Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nguyên nhân và thực trạng tình trạng trẻ em không đi học hoặc phải bỏ học sớm hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.79 KB, 14 trang )

Mục lục bài viết

Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về quyền học tập của trẻ em theo pháp luật Việt Nam.
II. Quyền và nghĩa vụ giáo dục của cha mẹ đối với con
III. Nguyên nhân và thực trạng tình trạng trẻ em không đi học hoặc phải
bỏ học sớm hiện nay.
1. Nguyên nhân tình trạng trẻ em không đi học, bỏ học sớm hiện nay
2. Thực trạng trẻ em bỏ học, không được đi học ở Nước ta hiện nay
IV. Trách nhiệm của cha mẹ và người thân thích đối với tình trạng trẻ em
bỏ học hiện nay.
C. KẾT LUẬN

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chính vì thế việc bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội . Trẻ em được sinh ra và được hưởng các quyền cơ bản như quyền quyền được
chăm sóc, giáo dục, quyền được thông tin, quyền được vui chơi giải trí và tham gia
các họat độn văn hóa, quyền phát triển sức khỏe và thể lực …Trong đó quyền được
1


học tập là một trong những quyền quan trọng mà trẻ em được hưởng. Quyền được
học tập của trẻ em được khẳng định trong Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm
2001, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Luật Giáo dục, Luật Phổ cập Giáo dục
Tiểu học, và trong cả Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em mà Việt Nam tham
gia. Tuy đã rất nỗ lực để đảm bảo quyền cơ bản này của trẻ em, đã đạt được nhiều


thành tựu nhưng hiện nay tình trạng trẻ em bỏ học sớm, không được đi học vẫn xảy
ra ở nhiều địa phương và có xu hướng tăng nhanh về số lượng. Thực trạng này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội. Nó
đòi hỏi mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với việc học tập của các em, đặc biệt là
cha, mẹ, những người thân thích của các em. Để hiểu thêm vấn đề này, em xin đi
sâu vào vấn đề : “ Nêu trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về
tình trạng trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm”.

B. NỘI DUNG.
I. Khái quát về quyền học tập của trẻ em theo pháp luật Việt Nam.
Quyền học tập của mọi công dân được ghi nhận trong các văn bản luật của
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Năm năm 1992 ( sửa đổi. bổ sung năm 2001) có quy định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo
dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của
2


giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự
hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ." Quyền này của công
dân cũng được ghi nhân trong nhiều văn bản dưới luật. Như vậy, Đảng và nhà nước
ta rất chú trọng công tác giáo dục con người, đảm bảo quyền học tập cho mọi
người. Đặc biệt là trẻ em- tương lai của đất nước.
Quyền học tập của trẻ em cũng được ghi nhận tại điều 16 Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em: “ Trẻ em có quyền được học tập, trẻ em học bậc tiểu học
trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí…”. Luật HN & GĐ năm
2000 cũng có quy định tại điều 34 : “ Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ….chăm lo việc
học tập giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức…”.

Như vậy, mọi trẻ em đều có quyền học tập : được đi học đúng độ tuổi, quyền tham
gia đầy đủ các chương trình giáo dục của nhà nước, mọi hành vi ngăn cấm quyền đi
học của trẻ em đều là những hành vi đi người lại với lợi ích của các em và của toàn
xã hội….
II. Quyền và nghĩa vụ giáo dục của cha mẹ đối với con
Để đảm bảo quyền học tập của trẻ em được đảm bảo trên thực tế thì pháp luật
đã có rất nhiều quy định, trong đó có quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể có liên quan. Đặc biệt là cha, mẹ của các em. Cụ thể, cha mẹ có những quyền và
nghĩa vụ cơ bản sau đối với con:
+ Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con
học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm
ấm, hòa thuận, làm gương tốt cho con mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với nhà trường
và các tổ chức xã hội trong việc giao dục con (khoản 1 điều 37 Luật HN & GĐ
năm 2000)..
Học tập là một trong những quyền quan trọng và cơ bản nhất của trẻ em.
Trong công ước về quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam, học tập được xác định là
quyền, là bổn phận của trẻ em bởi trẻ em là tương lai của đất nước. Dưới góc độ
quan hệ xã hội hay gia đình thì cha mẹ đều có nghĩa vụ và quyền giáo dục con,
3


chăm lo và tạo điều kiện cho con được học tập. Việc giáo dục con cái không phải là
nhiệm vụ hay bổn phận của người mẹ hay người cha mà cần phải có sự phối hợp
giữa người cha và người mẹ để người con có một nền giáo dục toàn diện. Từ xa xưa
ông cha ta đã có câu : “ Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn ” .
Trẻ em là những tâm hồn trong sang, non nớt về trí tuệ chính vì thế giáo dục
trong giai đoạn này là rất quan trọng. Các tiềm năng về thể chất và trí tuệ của trẻ
được tạo dựng trong suốt thời kỳ trẻ trưởng thành và phát triển. Chính vì thế ngay
từ khi trẻ còn nhỏ thì những bậc làm cha, làm mẹ nên tạo dựng cho con của mình
những nền tảng vững chắc, giúp con trở thành một người con hiếu thảo của gia

đình, một công dân tốt của xã hội, là niệm hạnh phúc lớn nhất của bậc làm cha, làm
mẹ. Giáo dục phải nhằm phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và
thể chất của trẻ em đạt đến mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một
cuộc sống tích cực ở tuổi người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em
long kính trọng cha mẹ, bản sắc, văn hóa, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng
như nguồn gốc văn hóa và các giá trị của người khác.
Cha mẹ có nghĩa vụ và có quyền tạo điều kiện cho con được sống trong môi
trường gia đình đầm ấm, hòa thuận, làm gương tốt cho con mọi mặt, phối hợp chặt
chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con: Trẻ em sinh ra có
quyền được yêu thương, quyền được chăm sóc, quyền được sống chung cùng với
cha mẹ, không ai buộc các em phải cách lý với cha mẹ trừ trường hợp vì lợi ích của
các em mà phải cách ly các em. Trẻ em khi còn nhỏ dễ bị tổn thương tình cảm nên
việc thiếu tình thương của cha mẹ sẽ ảnh hưởng rất lớn đển sự phát triển cũng như
tính cách của trẻ em sau này.
+ Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề, tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham
gia hoạt động xã hội của con ( khoản 2 điều 37 Luật HN& GĐ năm 2000).
Hơn ai hết, cha mẹ là những người theo dõi con lớn lên và trưởng thành từng
ngày, thông qua tính cách , hành vi của con trẻ, cha mẹ nắm bắt được những điểm
mạnh cũng như điểm yếu, năng khiếu, sở trường của con, từ đó cha mẹ giúp đỡ con
cái, đưa ra những lời khuyên bảo, chỉ dẫn cần thiết giúp trẻ định hướng tương lại

4


của mình. Cha mẹ không ép buộc trẻ phải chọn nghề gì, tham gia hoạt động xã hội
nào mà trẻ em sẽ tự quyết định tương lại của bản thân.
+ Khi trẻ gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con ( khoản 3 điều
37 Luật HN & GĐ năm 2000).
Luật HN & GĐ năm 2000 không chỉ quy định trách nhiệm của cha mẹ trong

việc giáo dục con cái mà còn quy định quyền và nghĩa vụ của các cơ quan hữu quan
trong việc giáo dục trẻ em, Đó là khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được,
cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, các tổ chức xã hội giúp đở trẻ. Cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa cha mẹ, nhà trường và các tổ chức xã hội để có thể giáo dực trẻ một
cách tốt nhất. Các biện pháp có thể áp dụng đó là : Đưa vào trường giáo dưỡng để
các em học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự
quản lý, giáo dục của nhà trường.
Bên cạnh đó thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định trách
nhiệm giao dục cho ông bà, anh, chị em được quy định tạo điều 47 và 48.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và các chủ thể khác hàm chứa
tính dân chủ, tiến bộ, sâu sắc, vừa đề cao được trách nhiệm của cha mẹ trong việc
đảm bảo tương laic ho các con, vừa thể hiện sự tôn trọng của gia đình, xã hội đối
với năng lực, sở thích cá nhân của mỗi người trong nghề nghiệp của mình.
II.

Nguyên nhân và thực trạng tình trạng trẻ em không đi học hoặc
phải bỏ học sớm hiện nay.

1. Nguyên nhân tình trạng trẻ em không đi học và bỏ học sớm hiện nay.
1.1. Nguyên nhân từ cộng đồng- xã hội.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với nền
kinh tế thế giới, điều này dẫn đến một hậu quả tất yếu là tình trạng phát triển kinh
tế không đồng đều giữa các vùng, sự cách biệt lớn trong thu nhập giữa khu vực
thành thị và nông thôn làm cho số lượng người di dân tự do (trong đó có trẻ em)
từ nông thôn đến các đô thị sẽ ngày càng tăng. Nền kinh tế phát triển kéo theo hệ
lụy là môi trường sinh thái bị huỷ hoại dẫn đến thiên tai thất thường (hạn hán kéo dài,

5



bão lụt liên tiếp…) làm cuộc sống của nông dân trở nên nghèo khó và bấp bênh hơn.
Việc học của các em cũng vì thế mà bị ảnh hưởng ít nhiều.

Trong hoạch định chính sách, quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển chưa được nhận thức đúng mức ở một số ít quan chức các địa phương.
Thiếu môi trường hỗ trợ và sự khích lệ từ cộng đồng cho nhóm trẻ đặc biệt và chịu
nhiều thiệt thòi (đường phố, khuyết tật, mồ côi, HIV)…Vai trò của các cơ quan,
đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục chưa được phát
huy đúng mức, công tác xã hội hoá giáo dục còn lung túng, thiếu cơ chế phối hợp,
dẫn đến việc huy động trẻ em bỏ học đi học lại còn nhiều khó khăn, bất cập.
1.2 Nguyên nhân từ nhà trường.
Nhà trường là cầu nối giúp các em tiếp xúc với nền kiến
thức, trang bị cho các em hành trang bước vào đời. Tuy vậy, tình
trạng trẻ em bỏ học hay không đi học cũng xuất phát một phần từ
phía nhà trường. Cụ thể là
Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đang tiến hành nhiều
cuộc cải cách, Tuy nhiên, nhìn chung các mục tiêu giáo dục của
chính phủ dựa vào số lượng và chưa đặt ra chỉ tiêu chất lượng.
Chương trình giáo dục không thiết thực, ít phù hợp, đơn điệu,
nghèo nàn. Chất lượng dạy học và phương pháp giảng dạy thiếu
sự hấp dẫn, sự thuyết phục và tính sáng tạo để gây hứng thú học
tập với học sinh. Thiếu cơ sở vật chất, cơ cấu quản lý trường học
yếu kém và thiếu an toàn. Ngôn ngữ sử dụng trong dạy và học
không phù hợp (với nhóm dân tộc ít người).
Sự phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình chưa chặt chẽ
dẫn đến quyền học tập của các em bị hạn chế. Đương cử như vụ
án ở huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thầy giáo Đào Công Thọ tự
sắp xếp buổi học “ thực hành” về hô hấp nhân tạo và liên tiếp
thực hiện hành vi dâm ô với 9 em học sinh, trong đó có 3 em bị
hiếp dâm. Vụ án này một lần nữa khẳng định quyền học tập của


6


trẻ em hiện nay vẫn chưa được đảm bảo, cần thắt chặt hơn nữa
quan hệ giữa nhà trường và gia đình.
Hơn thế mối quan hệ thầy trò ít thân mật, học trò kém chủ động và thiếu tự
tin. Tình trạng bạo lực hoặc lạm dụng học sinh còn phổ biến.
1.3 Nguyên nhân từ gia đình.
Gia đình với chức năng nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục con em, là nơi có
nhiều thời gian nhất, có nhiều thuận lợi nhất về mọi phương diện để giúp các em
học tập. Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Tuy nhiên, đại
bộ phận các gia đình hiện nay ở Việt Nam có kinh tế khó khăn, sống trong đói
nghèo ( phổ biến ở nông thôn và miền núi).Trẻ sớm phải tham gia lao động để phụ
giúp gia đình
Một thực trạng đáng buồn là hiện nay, tình trạng ly hôn giữa các cặp vợ
chồng diễn ra khá phổ biến, nhiều gia đình không hạnh phúc, tình trạng bạo lực gia
đình…gia đình có người luôn đau ốm, bệnh tật….dẫn đến tình trạng trẻ em phải bỏ
học hoặc không được đi học. Gia đình không nhận thức chưa đầy đủ về giá trị của
học tập đối với tương lai của trẻ, đặc biệt với con gái. Gia đình không có truyền
thống hiếu học nên không khuyến khích trẻ tiếp tục đi học.
1.4. Nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các em.
Một phần lớn các em bỏ học xuất phát từ chính bản thân các em. Các em cảm
thấy xấu hổ với bạn bè và thầy cô vì các vấn đề của bản thân hoặc gia đình hoặc
không có thời gian dành cho học tập (do nguyên nhân bản thân hoặc bị tác động
xấu từ bạn bè, môi trường), thiếu kỉ luật, không đủ kiên nhẫn theo học, cảm thấy
việc học quá buồn tẻ, học đuối so với bạn, kết quả học tập kém, sức khoẻ kém, bệnh
tật hoặc khuyết tật….
Có thể lấy một ví dụ minh họa như việc ông Chủ tịch huyện Thạch Thành
(Thanh Hóa) đã ra lệnh cho Phòng Giáo dục huyện tổ chức kiểm tra chất lượng cho

HS để thực hiện nghiêm túc cuộc vận động của ngành giáo dục “chống ngồi nhầm
lớp”. Kết quả của cuộc kiểm tra bất thường này (lấy điểm thi kỳ kiểm tra này thay
điểm thi học kỳ 2 và tính lại điểm trung bình cả năm) đã buộc hơn 900 HS đã có
quyết định lên lớp nay buộc ở lại lớp, 450 HS bậc trung học cơ sở đã… không dám
7


đến trường vì xấu hổ với bạn bè.
2. Thực trạng tình trạng trẻ em bỏ học, không được đi học ở Nước ta
hiện nay.
Đến năm 2000, có 100% số tỉnh, thành phố đã hoàn thành mục tiêu phổ cập
giáo dục tiểu học và xoá mù chữ và đến năm 2003, có 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Các cở sơ giáo dục đang trong quá trình
kiên cố hoá, đội ngũ giáo viên dần được tiêu chuẩn hoá, chương trình, nội dung
giảng dạy đã có đổi mới, chất lượng giáo dục bước đầu được cải thiện.
Trẻ em đi học mẫu giáo tăng về cả số lượng tuyệt đối và tỷ lệ. Năm học
2003-2004 có 2,17 triệu trẻ em đi học mẫu giáo, đạt tỷ lệ 42% số trẻ em trong lứa
tuổi từ 3 đến 5 tuổi. Đến cuối năm 2008 trẻ từ 03 tuổi đến 05 tuổi đi học đạt 66,6%
trẻ trong độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học năm 2002-2003 đạt 99,6%. Đến
năm 2003, có 90% trẻ em ở độ tuổi 14 đã tốt nghiệp tiểu học. Tỷ lệ họ c sinh dưới
15 tuổi hoàn thành bậc tiểu học tăng từ 54,5% năm học 1993-1994 lên 76% năm
học 1999-2000. Tỷ lệ trẻ em 06 tuổi đi học lớp 1 đúng độ tuổi đạt 95%. Số học sinh
trung học cơ sở tăng rất nhanh, từ 4,3 triệu học sinh năm học 1995-1996 lên 6,57
triệu học sinh năm học 2003-2004. Tỷ lệ nhập học trung học cơ sở đạt khoảng 80%
và tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 96,3% trong năm học 2002-2003..Đến cuối
năm 2008 học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi đạt 96,06%; học sinh trung học cơ
sở đi học đúng độ tuổi đạt 82,69%; tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm dần; trẻ em
nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế công
lập trên toàn quốc.
Tuy nhiên, tình trạng trẻ em bỏ học, không được đến trường đang dần tăng.

Nó trở thành là vẫn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo điều tra Quốc gia về Vị
thành niên và Thanh niên Việt Nam (SAVY 2008) cho thấy 24% thanh niên được
điều tra đã bỏ học khi chưa đến 15 tuổi, và 16% bỏ học trong độ tuổi từ 20- 25. Tỷ
lệ bỏ học sau khi học xong từ lớp 1 đến lớp 5 chiếm 12%, từ lớp 6 đến lớp 8 là
21% và riêng hết lớp 9 tỷ lệ này là 27% trong số những người đã bỏ học, chỉ có
46.3% thanh niên Việt Nam được đi học trung học. Trong số các lý do chính khiến
thanh thiếu niên bỏ học, “phải làm việc cho gia đình” chiếm 19%, “không có tiền
8


đóng học phí” chiếm 18%, “không muốn đi học thêm nữa” chiếm 17%, “không thi
đỗ” chiếm 15% và “sức học yếu” chiếm 9%. So sánh tỉ lệ bỏ học năm học 2009 2010 với tỉ lệ bỏ học năm học 2005-2006 của cấp tiểu học và trung học cơ sở giảm
1,8%. Tính đến thời điểm này tỉ lệ học sinh bỏ học ở đầu năm học 2010 - 2011
(cuối tháng 11/ 2010): 0,4% (tiểu học: 0,1%, Trung học cơ sở: 1,1%), so với thời
gian cùng kỳ ở năm học 2009-2010 tỉ lệ bỏ học ở cấp tiểu học và Trung học cơ sở
vẫn đảm bảo không vượt trội. Riêng các trường Trung học phổ thông tỉ lệ bỏ học
năm học 2009-2010 so với tỉ lệ bỏ học năm học 2005-2006 giảm 3,1%. Nhìn chung
qua từng năm học tỉ lệ học sinh bỏ học được giảm dần ở các cấp học (nhất là ở cấp
Trung học cơ sở) đạt được chỉ tiêu hạn chế bỏ học đã đề ra ở lần hội thảo trước
(tiểu học 0,2% và Trung học 0,5%).
Cũng theo số liệu thống kê, tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều nhất trong những năm
qua vẫn là các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó học sinh bỏ
học cao nhất là các tỉnh Long An, Bạc Liêu và Sóc Trăng. Các tỉnh miền núi phía
bắc tập trung chủ yếu ở các huyện nghèo. Còn ở các tỉnh Trung Bộ, do thường bị
ảnh hưởng thiên tai khiến nhiều gia đình lâm vào cảnh nghèo đói, cho nên số học
sinh bỏ học ở khu vực này cũng tăng...TP Cần Thơ có học sinh bỏ học cao nhất ở
THPT chiếm tới 1,77%, tiếp đó là TPHCM, 0,43%. Về số lượng, dẫn đầu danh sách
là TPHCM có 1.800 học sinh bỏ học; Cần Thơ: 1.740 học sinh, Hà Nội 1.577 học
sinh, ít nhất là Đà Nẵng, chỉ có 54 học sinh….
Đây là những con số đáng báo động cho ngành giao dục Việt Nam hiện nay.

Chính vì thế, các cấp các ngành, gia đình, nhà trường cần nâng cao trách nhiệm của
mình hơn nữa đối với việc học tập của trẻ em hiện nay.
III. Trách nhiệm của cha mẹ và người thân thích đối với tình trạng trẻ em bỏ
học hiện nay.
Chúng ta phải thừa nhận rằng, xã hội cũng đóng vai trò quan trọng trong sự
hình thành nhân cách của trẻ. Xã hội hiện đại tạo ra muôn vàn mối quan hệ, đặc biệt
là mối quan hệ giữa người với người. Một số trẻ sẽ thóat khỏi tục lệ gia đình để hoà
nhập vào xã hội. Song sự hoà nhập đó theo chiều hướng xấu hay tốt phụ thuộc rất
nhiều vào nếp sống, tục lệ và sự giáo dục của gia đình. Tình trạng trẻ em bỏ học
9


xuất phát chủ yếu từ nguyên nhân là gia đình của các em... Chính vì thế, cha mẹ và
những người thân thích cần có trách nhiệm đối với vấn đề học tập của trẻ em. Tại
Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp uỷ đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
có quy định rõ : “ Đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình, giúp đỡ và tạo điều
kiện cần thiết để các gia đình thực hiện trách nhiệm đối với thế hệ trẻ, tạo môi
trường lành mạnh cho sự phát triển của trẻ em. Tôn trọng và bảo đảm cho trẻ em
được thực hiện các quyền và bổn phận của mình trước gia đình và xã hội...”.
Gia đình là một thiết chế cơ bản của xã hội. Gia đình thực hiện nhiều chức
năng khác nhau, nhưng chức năng giáo dục con cái là quan trọng nhất. Nghị quyết
của Đại hội Đảng lần thứ VI xác định : “ Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò
rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới, con người mới. Đảng,
nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng và chính sách, có
các biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, đảm bảo hạnh
phúc gia đình, đảm bảo sinh để có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt
cuộc sống vật chất và văn hóa của gia đình”. Để đảm cho các em được đến trường,
được thực hiện quyền học tập của mình thì những bậc làm cha, làm me, làm ông bà,
anh chị….cần phải có trách nhiệm hơn nữa. Cha mẹ cần giáo dục con cái về mọi

mặt và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như : giáo dục lối sống, lý tưởng,
đạo đức; giáo dục tri thức khoa học; giáo dục lao động, hướng nghiệp; chăm sóc
sức khỏe, tạo môi trường sống và học tập thoải mái cho trẻ...cho các em.
Cha mẹ cần giáo dục bằng tình cảm: phương pháp này vừa thế hiện sự quyền
uy vừa thể hiện sự khoan dung. Người cha dùng quyền uy để rèn luyện con cái sống
theo chuẩn mực, định hướng cho con nên học gì và học như thế nào, người mẹ ân
cần, chỉ bảo, khuyên nhủ con, anh chị em thường xuyên giúp đỡ nhau….Việc giáo
dục như thế làm cho trẻ cảm thấy thoải mái, dễ dàng tiếp thu. Cha mẹ dạy con cái
biết sống vì mọi người, kính trên, nhường dưới, bao dung, độ lượng, “ ăn quả nhớ
người trồng cây’’; có trách nhiệm, bổn phận với bản thân, cha mẹ dòng họ, bà con
lối xóm…Tạo dựng cho trẻ biết tự chịu trách nhiệm trước cuộc đời biết tự lập và
không ỷ lại. Biết tránh xa mọi thói xấu, không bon chen, đố kỵ. (Khi mình kém bạn
10


thì phải biết phấn đấu để vượt lên mà không nên dùng thủ thuật để “dìm’’ bạn
xuống), Không bỏ bê việc học, bỏ học hay trốn học chỉ vì bản thân mình yếu kém
hơn các bạn mà phải biết tự mình nhận khuyết điểm của mình để từ đó phấn đấu
Cha mẹ không nên đặt nhiều áp lực vào con cái, điều này sẽ làm cho trẻ cảm thấy
không thoải mái, nặng nề…Khi con bỏ học thì thay vì nặng lời, đánh đập con thì
cha mẹ nên hỏi lý do tại sao, tìm cách khuyên nhủ, động viên và tạo điều kiện cho
con được đến trường.
Ông, bà, cha, mẹ, anh chị….là những tấm gương để cho trẻ học tập. Một gia
đình có nề nếp gia phong, cha mẹ yêu thương, quan tâm, lắng nghe và tôn trọng con
cái, các thành viên trong gia đình yêu thương đùm bọc lẫn nhau… sẽ giúp các em
có được nền tảng đạo đức vững chắc. Cha mẹ cũng nên chú ý để hình thành nên
phong cách sinh hoạt trong gia đình, biểu hiện cụ thể như nề nếp, vệ sinh, gọn gàng,
ăn nói hòa nhã, văn minh, lịch sự… “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, lẽ dĩ nhiên, một
gia đình văn hóa, đạo đức, các em sẽ có môi trường tốt để cho trẻ học tập.
Cha mẹ cần quản lý con cái: Khi trẻ dần lớn lên thì ý thức của trẻ cũng dần

thay đổi, ý thức muốc khẳng định bản thân trẻ ngày càng thể hiện một cách rõ nét,
vì thế mà phương pháp giáo dục đối với trẻ sẽ phải thay đổi. Thay vì theo sát, kèm
chặt trẻ em thì gia đình nên quản lý trẻ bằng cách tăng cường quản lý theo hướng:
theo dõi lịch học, quản lý giờ giấc, phối hợp với nhà trường chặt chẽ hơn nhưng
vận tạo cho trẻ cảm thấy thoải mái hơn, tự chủ được, giúp trẻ say mê với việc học
tập hơn học cách thích nghi với xã hội hơn.
Bên cạnh đó thì cha mẹ và những người thân cũng cần tạo điều kiện, chăm
lo và cần tạo môi trường học tập của các em trong hoàn cảnh cho phép của gia đình.
Đảm bảo cho con cái có đủ điều kiện vật chất để con có thể theo học. Cha mẹ cũng
cần tạo môi trường thoải mái, không bị gò bó để trẻ có thể tự học, có thể phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em. Trong học tập thì cha
mẹ hãy định hướng cho con nên học trường nào, ngành nào theo khả năng của con,
không nên áp đặt con theo suy nghĩ của mình. Cần biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến
của trẻ. Nếu trẻ làm sai thì phải biết khuyên răn, dạy bảo trẻ. Nếu trẻ cảm thấy chản
nản với việc học hay cảm thấy việc học quá nặng nề thì cha mẹ, anh chị, ông bà
11


nên giúp đỡ trẻ, khuyên răn trẻ chứ không nên dùng những biện pháp mạnh như là
mắng trẻ hay là đánh đập trẻ.
Để có thể giúp đỡ con học tập thì cha mẹ cũng cần phải nâng cao kiến thức
của mình hoặc là có thể cho con đi học các lớp học thêm, thuê gia sư….kèm cặp
cho con học. Từ đó có thể nâng cao kiến thức cho trẻ. Đồng thời, cần tạo cho trẻ
một không gian tốt để trẻ có thể tự tin giao tiếp, không xấu hổ hay e ngại trước đám
đông….. Trong trường hợp ly hôn hoặc trong các trường hợp khác, người cha hoặc
người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên có nghĩa vụ đóng góp để nuôi
dưỡng, giáo dục con; có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con theo quy định
của pháp luật
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan, giúp
tăng cường hơn nữa việc thực hiện quyền học tập của các em. Chính phủ cần giao

việc cụ thể cho các bộ, ngành, ủy ban….thực hiện thống nhất việc quản lý việc học
tập của các em theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được quy định. Đưa các nội
dung về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào các hương ước, quy ước, các tiêu
chuẩn của "gia đình văn hoá", "làng văn hoá", gắn hoạt động bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em với nội dung xây dựng khu dân cư. Khen thưởng, biểu dương kịp
thời những tổ chức, gia đình, cá nhân có thành tích bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Xử lý thích đáng và tạo dư luận xã hội nghiêm khắc lên án những hành vi xâm
hại trẻ em. Bộ giáo dục và đào tạo cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục các em,
khuyến khích các em đến trường, tạo môi trường học tập lạnh mạnh, khoa
học….chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho các em.
Cần tăng cường nguồn tài chính để trang bị cơ sở hạ tầng, trang thiệt bị phục
vụ cho việc học tập của các em. Để các em có thể phát huy khả năng của bản thân.
Đồng thời cần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành để đảm bào quyền học
tập của các em được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo quyền trẻ em. Nhà nước chú trọng
hơn nữa việc thiết lập hơn nữa các quan hệ với các nước để liên kết đào tào…..giúp
trẻ em Việt Nam có nhiều cơ hội học tập hơn nữa….

12


C. KẾT LUẬN
“Trẻ em như búp trên cành, Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” , là những
mầm non tương lai cho đất nước. Ngay từ lúc này mọi gia đình, toàn xã hội chúng
ta phải quan tâm nhiều hơn nữa tới trẻ em. Cần ban hành các văn bản pháp luật quy
định về quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em. Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và toàn xã hội
và gia đình hãy hành động để bảo vệ trẻ thơ. Tạo điều kiện cho các em được hưởng
những quyền cơ bản mà các em đáng được hưởng. Đặc biệt là quan tâm đến việc
học tập của các em, cho các em môi trường học tập tôt nhất. Điều này đòi hỏi trong
mỗi chúng ta phải nâng cao trách nhiệm của mình để không còn một em nào phải

bỏ học, không được đến trường. Để các em phát huy được khả năng tư duy của
mình và đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước sau này.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trinh Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Nxb. Công an nhân dân
2. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
3. Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp uỷ đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em .
4. Luật của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 25/2004/QH11

ngày 15 tháng 6 năm 2004 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
5. Đại học Huế, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB, Công an
nhân dân, Hà Nội, 2003.
6. Hiến pháp năm 1992 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)

14



×