Thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của các chủ thể
kinh doanh chứng khoán hiện nay – đánh giá và nhận xét.
BÀI LÀM:
A – Đặt vấn đề:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán mang rất nhiều nét đặc thù. Điều này
có thể nhận thấy ở cả nội dung kinh doanh, chủ thể kinh doanh và những yếu tố
có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh chứng khoán có
tác động to lớn đối với hoạt động kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán
nói riêng. Do vậy, việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh
chứng khoán nhằm định hường cho hoạt động này phát triển phù hợp với các
quy luật kinh tế, phù hợp với mục tiêu quản lý của Nhà nước là điều cần thiết và
rất hữu ích. Hơn nữa, việc áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của các
chủ thể có liên quan cũng là một yếu tố quan trọng để thị trường chứng khoán
vận hành một cách có hiệu quả.
B – Giải quyết vấn đề:
I – Khái niệm kinh doanh chứng khoán và pháp luật kinh doanh
chứng khoán:
1. Khái niệm kinh doanh chứng khoán:
1.1. Khái niệm kinh doanh chứng khoán:
Khoản 19 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)
quy định: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý
danh mục đầu tư chứng khoán”.
1.2. Đặc điểm kinh doanh chứng khoán:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán có các đặc điểm:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh chứng khoán được hiểu là hoạt động
kinh doanh có điều kiện. Tính điều kiện ở đây được phản ánh ở cả đối tượng
giao dịch là chứng khoán và điều kiện đối với chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này nhất thiết phải thỏa mãn một số
điều kiện rất khắt khe về mặt tài chính (vốn tự có ban đầu khi thành lập) cũng
như về mặt pháp lý (tư cách pháp nhân của công ty và tư cách pháp lý của những
thành viên góp vốn vào công ty), thậm chí kể cả những điều kiện về cơ sở vật
chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc quy định
các điều kiện thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là nhằm
đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả và đặc biệt là
bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các
chứng khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Đây là những
hang hóa và dịch vụ đặc biệt được giao dịch trên thị trường đặc biệt – thị trường
1
chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế pháp lý đặc biệt do pháp
luật về chứng khoán quy định
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên
tắc đặc thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc công bằng,
công khai, minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Việc thể
chế hóa bằng pháp luật những nguyên tắc này là những bảo đảm pháp lý cho sự
vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ một
cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
1.3. Các hình thức hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Mặc dù hoạt động kinh doanh chứng khoán có thể được hiểu rộng hẹp ở
các quốc gia khác nhau, nhưng nói chung đều thể hiện các hình thức kinh doanh
chủ yếu sau:
- Hoạt động bảo lãnh phát hành;
- Hoạt động môi giới chứng khoán;
- Hoạt động tự doanh chứng khoán;
- Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán;
- Hoạt động quản lý danh mục đầu tư;
- Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.
2. Khái niệm pháp luật kinh doanh chứng khoán:
Trên cơ sở nhận biết về đối tượng điều chỉnh là hoạt động kinh doanh
chứng khoán, có thể đưa ra khái niệm pháp luật kinh doanh chứng khoán là tập
hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các
quan hệ phát sinh gắn với bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư.
II – Các quy định của pháp luật hiện hành về kinh doanh chứng
khoán:
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định kinh doanh chứng khoán bao
gồm các hoạt động sau:
- Môi giới chứng khoán;
- Tự doanh chứng khoán;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
- Tư vấn đầu tư chứng khoán;
- Lưu ký chứng khoán;
- Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán;
- Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
1. Hoạt động môi giới chứng khoán:
Môi giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng
khoán cho khách hàng (Khoản 20 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006)
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật quy định công ty chứng khoán là chủ thể
được phép thực hiện hoạt động này. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Quy chế
tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán (Ban hành kèm theo Quyết định
số 27/2007/QĐ – BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) thì:
2
“Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh
doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: Môi giới
chứng khoán; tự doanh chứng khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn
đầu tư chứng khoán”. Như vậy, có thể thấy công ty chứng khoán là chủ thể quan
trọng trong kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán thực hiện hầu hết các
hoạt động kinh doanh chứng khoán được pháp luật chứng khoán Việt Nam quy
định. Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư. Công ty chứng khoán
được thực hiện một số hoạt động kinh doanh: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát
hành, tư vấn đầu tư, nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán…
(Điều 60)
2. Tự doanh chứng khoán:
Khoản 21 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định: Tự doanh chứng
khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình.
Đây cũng là một nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán được pháp luật
quy định.Cùng với các hoạt động kinh doanh chứng khoán khác, công ty chứng
khoán phải thỏa mãn các điều kiện nhất định mới có thể tiến hành hoạt động tự
doanh chứng khoán. Những điều kiện này cũng được quy định tương tự như đối
với các loại hình hoạt động kinh doanh chứng khoán khác, ngoại trừ điều kiện về
mức vốn pháp định tối thiểu phải là 100 tỉ đồng Việt Nam. Ngoài ra, do hoạt
động tự doanh chứng khoán thường có xung đột lợi ích với hoạt động môi giới
chứng khoán nên pháp luật quy định các công ty chứng khoán phải tổ chức thực
hiện hai nghiệp vụ riêng biệt ở hai bộ phận khác nhau đồng thời quản lý tách
bạch tài sản của khách hang với tài sản của công ty chứng khoán và ưu tiên thực
hiện lệnh của khách hang trước lệnh của mình tại sàn giao dịch.
3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán:
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật quy định công ty chứng khoán là chủ thể
được thực hiện hoạt động kinh doanh này.
Luật chứng khoán Việt Nam 2006 quy định tổ chức bảo lãnh phát hành
chứng khoán chính là công ty chứng khoán, ngoại trừ trường hợp ngân hang
thương mại được UBCKNN chấp thuận cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định.
Về nguyên tắc, do hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có bản chất
là dịch vụ thương mại nên chủ thể tiến hành hoạt động này thường phải thỏa mãn
một số điều kiện theo quy định của pháp luật nhằm giúp chính quyền kiểm soát
tốt hơn đối với hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh chứng khoán
và thông qua đó nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia thị trường như
các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành chứng khoán.
Theo thông lệ, các điều kiện đối với chủ thể kinh doanh nghiệp vụ bảo
lãnh phát hành chứng khoán bao gồm:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Theo
quy định của Luật chứng khoán Việt Nam năm 2006 thì giấy phép này đồng thời
được công nhận là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành chứng khoán,
3
trong đó ghi rõ các loại hình nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán theo đăng ký
của tổ chức kinh doanh chứng khoán.
- Có người đại diện hợp pháp đủ năng lực và thẩm quyền để xác lập giao
dịch bảo lãnh phát hành chứng khoán. Theo quy định của Bộ luật dân sự, người
đại diện hợp pháp của tổ chức kinh doanh chứng khoán được hiểu bao gồm
người đại diện theo pháp luật (thông thường đó là người đứng đầu tổ chức, trừ
khi điều lệ của tổ chức đó có quy định khác) và người đại diện theo ủy quyền
(tức là người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền hợp lệ). trong thực
tiễn giao dịch kinh doanh chứng khoán nói chung và giao dịch bảo lãnh phát
hành chứng khoán nói riêng, bên đối tác của tổ chức kinh doanh chứng khoán
thường yêu cầu tổ chức này phải chứng minh rõ ràng về tư cách chủ thể thì mới
đồng ý giao dịch. Yêu cầu này là hoàn toàn chính đáng và hợp lý, bởi lẽ, họ
muốn tránh cho mình khỏi những rủi ro pháp lý không đáng có trong quá trình
giao dịch
4. Tư vấn đầu tư chứng khoán:
Khoản 23 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định: Tư vấn đầu tư chứng
khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích,
công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán. Hoạt
động tư vấn đầu tư chứng khoán được thực hiện bởi chủ thể chủ yếu và thường
xuyên là các công ty chứng khoán. Để tiến hành nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng
khoán, các công ty chứng khoán cũng phải thỏa mãn một số điều kiện cơ bản
chung giống như đối với các trường hợp tiến hành nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán khác, điều kiện về mức vốn pháp định cho nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng
khoán là 10 tỷ đồng chỉ là điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt
động đối với công ty chứng khoán nhưng điều kiện này cũng gián tiếp bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư khi họ sử dụng dịch vụ tư vấn của công ty chứng
khoán.
5. Lưu ký chứng khoán:
Theo quy định của Luật Chứng khoán năm 2006: “Lưu ký chứng khoán
là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hang, giúp
khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán”. Ở Việt
Nam hiện nay, pháp luật quy định Trung tâm lưu ký chứng khoán có chức năng
tổ chức và hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Trung
tâm lưu ký chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động đăng ký,
lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Trung tâm lưu ký chứng khoán được
Thủ tướng chính phủ quyết định việc thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ
chức, hình thức sở hữu (Điều 42). Theo quy định của pháp luật hiện hành, các
chủ thể được cung cấp hoạt động lưu ký chứng khoán phải là thành viên của
Trung tâm lưu ký chứng khoán. Thành viên của Trung tâm lưu ký chứng khoán
bao gồm: Các thành viên lưu ký là công ty chứng khoán và ngân hang thương
mại; các thành viên mở tài khoản trực tiếp bao gồm Ngân hang Nhà nước, Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, các tổ chức tín dụng (trừ các ngân
4
hang thương mại là thành viên lưu ký) và các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia
thị trường trái phiếu do sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch
chứng khoán tổ chức, trung tâm lưu ký các quốc gia khác và các đối tượng khác
theo quy định của Trung tâm lưu ký chứng khoán phù hợp với quy định của pháp
luật.
6. Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 27 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định:
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục
đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư
khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hang
ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.Công ty quản lý quỹ là doanh
nghiệp theo mô hình công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, được
thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt động
kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là hoạt
động kinh doanh chính của công ty quản lý quỹ.
7. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán:
Công ty quản lý quỹ đầu tư được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh:
Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Bên
cạnh hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ còn được
phép tiến hành hoạt động quản lý danh mục đầu tư do các nhà đầu tư riêng lẻ ủy
thác cho công ty. Để thực hiện hoạt động quản lý danh mục đầu tư, công ty quản
lý quỹ và nhà đầu tư phải giao kết hợp đồng quản lý đầu tư. Hợp đồng quản lý
đầu tư là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa công ty quản lý quỹ và nhà đầu tư,
theo đó nhà đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ thực hiện việc đầu tư chứng
khoán bằng tài sản của chính nhà đầu tư, phù hợp với chiến lược đầu tư đã thỏa
thuận.
III – Đánh giá và nhận xét thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán hiện nay:
Kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, được đặt trong
hành lang pháp lý chặt chẽ. Các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh này
phải thỏa mãn những điều kiện khắt khe về mặt tài chính, tư cách pháp lý, thậm
chí cả những điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh
doanh chứng khoán, và cả những hạn chế hoạt động mà pháp luật quy định để
đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trên thị trường.
Theo phân tích ở trên thì hoạt động kinh doanh chứng khoán gồm các chủ
thể: Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư. Riêng đối với Công ty
đầu tư chứng khoán thì hiện nay mặc dù pháp luật có quy định nhưng trên thực
tế thì loại hình này chưa xuất hiện. Theo quy định tại khoản 1 điều 6 Luật chứng
khoán: công ty đâu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005
Công ty đầu tư chứng khoán phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một doanh
5
nghiệp, trong đó có nghĩa vụ “kê khai thuế, nộp thuế”. Công ty đầu tư chứng
khoán là hình thức đầu tư tập thể có tư cách pháp nhân đầu tiên được thừa nhận
trong Luật Chứng khoán và đến thời điểm này vẫn chưa có một Công ty đầu tư
chứng khoán Việt Nam nào được thành lập. Trong khi đó, Nhà nước chưa có
chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với loại hình công
ty này. Điều đó không khuyến khích việc thành lập công ty đầu tư chứng khoán.
Đồng thời nhà đầu tư ít có cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư cho mình. Đồng thời
pháp luật cũng quy định quyền của nhà đâu tư góp vốn váo Công ty đầu tư
chứng khoán không khác mấy so với quyền của cổ đông trong công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán. Nhưng quỹ đại chúng lại từng được áp dụng chính sách
ưu đãi thuế. Với chính sách này, số lượng quỹ đàu tư chứng khoán (cả Việt Nam
và nước ngoài) được thành lập ở Việt Nam tăng lên đáng kể. Trong khi đó nghĩa
vụ thuế là bắt buộc với Công ty đầu tư chứng khoán lại không có bất kỳ một ưu
đãi nào. Nếu không có chế độ ưu đãi thuế cho công ty đầu tư chứng khoán sẽ
không khuyến khích việc thành lập công ty đầu tư chứng khoán đồng thời hạn
chế cơ hội lựa chọn hình thức đâu tư của nhà đầu tư nên các nhà đau tư không
mặn mà với loại hình công ty này.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tổ chức, cá nhân muốn thực hiện
hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập Công ty chứng khoán và được
UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Để có thể thành lập và hoạt
động một cách hợp pháp, Công ty chứng khoán phải thỏa man các điều kiện luật
định như điều kiện về hình thức pháp lý, điều kiện về vốn pháp định, điều kiện
về nhân sự, điều kiện về cơ sở vật chất
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có hơn 1000 công ty đại
chúng, gần 700 công ty niêm yết, 105 công ty chứng khoán, 47 công ty quản lý
quỹ và đặc biệt là hơn một triệu tài khoản của nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài tham gia thị trường chứng khoán.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, các vi phạm trên thị
trường chứng khoán cũng diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, đặc biệt là các
vi phạm rất dễ nảy sinh trong bối cảnh kinh tế và thị trường đang gặp nhiều khó
khăn.
Trong năm 2011, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã ban hành 164 quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức và cá nhân với tổng số tiền
thu nộp về ngân sách gần 11 tỷ đồng. Trong đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước
đã xử lý 63 trường hợp vi phạm các quy định về chào bán chứng khoán ra công
chúng, chế độ báo cáo và công bố thông tin; xử lý 9 cá nhân có hành vi giao dịch
giả tạo, thao túng thị trường. Ngoài ra, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng đã
xử lý 47 trường hợp có hành vi thực hiện giao dịch chứng khoán không báo cáo
của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết; 11 trường hợp vi phạm quy định về chế
độ báo cáo và công bố thông tin của công ty chứng khoán, công tu quản lý quỹ.
6
Những số liệu nêu trên đã cho thấy phần nào thực trạng áp dụng pháp
luật chứng khoán của các chủ thể, trong đó có chủ thể kinh doanh chứng khoán
ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, nổi lên những vấn đề sau:
Hiện nay, có quá nhiều công ty chứng khoán (105 công ty) đang hoạt
động dẫn đến chất lượng công ty kém, nguồn nhân lực bị phân tán, cạnh tranh
không lành mạnh. Chỉ có số ít công ty hoạt động đầy đủ chức năng của một công
ty chứng khoán (tư vấn, bảo lãnh phát hành…), còn đa số chủ yếu tập trung
mảng môi giới, tư vấn. Để thu hút nhà đầu tư, các công ty sẵn sàng cho vay gấp
5 lần vốn tự có. Tỷ lệ cho vay này không cố định mà thường xuyên thay đổi theo
độ nóng lạnh của thị trường, vô hình trung đã biến chứng khoán thành song bạc.
Hậu quả tất yếu là nhà đầu tư bám sàn thua lỗ, mất vốn, nhiều công ty chứng
khoán thua lỗ đối diện nguy cơ phá sản.
Một trong những quy định của pháp luật kinh doanh chứng khoán hiện
hành mà các công ty chứng khoán thường không tuân thủ nghiêm ngặt, đó là quy
định về việc tách bạch tiền của nhà đầu tư và tiền của công ty. Điều này đã vi
phạm quy định tại Khoản 2 Điều 71 Luật chứng khoán 2006 và Điểm a Khoản 1
Điều 32 Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm
theo Quyết định số 27/2007/QĐ – BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính về quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng:
“1. Quản lý tiền của khách hang:
a) Công ty chứng khoán phải quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của
khách hang tách biệt khỏi tiền của chính công ty chứng khoán. Công ty chứng
khoán không được trực tiếp nhận tiền giao dịch chứng khoán của khách hang.”
Trong thời gian vừa qua, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã tiến hành
một số hoạt động kiểm tra, thanh tra trên thị trường. Kết quả là hầu như các công
ty chứng khoán bị kiểm tra đều có những vi phạm về nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán. Ví dụ như trong năm 2007, sai phạm của công ty chứng khoán
ngân hang ngoại thương (VCBS) về quy trình nhận lệnh khách hang và quy định
về ưu tiên nhận lệnh khách hang trước lệnh tự doanh khi thanh tra lần đầu.
VCBS tiếp tục bị phát hiện có vi phạm trong quản lý tiền, chứng khoán của
khách hang, công ty và chế độ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán
trong lần kiểm tra sau. Sau VBSC là công ty chứng khoán Ngân hang Á Châu
(ACBS) và công ty chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSC). Theo kết luận
của UBCKNN, ACBS vi phạm quy định về cầm cố chứng khoán, bên cạnh đó
còn có thiếu sót như chưa có đầy đủ hệ thống sổ sách phản ánh các nghiệp vụ lưu
ký, cầm cố, thanh toán bù trừ, chuyển khoản chứng khoán. Một số chứng từ về
lưu ký, cầm cố chứng khoán chưa được ACBS hạch toán kịp thời, dẫn đến số
liệu tại ACBS bị lệch so với số liệu của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. HSC
cũng có một số thiếu sót tương tự như chưa có đầy đủ hệ thống sổ sách phản ánh
các nghiệp vụ lưu ký, cầm cố, thanh toán bù trừ, chuyển khoản chứng khoán;
chưa xây dựng quy trình thanh toán bù trừ chứng khoán và tiền cho nhà đầu tư;
quy trình tất toán tài khoản cho nhà đầu tư; một số chứng từ về lưu ký, cầm cố
7
chứng khoán chưa được hạch toán kịp thời hoặc ngày hạch toán không trùng với
ngày hạch toán tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, dẫn đến số liệu tại HSC bị
lệch so với số liệu tại Trung tâm. Bên cạnh đó, còn khá nhiều sai phạm tương tự
của một số công ty chứng khoán khác. Từ kết quả thanh tra của UBCKNN, có
thể thấy rằng hoạt động của các công ty chứng khoán nói riêng và của thị trường
chứng khoán nói chung vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề đòi hỏi sự kiểm soát của
Nhà nước. Có thể nhận thấy rõ các hành vi nói trên là vi phạm pháp luật về
chứng khoán và xâm phạm nghiêm trong đến quyền lợi nhà đầu tư. Trong khi kết
quả kiểm tra trên mới chỉ làm dịu đi nỗi bức xúc của rất nhiều nhà đầu tư vì tình
trang hoạt động của công ty chứng khoán hiện nay thì chính những vi phạm này
đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự kém an toàn, thiếu minh bạch của thị
trường chứng khoán và sự quản lý, điều hành kém hiệu quả của các cơ quan có
thẩm quyền. Đặc biệt là những phản ánh về việc đặt lệnh ở công ty chứng khoán
không đảm bảo công bằng về thứ tự ưu tiên về thời gian, ảnh hưởng nghiêm
trọng và trực tiếp đến quyền lợi của nhà đầu tư
Mô hình công ty đầu tư chứng khoán được quy định tại Điều 96 và 97
Luật Chứng khoán 2006. Đây là những điều khoản trực tiếp quy định về công ty
đầu tư chứng khoán nằm trong Mục 3 của Chương VII. Tuy nhiên, những điều
khoản này cũng dẫn chiếu đến một số điều khoản khác để quy định về quyền và
nghĩa vụ của công ty đầu tư chứng khoán. Những nội dung pháp lý cơ bản về
công ty đầu tư chứng khoán là Luật Chứng khoán 2006 có quy định là:
- Luật Chứng khoán xác định công ty đầu tư chứng khoán là công ty cổ
phần, do UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Công ty đầu tư chứng
khoán phải tuân thủ nghĩa vụ tương tự như quy định với công ty đại chúng.
- Luật Chứng khoán dành cho Chính phủ quyền quy định cụ thể về tổ
chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán.
- Luật Chứng khoán quy định công ty đầu tư chứng khoán chịu những
hạn chế đầu tư giống như quỹ đại chúng.
Như vậy, có thể thấy những quy định về công ty đầu tư chứng khoán
trong Luật Chứng khoán 2006 còn thiếu cụ thể. Về bản chất, công ty đầu tư
chứng khoán là một dạng quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức
doanh nghiệp, bên cạnh đó, lĩnh vực đầu tư chứng khoán là lĩnh vực rất đặc thù
nên nhất thiết phải được điều chỉnh trước tiên và trên hết bởi Luật chứng khoán.
Khoản 3 Điều 21 Luật Chứng khoán 2006 quy định:
“3. Tiền mua chứng khoán phải được chuyển vào tài khoản phong tỏa
mở tại ngân hang cho đến khi hoàn tất đợt chào bán và báo cáo UBCKNN”.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều công ty chứng khoán đã không tuân thủ quy
định này. Điển hình như ngày 16/1/2012, UBCKNN ban hành Quyết định số
72/QĐ – UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex (Pjico). Theo văn bản số 1066/Pjico ngày 5/7/2011 của Công ty bảo
hiểm Petrolimex về việc giải trình báo cáo kết quả phát hành cổ phiếu ra công
chúng, công ty đã xác nhân số tiền mặt cổ đông nộp tại công ty không chuyển
8
vào tài khoản phong tỏa là 1.562.580.000 đồng. Như vậy, Pjico đã không chuyển
hết tiền mua cổ phiếu của cổ đông trong đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng
nêu trên vào tài khoản phong tỏa tại ngân hang là vi phạm quy định tại Khoản 3
Điều 21 Luật Chứng khoán.
Một ví dụ khác là ngày 12/1/2012, UBCKNN ban hành Quyết định số
38/QĐ – UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với Agriseco – Công ty cổ phần
chứng khoán nông nghiệp và phát triển nông thôn do công ty này đã có các hành
vi sau đây:
- Không lưu trữ đầy đủ bằng chứng chứng minh về việc đặt lệnh của
khách hang, vi phạm quy định tại Khoản 3 và Khoản 8 Điều 33 Quy chế tổ chức
và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định 27/2007/
QĐ – BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính;
- Chưa thực hiện đóng của một số đại lý nhận lệnh, vi phạm quy định tại
Khoản 9 Điều 1 và Điều 2 Quyết định số 126/2008/QĐ – BTC ngày 26/12/2008
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty
chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 27/2007/QĐ – BTC;
- Không thực hiện báo cáo theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 6 Điều
11 Thông tư số 74/2011/TT – BTC ngày 1/6/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn
về giao dịch chứng khoán và Điều 3 Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng
khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ – UBCK ngày 30/8/2011 của
UBCKNN và không thực hiện báo cáo theo yêu cầu nêu tại Công văn só
2787/UBCK – QLKD ngày 30/8/2011 của UBCKNN
Thông qua những ví dụ trên, có thể thấy tình trạng các công ty chứng
khoán chưa tuân thủ các quy định của pháp luật là khá phổ biến. Đa phần là các
vi phạm trong việc không thực hiện báo cáo theo quy định của pháp luật, không
lưu trữ đầy đủ bằng chứng chứng minh về việc đặt lệnh của khách hang; chưa
thực hiện đóng cửa một số đại lý nhận lệnh…Những hành vi này của các công ty
chứng khoán đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hang,
gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền, ảnh
hưởng xấu đến thị trường chứng khoán.
Mặt khác, các hành vi vi phạm của các công ty chứng khoán chưa bị xử
phạt một cách nghiêm khắc và chưa triệt để. Các hành vi hầu hết đều chỉ bị xử
phạt vi phạm hành chính với mức xử phạt hạn chế, chưa đủ sức răn đe nên các
công ty chứng khoán có thể thực hiện các hành vi khác vơi mức độ tinh vi và
phức tạp hơn trước.
Thị trường chứng khoán là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn, có tác
động tích cực đến nền kinh tế. Nó có những ưu điểm hơn so với việc các doanh
nghiệp vay vốn từ các ngân hang thương mại do nguồn vốn vay từ các ngân hang
thương mại mang tính chất ngắn hạn, và nguồn vốn thường không lớn. Do ưu
điểm như vậy, nên thị trường chứng khoán rất được quan tâm ở các nước trên thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, thị trường chứng khoán thời gian qua đã xảy ra tình
trạng bị các ngân hang thương mại lấn sân. Điều này làm cho việc tách bạch giữa
9
vốn tín dụng và vốn thông qua thị trường chứng khoán do có một số công ty
chứng khoán nằm trong lòng các ngân hang thương mại. Điều này khiến cho thị
trường chứng khoán trở nên khó kiểm soát và trở nên méo mó.
Một vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động kinh doanh chứng khoán
đó là hiện nay, khi các nhà đầu tư đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán thì họ
không được biết các thông tin liên quan đến quỹ này. Đây là điều rất bất lợi cho
các nhà đầu tư và các công ty quản lý quỹcũng dễ có khả năng lợi dụng việc
không công bố thông tin để trục lợi, sử dụng nguồn vốn từ quỹ đầu tư chứng
khoán kém hiệu quả.
Trong thực tế, khi các nhà đầu tư tiến hành mua cổ phần thì họ phải thực
hiện lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán; sau đó Trung tâm lưu ký
chứng khoán thông qua các công ty chứng khoán này lưu ký tổng số cổ phần mà
các nhà đầu tư đã mua. Do đó, bản thân Trung tâm lưu ký chứng khoán không
thể nắm được số lượng cổ phần của từng nhà đầu tư. Với tư cách là trung gian
giữa nhà đầu tư với Trung tâm lưu ký chứng khoán thì công ty chứng khoán có
thể lợi dụng kẻ hở này để trục lợi. Ở một số nước trên thế giới, việc lưu ký của
cơ quan có chức năng lưu ký được thực hiện với mỗi nhà đầu tư nên khó có thể
xảy ra tình trạng trục lợi của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán ở
đây không giữ vai trò trung gian.
IV – Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật:
Về việc hoàn thiện các quy định đối với hoạt động môi giới của những
người hành nghề tự do. Hiện nay, việc các nhà môi giới chứng khoán hành nghề
tự do trên thị trường chứng khoán hiện nay vẫn đang tồn tại và có xu hướng tăng
lên. Một khi cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động này còn thiếu sót thì rủi ro đối
với những nhà đầu tư thiếu hiểu biết, sử dụng dịch vụ do những nhà môi giới này
cung cấp là rất lớn. Muốn đảm bảo các hoạt động trên thị trường chứng khoán
diễn ra công khai, minh bạch, an toàn, bảo vệ quyền lợi và niềm tin của nhà đầu
tư thì yêu cầu điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động môi giới tự do là cần thiết.
Mặ dù đã có những quy định pháp lý điều chỉnh (các quy định về xử lý vi phạm
hành chính đối với những cá nhân hành nghề tự do hoặc hành nghề khi không có
chứng chỉ hành nghề) nhưng tính thực thi và hiệu quả của những quy định này
còn thấp. Do hoạt động này chủ yếu diễn ra trên thị trường tự do nên khó có các
biện pháp nhằm chấm dứt triệt để. Vì vậy, giải pháp hữu hiệu là đặt hoạt động
này trong một hành lang pháp lý chặt chẽ.
Về hoàn thiện quy định điều chỉnh nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, thực
tế xử phạt vi phạm cho thấy các công ty chứng khoán thường không thủ những
quy định về quản lý tài khoản của khách hang, thiết lập hệ thống kiểm soát nội
bộ nhằm ngăn ngừa, xung đột lợi ích, thực hiện lệnh của mình trước lệnh của
khách hang…khiến nhà đầu tư có thể mất đi khoản lợi ích có thể được hưởng.
Để hạn chế tình trạng này, cần phải sửa đổi, bổ sung them các quy định nhằm
ngăn ngừa xung đột lợi ích giữa hoạt động tự doanh với các hoạt động kinh
doanh chứng khoán khác của công ty chứng khoán
10
Hoàn thiên các quy định về việc sử dụng các đòn bẩy tài chính như bán
khống, cho vay cầm cố chứng khoán…Bán khống, cho vay cầm cố chứng khoán,
…đang là những công cụ thu hút khách hang hiệu quả của công ty chứng khoán.
Tuy nhiên, việc sử dụng các đòn bẩy tài chính này nếu không cẩn thận sẽ rất có
khả năng đem lại rủi ro lớn cho công ty chứng khoán và hoạt động của thị trường
chứng khoán. Trong khi pháp luật chưa có quy định cụ thể về các nghiệp vụ này,
nhận thức của nhà đầu tư và công ty chứng khoán còn hạn chế, trong điều kiện
thị trường thường xuyên biến động như hiện nay thì nguy cơ rủi ro là rất lớn. Vì
vậy, để hạn chế rủi ro, cần sớm có các quy định cụ thể hướng dẫn những nghiệp
vụ này. Đối với vấn đề bán khống nên sửa đổi quy định của pháp luật theo
hướng thống nhất: hoặc là cấm tuyệt đối và có các biện pháp xử lý nghiêm khắc
đối với những công ty chứng khoán thực hiện bán khống để chấm dứt triệt để ,
hoặc là cho phép thực hiện nhưng phải có những quy định hướng dẫn cụ thể về
điều kiện thực hiện, tỷ lệ bán khống cho phép nhằm đảm bảo an toàn cho công ty
chứng khoán. Đối với các nghiệp vụ được phép thực hiện như cho vay cầm cố
chứng khoán, phải ban hành các quy định về tỷ lệ cụ thể để thực hiện. Việc ban
hành các quy định này không chỉ góp phần hạn chế rủi ro cho công ty chứng
khoán, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty chứng khoán, mà
còn thúc đẩy sự phát triển của thị trường theo hướng minh bạch, an toàn và bền
vững.
Hoàn thiện quy định về nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, pháp luật hiện
hành chỉ cho phép nhà đầu tư mở một tài khoản lưu ký chứng khoán và thực hiện
mọi bút toán thanh toán qua tài khoản này. Quy định này dẫn đến thực tế là
nhiều nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch “chui” hoặc sử dụng tên người khác để
hoạt động giao dịch khiến cho việc quản lý, giám sát giao dịch , bảo đảm tính
công khai, công bằng, minh bạch của thị trường chứng khoán gặp khó khăn,…
Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm sự sự công bằng giữa các nhà đầu tư, tạo điều kiện
cho nhà đầu tư so sánh và lựa chọn những dịch vụ tốt nhất từ các công ty chứng
khoán nên cho phép nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản giao dịch tại các công
ty chứng khoán khác nhau, vừa hạn chế tinh trạng mở tài khoản ngầm khó kiểm
soát, vừa phù hợp với thông lệ của thị trường chứng khoán quốc tế. Để tránh
lũng đoạn thị trường như các nhà làm luật lo ngại thì việc nâng cao chất lượng
quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng có ý nghĩa quan trọng hơn nhằm
đảm bảo các giao dịch trên thị trường trong khuôn khổ an toàn.
Pháp luật kinh doanh chứng khoán cần tăng cường các biện pháp xử lý vi
phạm pháp luật của các chủ thể kinh doanh. Các biện pháp này cần được tăng
cường theo hướng nghiêm khắc và triệt để hơn.
C – Kết thúc vấn đề:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán ra đời là một tất yếu khách quan khi
thị trường chứng khoán đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Điều đó đòi
hỏi phải có những quy định cụ thể của pháp luật để đưa hoạt động kinh doanh
chứng khoán đi vào quỹ đạo, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
11
kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật kinh doanh chứng
khoán một cách nghiêm chỉnh cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy thị trường bất
động sản nước ta phát triển, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh và qua đó góp
phần phát triển kinh tế đất nước.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Luật chứng khoán năm 2006
2.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số
62/2010/QH12.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
4. Th.S. Vũ Văn Cương, “Một số vấn đề pháp lí về công ti chứng khoán
theo luật chứng khoán”, Tạp chí luật học, số 8/2006.
5. Th.S. Trần Vũ Hải, “Một số vấn đề pháp lí về công ti đầu tư chứng
khoán”, Tạp chí luật học, số 8/2006.
6. TS. Phạm Thị Giang Thu, Một số vấn đề về pháp luật chứng khoán và
thị trường chứng khoán, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
7. www.ssc.gov.vn
13