MỞ ĐẦU
Theo quy định của Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm
vụ, quyền hạn đặc biệt: “Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội”; “trong thời gian Quốc hội không họp, phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo
với Quốc hội tại kì họp gần nhất của Quốc hội.” (Điều 91 Hiến pháp 1992).
Trong thực tế, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thể hiện vai trò quan trọng của
mình trong bộ máy Nhà nước. Ý thức được vai trò, vị trí của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, nhóm B2 đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội – thực trạng và giải pháp”.
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam (Điều 83 Hiến pháp 1992). Các cơ quan của Quốc hội gồm
có Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Trong đó Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng của Quốc hội.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) là cơ cấu có sức mạnh và quyền
điều hành cũng như quyết định các vấn đề, chính sách của Quốc hội. Điều 90
Hiến pháp Việt Nam (1992) quy định: “UBTVQH là cơ quan thường trực của
Quốc hội”.
Nhiệm vụ quyền hạn của UBTVQH được quy định trong điều 91 Hiến pháp
1992 và cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Quốc hội. Về thực chất, trong thời gian
Quốc hội không họp, UBTVQH chính là cơ cấu có quyền hành rất lớn. Một số
người cho rằng, so với toàn thể Quốc hội thì sức mạnh của Thường vụ Quốc hội
chỉ bị khiếm khuyết một điểm: “cơ cấu này không có quyền hạn ban hành luật
mà một năm Quốc hội chỉ họp hai lần”.
Để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, UBTVQH giao cho Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, văn phòng Quốc hội chuẩn bị các vấn
đề trình UBTVQH xem xét và giải quyết. Đồng thời UBTVQH cũng có cơ cấu
tổ chức theo nguyên tắc nhất định, đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ quyền
hạn ấy. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH được thể hiện trong các hoạt động
của UBTVQH.
I – TỔ CHỨC CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
1. Thực trạng tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc hội
a. Cơ cấu của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Theo quy định của luật tổ chức Quốc hội hiện hành, UBTVQH gồm có: Chủ
tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên do Chủ tịch Quốc hội
làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó Chủ tịch. Chủ tịch Hội đồng
dân tộc, các Chủ nhiệm của các Ủy ban của Quốc hội là các thành viên của
2
UBTVQH. Số Phó Chủ tịch Quốc hội và Ủy viên UBTVQH do Quốc hội quyết
định. Theo quy định của Hiến pháp 1992, UBTVQH các khóa IX, X và XI đã có
sự thay đổi về số lượng và điều kiện làm việc. Số thành viên của UBTVQH đã
được nâng lên hoặc có giao động nhưng không đáng kể: Khóa IX là 13 người,
khóa X là 14 người, khóa XI là 13 người. Số Phó Chủ tịch Quốc hội ở khóa IX
và khóa X được nâng lên 5 người, nhưng đến khóa XI lại giảm xuống còn 3
người với lí do tập trung đầu mối để giúp Chủ tịch Quốc hội điều hành theo từng
mảng công việc. Đến khóa XIII, số thành viên UBTVQH tăng lên thành 17
người, trong đó có 1 Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch và 12 Ủy viên. Thành viên của
UBTVQH không phải đồng thời là thành viên Chính phủ, làm việc theo chế độ
chuyên trách. UBTVQH mỗi khóa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho
đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra UBTVQH mới.
Người đứng đầu UBTVQH còn là Chủ tịch Quốc hội, có vị trí đặc biệt trong
tổ chức hoạt động của Quốc hội cũng như UBTVQH. Chủ tịch Quốc hội giữ vai
trò rất quan trọng trong việc điều hành các phiên họp của UBTVQH, lãnh đạo
công tác của Ủy ban thường vụ, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập và chủ tọa các
phiên họp của UBTVQH. Giúp việc cho Chủ tịch Quốc hội là các Phó Chủ tịch
Quốc hội, được phân công đảm nhiệm các phần việc của UBTVQH.
Các thành viên của UBTVQH chịu trách nhiệm tập thể về việc thưc hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH; chịu trách nhiệm cá nhân trước UBTVQH
về những vấn đề được UBTVQH quan tâm; tham gia các phiên họp của
UBTVQH, thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc về thuộc nội dung của
phiên họp. Trong trường hợp được sự ủy nhiệm của UBTVQH, thành viên
UBTVQH thay mặt cho UBTVQH làm việc với các ngành, các cấp và báo cáo
kết quả với UBTVQH (điều 4 - Quy chế hoạt động của UBTVQH).
UBTVQH làm việc theo chế độ hội nghị, mỗi tháng họp ít nhất một lần.
Pháp lệnh và nghị quyết của UBTVQH phải được quá bán tổng số thành viên
biểu quyết tán thành.
b. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBTVQH được xác định là cơ quan thường trực của Quốc hội nên có vai
trò rất quan trọng giúp Quốc hội thực hiện các chức năng của mình. Để cụ thể
3
hơn nữa vai trò và chức năng quan trọng của UBTVQH, pháp luật đã quy định
rất cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan này.
Theo điều 7 Luật tổ chức Quốc hội, UBTVQH có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau:
- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kì họp Quốc hội;
- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); đình chỉ
việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội
quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trái với pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH;
- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND); bãi bỏ
các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán
HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp HĐND đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
- Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban
của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc
hội;
- Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố
tinh trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét,
quyết định tại kì họp gần nhất của Quốc hội;
- Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
4
- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội
2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Trong điều kiện Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, số đại
biểu Quốc hội chuyên trách chiếm tỷ lệ chưa cao, thì việc xác định rõ hơn vị trí,
vai trò và cơ cấu tổ chức UBTVQH là điều cần thiết, bảo đảm cho hoạt động của
Quốc hội có hiệu quả. Theo hướng đó, bên cạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cần tăng cường số lượng và chất
lượng thành viên UBTVQH.
Như đã nói ở trên UBTVQH có những thẩm quyền nhất định, trong thời
gian Quốc hội không họp, trong đó đáng chú ý là những nhiệm vụ quyền hạn
trong lĩnh vực lập pháp và giám sát. Với số lượng thành viên quá ít như những
nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua thì các pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH thông
qua khó có thể bảo đảm được về chất lượng và số lượng văn bản, đó là chưa kể
hoạt động giám sát của UBTVQH đối với các cơ quan nhà nước khác. Vì vậy, để
bảo đảm cho UBTVQH có đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của mình, cần tăng
cường số lượng thành viên lên gấp đôi hoặc gấp ba như hiện nay (tức là từ 28
đến 42 người).
Bên cạnh đó, trong cơ cấu của UBTVQH cần có sự phân công các thành
viên phụ trách các mảng công việc và không nên duy trì chế độ kiêm nhiệm (vừa
là ủy viên của UBTVQH vừa là lãnh đạo Hội đồng dân tộc và các ủy ban của
Quốc hội) như trước nay vẫn làm.
Cần xác lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa UBTVQH với các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền, đặc biệt là bảo đảm sự kiểm soát của
UBTVQH đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Tăng cường chất lượng của việc xem xét, cho ý kiến của UBTVQH đối
với các dự án luật trước khi trình Quốc hội. UBTVQH là cơ quan chỉ đạo việc
thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua;
xem xét và quyết định trình các dự án luật tại kỳ họp Quốc hội; chủ trì kỳ họp
Quốc hội. Do đó, việc UBTVQH thảo luận, xem xét, cho ý kiến đối với các dự
án luật rất quan trọng. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động này, UBTVQH cần
tăng cường phối hợp với chính phủ trong công tác chỉ đạo, kiểm tra các cơ quan
hữu quan được phân công triển khai thực hiện chương trình xây dựng pháp luật.
5
II. HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
1. Thực trạng hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Quốc hội nước ta không phải Quốc hội chuyên nghiệp, lại họp trong thời
gian ngắn (mỗi năm 2 kì, mỗi kì kéo dài khoảng 1 tháng), đa số đại biểu hoạt
động kiêm nhiệm trong khi đó yêu cầu của hoạt động lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với các cơ quan Nhà nước
khác phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả cao; chính vì vậy, trong thời gian qua,
UBTVQH, với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, đã được Quốc hội
giao nhiệm vụ thay mặt mình giải quyết một số việc trong tường hợp Quốc hội
không thể họp được, đã thực hiện rất tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình
như đã ban hành được nhiều pháp lệnh quan trọng, hoạt động giám sát được tiến
hành thường xuyên, ngày càng chuyên nghiệp và có hiệu quả cao… Tuy nhiên,
bên cạnh đó, hoạt động của UBTVQH vẫn không thể tránh khỏi một số hạn chế
như:
- Đối với hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: Theo Hiến pháp
1992 thì UBTVQH là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh. Chính vì thế UBTVQH phải gánh trên mình một khối lượng
công việc khá lớn, do đó hoạt động giải thích pháp luật chưa đạt hiệu quả cao,
chưa đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể đề nghị giải thích.
Trên thực tế, việc giải thích pháp luật mới được chính thức thực hiện hai
lần, lần đầu tại phiên họp thứ 25 của UBTVQH khóa XI. Trên cơ sở Tờ trình số
06/CP-XDPL ngày 21/11/2005 của Chính phủ về việc giải thích điểm c khoản 2
điều 241 của Luật Thương mại và Báo cáo ý kiến số 1519 a / UBKTNS ngày
24/01/2005 của Thường trực Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội,
UBTVQH đã thông qua nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày
28/01/2005 để giải thích khoản c điều 241 Luật Thương mại 1997. Lần thứ hai
UBTVQH thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là để giải
thích khoản 6 điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước. Trên cơ sở Tờ trình số
682/TTr-KTNN ngày 12/10/2006 của Tổng Kiểm toán Nhà nước và Báo cáo ý
kiến số 3050/UBKTNS ngày 8/11/2006 của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của
Quốc hội, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết số 1053/2006/NQ-UBTVQH11
6
ngày 10/11/2006. Qua đây, ta cũng thấy được việc giải thích pháp luật của
UBTVQH còn ít, nhiều bất cập. Ví dụ: trong việc giải thích nghị quyết điểm c
khoản 2 điều 241 Luật Thương mại, Ủy ban trọng tài Quốc tế Việt Nam và
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã có công văn đề nghị UBTVQH
giải thích luật, mặc dù theo quy định của pháp luật, hai chủ thể trên không có
thẩm quyền này.
Mặt khác, đối với trình tự thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh tuân
theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật. Tuy nhiên, Hiến pháp là đạo
luật có giá trị pháp lý cao nhất nên việc giải thích Hiến pháp được thực hiện
giống hoạt động giải thích luật, pháp lệnh là chưa thể hiện được vị trí và vai trò
của Hiến pháp.
- Đối với hoạt động ban hành pháp lệnh: Trong những năm qua, với những
vấn đề Quốc hội chưa ban hành luật thì UBTVQH sẽ ban hành pháp lệnh để điều
chỉnh những vấn đề đó. Trên thực tế, hoạt động của UBTVQH cũng đã đưa lại
nhiều kết quả đáng khích lệ, giải quyết được nhiều vấn đề còn tồn tại. Nhưng
cũng phải nhìn thấy một thực tế là, khi pháp lệnh được ban hành thì sẽ không có
luật điều chỉnh vấn đề này nữa, do đó đã dẫn đến sự phân chia quyền lực của
Quốc hội. Mà theo quy định của Hiến pháp thì Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, quyền lực nhà nước phải tập trung thống nhất, nhưng
UBTVQH ban hành pháp lệnh chính là đã có sự phân chia quyền lực. Như vậy,
trong giai đoạn hiện nay, việc quy định cho UBTVQH có thêm quyền hạn này là
chưa thực sự hợp lý, có thể dẫn đến tình trạng UBTVQH ban hành quá nhiều
pháp lệnh làm giảm phần nào đó quyền lực lập pháp của Quốc hội.
- Đối với hoạt động giám sát của UBTVQH: Hoạt động giám sát của
UBTVQH là một trong những hoạt động giúp Quốc hội thực hiện tốt hơn nữa
chức năng giám sát tối cao của mình. Tuy nhiên, qua thực tế, hoạt động giám sát
của UBTVQH vẫn còn một số bất cập:
Trong hoạt động giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH trên thực tế chưa có 1 quy định
nào quy định về trình tự, thủ tục thực hiện. Điều này dẫn đến tình trạng
UBTVQH gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giám sát, thậm chí hoạt động
giám sát chỉ được thực hiện mang tính hình thức, chưa đạt hiệu quả cao. Trong
trường hợp phát hiện ra vi phạm thì công tác xử lý vẫn là một vấn đề nan giải.
7
Trong hoạt động giám sát hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC
hay hoạt động của HĐND thì hình thức giám sát chủ yếu là thông qua báo cáo
của các cơ quan này nên hoạt động giám sát thường không mang tính khách quan
cao, vì vậy việc đưa ra các kiến nghị hợp lý là không thể.
- Đối với hoạt động chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Hoạt động này ngày càng được nâng cao, tuy
nhiên trên thực tế còn chưa thật sự sâu sát, cụ thể và thường xuyên, điều này
chính là do chưa xác định được rõ mối quan hệ giữa UBTVQH với các Ủy ban
của Quốc hội. Nếu coi UBTVQH là cấp trên của các Ủy ban, thì các Ủy ban của
Quốc hội là cơ quan giúp việc cho UBTVQH, chịu sự “chỉ đạo, điều hòa, phối
hợp hoạt động” một cách toàn diện của UBTVQH về chương trình, nội dung
hoạt động. Và như thế trên thực tế thì các Ủy ban của Quốc hội lại trở thành các
cơ quan của UBTVQH. Nếu coi UBTVQH và các Ủy ban đều là cơ quan của
Quốc hội có địa vị như nhau, thì vai trò “chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động”
của UBTVQH đối với các Ủy ban cũng hạn chế và chỉ mang tính chất tổ chức
hành chính. Như vậy, việc xác định mối quan hệ giữa UBTVQH và các Ủy ban
của Quốc hội đang là một vấn đề gây tranh cãi.
2. Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của Ủy ban thường vụ
Quốc hội
Qua những phân tích về thực trạng hoạt động của UBTVQH trong giai đoạn
hiện nay có thể đưa ra một số giải pháp hằm tăng cường hiệu quả hoạt động của
UBTVQH như sau:
Thứ nhất, việc UBTVQH thực hiện giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là
phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay. Do đó, về cơ bản, không
cần sự thay đổi nhiều về hoạt động này mà chỉ cần tập trung vào việc nâng cao
năng lực giải thích của UBTVQH đồng thời quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa
trình tự giải thích pháp luật, pháp lệnh. Mặt khác, thiết lập một cơ chế riêng về
giải thích Hiến pháp cho phù hợp với vị trí, vai trò của Hiến pháp trong nhà nước
pháp quyền và phù hợp với điều kiện Việt Nam. Theo đó, Quốc hội phải là cơ
quan (chủ thể) duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp với tư cách là một
chủ thể lập hiến. Việc giao Quốc hội giải thích Hiến pháp cũng hoàn toàn phù
hợp với truyền thống và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam
cũng như nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hơn nữa, nó
8
còn bảo đảm tính thứ bậc pháp lý trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật;
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, về vấn đề ban hành pháp lệnh của UBTVQH. Từ thực trạng đã
trình bày thì có thể thấy rằng trong giai đọa hiện nay cần giảm mạnh dẫn tới
chấm dứt hẳn việc ban hành pháp lệnh. Đây không phải là vấn đề mới mà ngay
từ Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII (năm 1997)
cũng đã đề ra chủ trương “ giảm dần pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội”. Định hướng hạn chế việc ban hành pháp lệnh là một định hướng hạn chế
việc ban hành pháp lệnh là một định hướng sáng suốt phù hợp với tính đại diện
và nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong tổ chức Quốc hội nước ta. Khi
điều kiện chưa hoạt động thường xuyên, năng lực lập pháp hạn chế như trước kia
thì việc giao cho UBTVQH ban hành pháp lệnh là cần thiết, nhưng đến thời hiện
nay việc này là không cần thiết, cần tập trung hơn quyền lực về Quốc hội. Chính
vì vậy, cần hạn chế tiến tới chấm dứt hoàn toàn hoạt động ban hành pháp lệnh
của UBTVQH, tạo điểu kiện để UBTVQH có cơ cấu gọn nhẹ hơn, có thể tập
trung vào việc thực hiện tốt vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các
ủy ban.
Thứ ba, theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, thẩm quyền giám sát của
UBTVQH được quy định khá chặt chẽ và rõ ràng. Nhưng UBTVQH chưa có
thẩm quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động thực tiễn. Do đó,
cần quy định cho UBTVQH có thẩm quyền quyết định để giải quyết các vấn đề
phát sinh trong thời gian Quốc hội không họp. Đồng thời, có những quy định cụ
thể về trình tự thủ tục giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh,… thực
hiện đa dạng các phương thức giám sát để đạt hiệu quả cao. Mặt khác, việc thực
hiện hoạt động giám sát cần xuất phát trên cơ sở thực tiễn Việt Nam kết hợp với
sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội một số nước. Khi
thực hiện hoạt động giám sát đoàn giám sát của UBTVQH các thành viên phải
có chuyên môn cao, có tư duy logic, kĩ năng phân tích, đánh giá các thông tin thu
thập cùng với việc áp dụng thành thạo kĩ thuật hiện đại, sử dụng tối đa các ưu thế
của công nghệ thông tin để có được nguồn tin chính xác và nhanh nhất giúp công
tác giám sát đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, tăng cường công tác, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp của UBTVQH đối
với Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Trong những năm qua, về cơ
9
bản Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thực hiện tốt nhiệm vụ này. Tuy nhiên,
trong quá trình chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các
Uỷ ban của Quốc hội còn bộc lộ những hạn chế nhất định trong công tác xây
dựng pháp luật, giám sát và tham mưu cho Quốc hội còn bộc lộ những hạn chế
nhất định các vấn đề quan trọng của đất nước. Vì vậy, cần tăng cường và nâng
cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; đồng
thời cần quy định cụ thể, chi tiết về việc Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc
hội phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong thời gian qua, với những hoạt động của mình, UBTVQH đã thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, khẳng định được vai trò của Quốc hội trong bộ máy Nhà
nước. Nếu khắc phục được những hạn chế nêu trên, UBTVQH sẽ hoạt động có
hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp Đổi mới toàn diện của đất nước, đặc biệt là
trong lĩnh vực quản lí, điều hành.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Luật Hiến pháp
- Hiến pháp Việt Nam
- Tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, tập 1
- Mạng Internet
11
I.
MỞ ĐẦU
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
TỔ CHỨC CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
2
1. Thực trạng tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc hội
2
2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức Uỷ ban thường vụ Quốc hội
5
II. HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
6
1. Thực trạng hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội
6
2. Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc
hội
8
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Danh mục tài liệu tham khảo
10
11
MỤC LỤC
12