Loại hợp đồng này tỏ ra rất
có lợi cho tổ chức phát hành chứng khoán vì dường như họ không phải lo lắng
gì về nguy cơ thất bại của đợt phát hành chứng khoán. Tuy nhiên bù lại họ sẽ
phải trả một mức phí dịch vụ cao hơn cho tổ chức phát hành chuyên nghiệp, có
khả năng tài chính mạnh và có tham vọng chi phối đối với thị trường dịch vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Ba là: Tác động góp phần điều tiết và bình ổn giá trên TTCK.
Cung cấp các dịch vụ tư vấn cần thiết của các chủ thể kinh doanh góp
phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể:
Các chủ kinh doanh chứng khoán giúp cung cấp cơ chế xác định giá cho
các khoản đầu tư: các chủ thể kinh doanh chứng khoán thông qua Sở giao dịch
và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các nhà đầu tư
đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của mình.
Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các chủ thể kinh doanh chứng khoán thực hiện vai trò tạo cơ chế giá
chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức
giá phát hành hợp lý.
Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các công ty
chứng khoán được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng
khoán được xác định theo quy luật cung cầu.Ngoài ra, công ty chứng khoán còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán.
Bốn là : Hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán khiến cho dòng
vốn trên thị trường chứng khoán vận hành nhanh hơn, hiệu quả hơn .
Thông qua các nghiệp vụ như: Môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát
hành, tự doanh, quản lí doanh mục đầu tư hay tư vấn đầu tư chúng khoán góp
phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư: TTCK cũng tương tự như tất cả các
thị trường khác, để tiến hành giao dịch, người mua, người bán phải có cơ hội
gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên,
TTCK với những đặc trưng riêng của nó như người mua người bán có thể ở rất
xa nhau, hàng hóa là “vô hình”, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định chất
lượng, xác định giá cả thì phải mẩt rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho
một giao dịch dể phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… Công
chủ thể kinh doanh chứng khoán với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh
nghiệp nghề nghiệp sẽ thưc hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán,
giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch.
1.2. Tác động tiêu cực đối với thị trường chúng khoán.
Bên cạnh những tác động tích cực do hoạt động của các chủ thể kinh
doanh chúng khoán đối với TTCK thì nó còn đem lại những tác động xấu, kìm
hãm sự phát triển trên TTCK.
Vì mục tiêu lợi nhuận mà các hoạt động của chủ thể kinh doanh chứng
khoán đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng
xấu đến sự phát triển chung của TTCK, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư.
Có lẽ chưa bao giờ người ta nói nhiều đến chuyện rò rỉ thông tin, chuyện cạnh
tranh thiếu lành mạnh... của một bộ phận tham gia thị trường chứng khoán như
hiện nay. Rò rỉ thông tin được coi là một trong những vấn đề đạo đức nguy hại
nhất trên thị trường chứng khoán. Nó thường bắt nguồn từ những người có
trách nhiệm trong các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và cả nhân viên
làm việc trên sàn chứng khoán. Do vậy, một quy chuẩn đạo đức tin cậy cho thị
trường chứng khoán tại Việt Nam đang được giới đầu tư mong đợi. Bên cạnh
đó, không ít trường hợp người môi giới đã “lái” nhà đầu tư theo hướng có lợi
cho mình hoặc một nhóm người nào đó bằng những thông tin không đầy đủ.
Lãnh đạo một công ty chứng khoán cũng thừa nhận rằng, đã có công ty chứng
khoán vì mục đích lợi nhuận đã thổi phồng tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp lên để phát hành cổ phiếu giá cao. Sau đó bỏ mặc các nhà đầu tư với
những thua lỗ của doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu. Tính minh bạch của các
doanh nghiệp và cá nhân tham gia là sự sống còn của thị trường chứng khoán,
nhưng hiện nó đang bị coi nhẹ. cho biết cuộc chiến thầm lặng giữa các công ty
chứng khoán vẫn đang xảy ra với sự đôi co về phí dịch vụ môi giới, phí tổ chức
đấu giá... Theo quy định Nhà nước ban hành, phí môi giới chứng khoán là 0,5%
nhưng hiện nay, các công ty đã giảm xuống mức 0,4%; 0,3% và có công ty chỉ
còn 0,15%. Cũng chính do cách cạnh tranh bằng giảm phí nên chất lượng dịch
vụ chứng khoán không đảm bảo. Thêm vào đó, có công ty chứng khoán gặp
phải trường hợp cán bộ của mình sau khi bị kéo sang công ty khác đã tiết lộ
thông tin nội bộ của doanh nghiệp cho đối thủ cạnh tranh.
Không ít nhà đầu tư đã tạo mối thân quen với những người nắm giữ thông tin
để mua hoặc hợp tác làm ăn. Khi giao dịch nội gián có đất sống thì cũng có
nghĩa công tác giám sát quá yếu. Việc quản lý yếu kém đồng nghĩa với tạo cơ
hội ăn cắp cho những người làm việc trong môi trường ấy. Hậu quả là những
doanh nghiệp trung thực, chân chính mất cơ hội phát triển. Từ đó ảnh hưởng tới
sự phát triển TTCK nước ta.
2. Tác động trở lai của TTCK với các chủ thể kinh doanh chứng khoán
Khi tìm hiểu sự tác động trở lại của TTCK với các chủ thể kinh doanh
chứng khoán thì trước hết ta nhìn lại Về quá trình xây dựng và phát triển thị
trường chứng khoán ở nước ta.
Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên 100
công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung
tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ
thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường
chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty kinh doanh chứng khoán
đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với đa dạng các
nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán
chứng khoán... Hầu hết các công ty này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số
công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát
hành mới tăng thêm vốn điều lệ.
NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu
của NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều
NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã
có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này.
Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã
giao dịch đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh
giá cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến
2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều ngân
hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc
tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công nghệ
ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ
phần.
Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt
Nam đang triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát
hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào
khoảng 1.000 tỷ đồng.
Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và
niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao
dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng
sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị
được cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch
chứng khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Như vậy, Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một
kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của
đất nước và đem lại nhiều lợi nhuận cho các chủ thể kinh chúng khoán. Và từ
khi TTCK Việt nam ra đời đã chứng minh được tầm vai trò quan trọng của
mình đối với các hoạt động của chủ thể kinh doanh chứng khoán, đó là:
- Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của
doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích
áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
- TTCK gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. đây là mảnh đất để cho
các chủ thể kinh doanh chúng khoán thu được nhiều lợi nhuận.
- Cung cầu trên TTCK phát triển khi có nguồn hàng hóa phong phú, đa dang và
có đông đảo chủ thể kinh doanh tham gia.
-Cơ sở hạ tầng thị trường: bao gồm hệ thống thông tin thị trường, hệ thống giao
dịch, hệ thốn lưu kí, thanh toán bù trừ ….Thị trường cơ sở hạ tầng tiên tiến và
đồng bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch, giảm thiểu rủi
ro hệ thống. Tất cả các hoạt động trên TTCK đều được công khai hóa thông tin
về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường , tình hình tài
chính, kết quả kinh doanh của các công ty, số lượng chứng khoán và giá cả đều
được niêm yết trên TTCK. Thông qua thị trường này mà các chủ thể kinh doanh
có sự phân tích chính xác giúp cho các nhà đầu tư ít rủi ro hơn.
- Sự hiểu biết của công chúng về TTCK: TTCK là thị trường bậc cao, nếu các
chủ thể tham gia không am hiểu kiến thức cơ bản TTCK thì đãn đến rủi ro. Thị
trường sẽ thực sự năng động, hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu biết về chứng
khoán và TTCK. Vì vậy, sự am hiểu về TTCK cũng là một trong những nhân tố
ảnh hưởng tới hoạt động của các chủ thể kinh doanh.
- Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh
khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu
tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt
động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán
giao dịch trên thị trường càng cao. Do vậy giúp cho các hoạt động của chủ thể
kinh doanh chứng khoán được hiệu quả hơn.
C.KẾT BÀI
Qua sự phân tích trên ta thấy rõ sự tác động qua lại giữa hoạt động của các chủ
thể kinh doanh chứng khoán với sự phát triển TTCK ở Viêt nam. Nhận thức
được tâm quân trọng của các hoạt động kinh doanh chứng khoán nhà nước cần
ban hành những chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động này hơn nữa, nhằm
thúc đẩy, sôi động TTCK Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán 2008, trường đại học luật Hà nội, nxb công
an nhân dân.
2. Luật kinh doanh chứng khoán.
3.