Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Soạn bài đại cáo bình ngô của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.09 KB, 5 trang )

Soạn bài đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi
Tháng Tám 13, 2015 - Category: Lớp 10 - Author: admin

Đề bài: Soạn bài đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi văn 10
I.

Tìm hiểu chung

1.

Tác giả

a.

Cuộc đời



Nguyễn Trãi (1380 – 1442)



Quê hương: Chi Ngại – Phượng Sơn – lạng Giang ( nay thuộc Chí Linh – Hải Dương)



Cha là Nguyễn Phi Khanh một học trò nghèo nhưng học giỏi đỗ tiến sĩ, mẹ là Trần Thị thái con

của quan Trần Nguyễn Đán



Tuổi thơ ông phải gặp biết bao đau thương mất mát lên 6 tuổi thì mất mẹ, 10 tuổi mất ông ngoại



Năm 1400 ông đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều Hồ



Năm 1407 giặc Minh xâm lược bắt cha của tác giả sang trung Quốc, ông quyết đi theo để chăm

sóc cho cha nhưng nghe lời cha dặn Nguyễn Trãi quay về. Tuy nhiên ông bị bọn chúng bắt lại và
cuối cùng ông thoát được và tìm đến đầu quân cho Lê Lợi. Với sự lỗi lạc của mình ông trở thành
một quân sự đắc lực cho vua lê Lợi


Về sau khi dẹp xong giặc Minh thì ông bị nghi oan bị giam sau đó thả ra thì không được tin

tưởng như trước. Ông cáo quan về Côn Sơn ở ẩn


Vua Lê Thái Tông mời ông trở về thì chính luc ấy vua bị chết đột ngột và cái án oan Lệ Chi viên

cứ thế ập xuống đầu cả nhà ông.Và hình phạt thảm khốc nhất là tru di cửu tộc


Sau đó vua Lê Thánh Tông lên ngôi đã rửa oan cho Nguyễn Trãi

b.

Sự nghiệp văn thơ




Các tác phẩm chính như: quân trung từ mệnh tập, bình ngô đại cáo, dư địa chí, Chí Linh sơn

phú, ức trai thi tập, quốc âm thi tập…


Nôi dung thơ văn Nguyễn Trãi chủ yếu là thể hiện niềm tha thiết với thiên nhiên,con người và

đất nước
2.

Tác phẩm

a.

Hoàn cảnh sáng tác: năm 1407 giặc Minh đên xâm lược nước ta, khi ấy Lê Lợi đứng lên khởi

nghĩa lấy danh là Bình Định Đại vương. Trải qua mười năm kháng chiến gian lao nhân dân ta đã
đuổi được quân cướp nước về. Năm 1428 Nguyễn Trãi thayLê Lợi viết bài cáo này để thông báo
thắng lợi đến nhân dân
b.

Thể loại: cáo là loại văn nghị luận có thời cổ của Trung Quốc, thường để trình bày một chủ

trương, một sự kiện để cho mọi người cùng biết. Cáo được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần nhưng
phần nhiều là viết theo dạng văn biền ngẫu, có vần hoặc không có vần, thường có đối câu dài ngắn
không gò bó, mỗi cặp thường có hai vế đối nhau
c.


Bố cục: 4 phần




Phần 1: từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”: khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập dân

tộc của đất nước Đại Việt


Phần 2: tiếp cho đến “ai bảo thần dân chịu được” : nêu cao lòng căm thù, tố cáo tội ác của giặc

Minh


Phần 3: tiếp cho đến “cũng là chưa thấy xưa nay” :kể lại diễn biến cuộc chiến đầy gian lao anh

dũng


Phần 4: còn lại: lời tuyên bố hòa bình khẳng định ý nghĩa của cuộc chiến

II.

Tìm hiểu chi tiết

1.

Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập của đất nước Đại Việt




Mở đầu bài cáo nhà thơ nói về nhân nghĩa. Nhân nghĩa theo nho giáo tức là những việc làm tốt

đẹp. theo tác giả thì đó là những việc làm cho nhân dân được yên, trừ bạo ngược


Sau đó khẳng định nền văn hiến của nước Đại Việt ta đã có từ lâu đời



Tiếp đến khẳng định về chủ quyền: núi sông bờ cõi đã chia



Nước ta có phong tục tập quán riêng



Nghệ thuật đối, các vương triều nước ta với các vương triều Trung Quốc, Tuy là mạnh yếu nhiều

lúc khác nhau nhưng hào kiệt những người có tài thì nước ta đời nào cũng có
->

Nhà thơ khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, phong tục văn hóa, triều đại của nước ta nhằm khẳng

định nước ta là một nước độc lập có từ trước



Chính vì thế mà những việc làm bạo ngược sẽ tự chuốc lấy hậu quả, hàng loạt cái tên như Ô

Mã, Toa Đô, Triệu Tiết đều bại dưới tay nước ta
->

Qua đoạn thơ này tác giả muốn khẳng định nước ta là một nước độc lập, những việc làm bạo

ngược xâm chiếm lãnh thổ của giặc minh đã phải chịu những hậu quả vì tham vọng lớn


2.

Nêu cao lòng căm thù và tố cáo tội ác của giặc Minh



Nhân chính sự họ Hồ rơi vào bế tắc hỗn loạn, giặc Minh thừa cơ hội đã đến xâm lăng, bọn tay

sai bán nước cầu vinh cùng giặc làm hại nhân dân
->

Lòng dân oán hận



Tội ác của chúng gây ra với nhân dân ta



Nướng dân đen




Vùi con đỏ -> những đứa trẻ mới đẻ chúng cũng không tha



Lừa gạt nhân dân, gây binh kết oán



Không nhân nghĩa lại còn đặt ra hàng trăm thứ thuế vết hết cả tài nguyên thiên nhiên



Có người bị ép xuống mò ngọc trai



Có người bị đem đi đãi cát tìm vàng



Cướp đoạt hết cả động vật quý hiếm của đất nước



Tàn hại cả cây cỏ




Thế mà bản thân chúng thì: thằng nhe nang, đứa giơ vuốt, máu mỡ bấy ra no nê vẫn chưa chán

-> trông chúng như một lũ quỷ dữ mọi rợ chứ chẳng phải là người


Tội ác của chúng có lấy hết trúc Nam Sơn cũng không thể ghi lại cho hết được, dẫu có tắm hết

nước Đông Hải cũng không hết mùi
->

Tội ác của chúng được đúc kết trong những câu thơ ngắn gọn mà kể ra biết bao nhiêu việc làm

bạo ngược của chúng. Tội ác ấy trời không dung đất không tha lòng dân không bao giờ yên


3.

Quá trình khởi nghĩa và tất thắng của nhân dân ta

a.

Những khó khăn và quyết tâm của nhân dân ta



Tác giả kể về cuộc khởi nghĩa của vua Lê Lợi, vị vua ấy đã phải nếm mật nằm gai, đau đầu

nhức óc, quên ăn vì hận, rồi ngủ cũng mộng mị



Đã thế Lê Lợi lại phải gặp khó khăn khi tuấn kiệt và nhân tài khó thấy. Nghệ thuật so sánh cho

thấy sự hiếm hoi nhân tài trong lúc ấy


Nhưng người khởi sự ấy vẫn muốn tiến về Đông để dẹp giặc



Vua Lê tự dốc lòng mình mà cố gắng tìm người có tài cùng bàn bạc cách cứu lấy nước nhà



Phần vì hận bọn giặc ngang ngược phần lại lo vận mệnh nước nhà



Và sự cố gắng của Lê Lợi cũng có kết quả khi nhân dân dựng cờ trúc phấp phới, người cùng

chiến tuyến uống nước thay chén rượt ngọt ngào cùng nhau tiến đánh quân giặc
->

Ý chí kiên định không ngại khó khăn vất vả

b.

Những thắng lợi của nhân dân ta




Với mục tiêu lấy nhân nghĩa để đánh hung tàn, lấy chí nhân thay cho cường bạo



Các trận chiến oanh liệt nổ ra như trận Bồ Đằng, Trà Lân



Tây kinh quân ta chiếm lại



Đông đô đất cũ thu về



Những tên tướng hàng đâu như Vương Thông, Mã Anh… đều chữa cháy lại càng thêm cháy,

khắp các vùng diễn ra trận đánh, máu chảy thanh sông tanh trôi vạn dặm


Nhà thơ nhắc đến các ngày cụ thể thể hiện bước tiến công dồn dập của ta cũng như sự thất bại

từng giờ của giắc. Chúng càng đưa ra kế sách thì chúng càng đến với cái chết sớm hơn


Và cho đến trận cuối cùng thì tan tác chim muông giặc không lối thoát




Về phía giặc:



Ban đầu chúng hung hăng



Sau đó thua thì bày kế chặn nguồn lương thực nhưng lại càng thất bại thảm hại



Các cuộc chiến tiếp theo thua không có đường lui



Tuy nhiên cho đến cuối cùng khi kết thúc cuộc chiến nhân dân ta vẫn thể hiện tinh thần nhân

đạo thể hiện qua hành động phát cấp trăm thuyền ngựa cho Vương Thông về nước
->Đây quả là một trận chiến kì tích chưa nay chưa từng có, một nước nhỏ, độiquân yếu lại nhờ mưu
lược mà có thể thắng cả một đội quân hùng hậu lớn lao
4.

Tuyên bố hòa bình



Xã tắc từ đây sẽ được sống trong thái bình gấm vóc




Ngàn năm vết nhục đã được rửa sạch



Bố cáo cho thiên hạ để cùng biết

III.

Tổng kết




Bài cáo như một lời tố cáo đanh thép những tội ác mà giặc Minh đã gây racho nhân dân ta.

Chúng quá bạo ngược và gian ác nhưng chúng lại phải thua nhân nghĩa. Vì cường bạo chưa bao
giờ thắng cả. Với mưu lược tài tình, binh thư xét kĩ, vua Lê Lợi và quân đội của mình đã đem lai thái
bình cho đất nước



×