Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

CẤU TRÚC GIẢI PHẪU CỦA NHÓM RĂNG CỬA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.68 KB, 33 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh răng miệng là một bệnh phổ biến ở nước ta và trên thế giới. Tỉ lệ
người dân mắc bệnh sâu răng và viêm tuỷ còn cao. Do có nhiều cải tiến về kỹ
thuật và dụng cụ trong việc điều trị nên thay vì việc phải nhổ răng trước đây
xu hướng ngày nay là bảo tồn răng.
Điều trị nội nha đòi hỏi mỗi nha sĩ phải có hiểu biết hoàn chỉnh về hệ thống
tuỷ răng. Việc làm thủng thân răng khi tạo đường vào ống tuỷ, những sai lầm
trong định vị ống tủy, và gây thủng ra mặt ngòai chân hoặc thủng chóp
răng,hàn thiếu ống tuỷ đều dẫn đến thất bại. Vì vậy những người muốn làm
nội nha một cách hoàn hảo điều quan trọng đầu tiên cần nắm vững là hình thái
hệ thống các ống tuỷ. Không phải lúc nào trên X quang cũng phát hiện được
hết các chân răng, số lượng ống tuỷ và các ống tủy phụ. Vì vậy cần có kiến
thức hoàn chỉnh và kinh nghiệm chuyên môn về hình thái hệ thống tuỷ là yếu
tố quyết định quan trọng cho sự thành công trong việc điều trị nội nha.
I. Sự hình thành và phát triển của răng:
Giai đoạn phôi của bào thai người (giai đoạn phôi bắt đầu từ lúc phân hoá
tế bào đến khi hình thành các cơ quan) kéo dài trong 2 tháng đầu của thai
kỳ.Trong đó, giai đoạn phôi của hệ răng sữa bắt đầu vào thời gian cuối của
giai đoạn phôi của bào thai( tuần lễ thứ 6 đến thứ 8 trong bào thai và kéo dài
đến khoảng tháng thứ 6 sau khi sinh [nha khoa tre em].

1


Quá trình phát triển răng gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
1.1Sự hình thành mầm răng:
* Giai đoạn đầu: vào tuần lễ thứ 6 trong bào thai, lớp tế bào đáy của
biểu mô niêm mạc miệng dọc theo bờ tự do của xương hàm phát triển dày lên
hình thành lá răng. Lá răng hình thành gồm 3 giai đoạn:
+ Tháng thứ 2 trong bào thai: hình thành lá răng tiên phát cho hệ răng sữa.
+ Từ tháng thứ 5 trong bào thai đến tháng thứ 10 sau khi sinh : hình thành


các răng vĩnh viễn (1,2,3,4,5) thay thế cho các răng sữa tương ứng từ lá răng
tiên phát.
+ Hình thành lá răng cho các răng cối vĩnh viễn: răng cối thứ nhất lúc 4
tháng trong bào thai, răng cối thứ hai lúc 1 tuổi sau khi sinh và răng cối thứ ba
lúc 4-5 tuổi.
Các lá răng tiếp tục phát triển, hình thành 10 điểm ở mỗi hàm, tương ứng với
vị trí các răng sữa sau này: mầm răng.
*Giai đoạn mầm răng:sự dày lên của lá răng, khi tiếp tục phát triển, mầm
răng không phát triển đồng loạt mà có sự phát triển không đồng đều giữa các
phần khác nhau của mầm răng, trải qua các giai đoạn: mầm, nón, chuông. Sự
gia tăng đáng kể số lượng tế bào và kết quả của giai đoạn này là hình thành cơ
quan tạo men.

2


*Giai đoạn hình nón: thể hiện bởi sự tăng sinh và biệt hoá về phương diện
mô học và hình thể:
Lớp thượng bì men bên ngoài(lồi).
Mạng tế bào hình sao(trung tâm của cơ quan tạo men):hỗ trợ và bảo vệ men
bào..
Lớp tế bào trung gian.
Lớp thượng bì men bên trong(lõm).
Các đám tế bào của ngoại trung mô ở đáy của cơ quan men hình chỏm
tụ đặc thêm ở vùng lõm, gọi là nhú răng, đó là cơ quan tạo ngà và tuỷ.
Các tế bào xung quanh cơ quan men và nhú răng phân chia tạo thành
tế bào ngoại trung mô tụ đặc: bao mầm răng hay túi răng. Đến giai
đoạn này, mầm răng bao gồm cơ quan men( từ thượng bì niêm mạc miệng),
nhú răng (từ trung mô) và bao mầm răng (từ trung mô).


* Giai đoạn hình chuông : sự đi vào sâu bên trong lớp trung mô của tế bào
thượng bì. Thể hiện bởi sự tăng sinh, biệt hoá về phương diện mô học và hình
thể

3


Lớp thượng bì men bên trong của cơ quan tạo men ở phần mặt nhai sự phân
chia tế bào ngưng lại,tiếp theo là sự trưởng thành của lớp tế bào men bên
trong, hình thành tạo men bào.
Dưới ảnh hưởng của tạo men bào,các tế bào trung mô nằm ở ngoại vi của
như răng phân hoá thành tạo ngà bào.Ranh giới giữa men bào và tạo ngà bào
phác hoạ nên đường nối men-ngà trong tương lai.
Bờ tân cùng của cơ quan tạo men tạo ra bao thượng bì chân răng Hertwig

4


1.2 Tạo mô thân răng:
1.2.1Tạo ngà răng:
Theo Nguyễn văn Cát (..) và Hoàng Tử Hùng(…) việc tạo ngà răng xảy
ra trước quá trình tạo men răng. Trong quá trình tạo ngà răng, lúc đầu các tạo
ngà bào tạo ra thành phần hữu cơ của chất ngà, người ta gọi là chất tiền ngà
nằm chen vào giữa cực ngọn của tạo ngà bào và lớp ngà đa được vôi hoá, sau
đó muối vôi lắng đọng trên chất tiền ngà, để tạo thành chất ngà. Lớp ngà răng
được vôi hoá sớm nhất là lớp nằm sát màng đáy lót mặt trong cơ quan sinh
men. khi sự tạo ngà răng đa hoàn thành, ở mặt ngoài lớp tạo ngà vẫn còn một
lớp tiền ngà ch−a được vôi hoá(…)
1.2.2.Tạo men răng:


5


Theo Atkinson S.R.(..) ,Ten Cate(..), men răng được tạo ra bởi các tạo men
bào.Trước tiên các tạo men bào tạo ra một nền hữu cơ gồm có protein, hydrat
carbon và những muối phốt phát canxi dưới dạng aptit. Chất nền lúc đầu ít vôi
hoá,về sau được vôi hoá hoàn toàn. Chất nền vôi hoá có hình trụ đa diện, gọi
là trụ men. Sự vôi hoá bắt đầu ở những ống nhỏ nằm trong chất nền của trụ
men và tiến từ ngoại vi vào trung tâm trụ men. Cùng với sự lắng đọng muối
vôi, nước ngày càng mất đi, thành phần hữu cơ giảm. Khi muối vôi lắng đọng
đa chiếm tới 95% tổng khối lượng men răng, quá trình tạo men răng ngừng lại,
men răng đa trưởng thành.(..).

1.3 Hình thành chân răng:
Tạo ngà chân răng:

6


Khi cơ quan của răng đạt được kích thước cuối cùng của nó, biểu mô
men lớp ngoài và lớp trong gặp nhau, hình thành vành cổ, đường nối menxương răng tương lai. Sự tăng sinh, tăng trưởng không bị ngắt quang mà tiếp
tục phát triển để tạo ra một bao ở dưới vành cổ. Phần kéo dài chỉ gồm hai lớp
tế bào biểu mô men lớp trong và lớp ngoài, gọi là bao biểu mô chân răng
Hertwig. Bao biểu mô phát triển giữa túi răng và nhú răng cho đến khi bao bọc
lấy phần đáy của nhú răng, vành đai của bao hình thành một ổ hoạt động tăng
sinh, gấp khoảng 45 độ về phía trong để tạo thành hoành (màng ngăn) biểu
mô và thành lập biên giới phía chóp răng của nhú răng (và tạo thành lỗ chóp
răng sau này). Bao biểu mô chân răng Hertwig và hoành biểu mô được phủ ở
cả hai phía bởi màng đáy. Các tế bào biểu mô lớp trong của màng ngày càng
gần với tế bào nhú răng và hướng cho tế bào này tạo thành ngà chân răng. Dải

hình ống của bao biểu mô chân răng có thể được coi là khuôn cho chân răng.
Khuôn này quyết định không chỉ kích thước, độ dài và hình thể của chân răng,
mà còn quyết định số lượng chân răng sẽ có[mô phoi ] Trong trường hợp một
chân, bao chân răng vẫn giữ hình ống; trong trường hợp nhiều chân, bao này
bị chia thành hai hay nhiều ống, tuỳ thuộc vào số chân được tạo nên. Sau khi
lớp ngà chân răng hình thành thì bao Herwig thoái hoá, mất đi từng phần, có
thể chúng còn có mặt trong dây chằng nha chu, gọi là biểu mô còn sót lại
Malassez.

7


Nếu bao biểu mô chân răng mất tính liên tục trước khi ngà chân răng ở
vùng đó hình thành, sẽ không thể có sự biệt hoá của nguyên bào ngà, nơi đó sẽ
không có ngà chân răng. Kết quả là hình thành ống tuỷ phụ, nối thông vùng
quanh răng với tuỷ răng; ống tuỷ phụ có thể xuất hiện bất kỳ chỗ nào của chân
răng nhưng thường gặp nhiều ở phần ba chóp.

1.4 Tạo tuỷ răng:
Trong quá trình tạo ngà, mầm răng dạng chuông lớn dần,đạt đến kích
thước và hình dạng chân răng tương lai.Trong khi đó, nhú răng cũng lớn lên
nhờ quá trình tăng sinh tế bào, vùng nhú răng trở thành một khối tròn với

8


đoạn nhô về phía chóp, gọi là cơ quan tuỷ. Cơ quan tuỷ chứa mô liên kết,
mạch máu, bạch mạch, và thần kinh.Sau đó, thể tích nhú răng giảm dần do lớp
ngà dày lên.Thành phần chính về tế bào của cơ quan tuỷ là nguyên bào sợi,
trông như một lưới được sắp xếp tinh tế. Một số mạch máu lớn đến trung tâm

của tuỷ và nhiều mạch máu nhỏ ở phần ngoại vi. Có một số thân thần kinh kết
hợp với mạch máu vào trong tuỷ. Trong quá trình phát triển về sau, nhiều thần
kinh co myelin tiếp tục xuất hiện làm cho mô tuỷ trở nên có mạng lưới thần
kinh phong phú.

II CẤU TRÚC GIẢI PHẪU CỦA NHÓM RĂNG CỬA:
2.1 Hình thể ngoài của răng:
Răng được chia làm ba phần: thân răng, cổ răng và chân răng (do men,
ngà và xuơng răng tạo thành). Tuỷ răng là mô mềm được ngà bao bọc toàn bộ.
2.2 Cấu trúc của răng:
2.2.1. Men răng trưởng thành
Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc ngoại bì, là mô
cứng nhất trong cơ thể. Hàm lượng hydroxyapatit chiếm 86% thể tích và 96%
trọng lượng[3][9]. Men răng trưởng thành là sản phẩm tế bào có độ khoáng

9


hoá cao nhất và dòn nhất trong cơ thể. Sau khi trưởng thành, men răng không
còn khả năng sửa chữa khi có tổn thương , tuy nhiên quá trình tái khoáng (
đặc biệt là tái khoáng fluor) vẫn diễn ra nhằm tăng độ vững chắc giúp cho
chống lại sâu răng.
2.2.2.Ngà răng trưởng thành
-

Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, chứa tỉ lệ chất vô cơ thấp

hơn men(75%). Đặc điểm cấu trúc của ngà răng là nhiều thành phần và
đa dạng.
-


Ngà răng gồm các thành phần: đuôi nguyên sinh chất của nguyên bào

tạo ngà, ống ngà, ngà quanh ống, ngà gian ống. Bề dày ngà răng thay đổi trong
đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà. Ngà răng ngày càng dày theo
hướng hốc tuỷ răng, làm hẹp dần hốc tuỷ răng.
-

Những phản ứng của ngà trưởng thành:
Ngà xơ: quá trình dày lên của ngà quanh ống làm nhỏ dần và lấp các

ống ngà, được gọi là quá trình xơ hoá. Ngà xơ có biểu hiện đồng nhất và trong
như thuỷ tinh và không có cấu trúc ống ngà.
Quá trình xơ hoá của ngà là một quá trình lao hoá sinh lý và là phản ứng
bảo vệ. Hiện tượng xơ hoá bắt đầu từ ngoại vi,lan dần về phía tuỷ. Ngà răng
cũng có thể bị xơ hoá tại vùng có tổn thương, kích thích( mòn răng, sâu
răng..)

1


Vùng ngà chết:
Biểu hiện là các nhóm ống ngà rỗng, chứa không khí. Vùng ngà chết có thể
lan rộng tới đường nối men- ngà hoặc xương răng- ngà, vùng này có ranh giới
rõ ràng với vùng ngà xơ hoá lân cận. Vùng ngà chết có thể thấy ở cả răng lành
và răng bệnh, khi các đuôi nguyên bào tạo ngà hoặc cả nguyên bào tạo ngà của
nhóm ống ngà bị chết vì lý do nào đó.
Ngà thứ phát:
Toàn bộ phần ngà được hình thành trong giai đoạn trước khi chân răng
được hình thành xong ( đóng kín cuống) gọi là ngà nguyên phát. Phần ngà

được hình thành sau khi chân răng được hình thành xong gọi là ngà thứ phát.
Có hai loại ngà thứ phát:
Ngà thứ phát sinh lý( hay gọi là lớp ngà thứ hai): Lớp này có cấu trúc
đều đặn giống ngà nguyên phát hoặc có thể không đều giống ngà sợi dạng ống.
Quá trình tạo ngà thứ hai sinh lý chính là sự nối tiếp của quá trình tạo ngà
nguyên phát quanh tuỷ. ở sàn, trần buồng tuỷ lớp ngà này dày nhất sau đó đến
các thành buồng tuỷ và thành ống tuỷ chân.
Ngà thứ phát sửa chữa( còn gọi ngà thứ ba):lớp ngà này được hình thành khi
có đáp ứng kích thích từ bên ngoài( sâu răng, tạo lỗ hàn..), lớp này có cấu trúc
không đều là kết quả của các hoạtđộng bảo vệ của phức hợp ngà- tuỷ. Chỉ có
thể thấy lớp ngà này ở vùng dọc theo mặt tiếp giáp ngà- tuỷ.

1


2. Hình thái giải phẫu tủy:
Tuỷ răng là phần mô mềm nằm trong khoang rỗng của tổ chức cứng
trong răng bao gồm tuỷ buồng và các ống tuỷ chân.
Kích thứơc khoang tuỷ phụ thuộc vào tuổi và tiền sử sang chấn răng.
Nhìn chung hình thái giải phẫu buồng tủy và hệ thống ống tủy tương xứng
với hình thể ngoài của thân và chân răng. Tuy nhiên từ nghiên cứu của Hess
(1925) bằng phương pháp khử khoáng mô cứng cho tới những nghiên cứu gần
đây bằng kính hiển vi lập thể và hiển vi điện tử quét, nhiều tác giả đa mô tả
cấu trúc phức tạp của hệ thống ống tủy trong lòng mô cứng: Sự phân nhánh
của các ống tủy phụ, các đoạn cong bất thường của ống tủy chính và hình thể
đa dạng của hệ thống ống tủy trên diện cắt ngang.
Hình thái hốc tuỷ:
Các chân răng nằm theo trục của chân răng.

1



2.1 Hình thái tuỷ của các răng trước hàm trên
2.1.1Răng cửa giữa hàm trên: Mặt cắt theo chiều trong ngoài:
Cấu tạo khoang tuỷ nhìn chung giống hình thể ngoài của thân và chân
răng. Buồng tuỷ hẹp ở rìa cắn. Nếu có sự tái tạo ngà phản ứng hay ngà thứ
phát một cách mạnh mẽ, buồng tuỷ sẽ bị xoá mờ một phần hoặc toàn bộ . ở
vùng cổ răn, kích thước trong ngoài của buồng tuỷ tăng tới mức lớn nhất.
Phía dưới vùng cổ răng, ống tuỷ chân thuôn nhỏ dần, tận hết ở một điểm
thu hẹp ở cuống răng. Lỗ cuống răng nằm gần chóp chân răng, có thể hơI thiên
về phía ngoài hoặc phía trong của chân răng. Chính vì đặc điểm này, nhiều
nha nghiên cứu cho rằng sau khi hàn kín hệ thống ống tuỷ, trên phim X
quang, điểm tân cùng của ống tuỷ đa hàn phảI nằm cách cuống trên X
quang khoảng 1mm.
Mặt cắt theo chiều gần xa:

1


Kích thước gần xa của buồng tuỷ rộng hơn theo chiều trong ngoài. Cấu tạo
khoang tuỷ giống hình thể ngoài của răng. Nếu có hoặc đa có sự xuất hiện các
múi răng thì bao giờ cũng thấy các song tuỷ kéo dài rõ rệt về phía rìa nhai.
Khoang tuỷ thuôn nhỏ dần, tận hết ở một điểm thu hẹp ở cuống răng. Lỗ
cuống răng thường không nằm đúng giữa chóp chân răng, đôI lúc lệch rất
nhiều so với chóp chân răng.
Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Khoang tuỷ rộng nhất ở vùng cổ răng. Tổ chức tuỷ buồng nằm chính
giữa, xung quang là ngà chân răng. ở những người trẻ tuổi , hình thể của tuỷ
buồng trên mặt cắt ngang là hình tam giác với đáy nằm ở mặt môi của chân
răng.Khi có sự tái tạo ngà sửa chữa hoặc ngà thứ phát, buồng tuỷ trở thành

dạng tròn hay hình vòng cung dạng lưỡi liềm.Hình thể ngoài của thân răng
vùng cổ có dạng tamgiác điển hình với các góc tròn, đôi khi có 1 số dạng hình
vuông. Chân răng và ống tuỷ chân có xu hướng tròn ở khoảng giữa chân răng
hơn là đoạn cổ răng Cấu trúc giải phẫu ở mức ngang với đoạn giữa chân răng
và mức cổ răng gần tương tự nhau, chỉ có sự khác biệt về kích thước.

1


2.1.2 Răng cửa bên hàm trên:
Mặt cắt theo chiều trong ngoài:
Cấu trúc giải phẫu của răng cửa bên rất giống cấu trúc giải phẫu của răng
cửa giữa. Cấu tạo khoang tuỷ nhìn chung giống hình thể ngoài của thân và
chân răng. Sừng tuỷ nổi cao rõ rệt. Buồng tuỷ hẹp ở rìa cắn và rộng dần về
phía cổ răng. Trên mặt cắt trong ngoài, xung quanhvùng chóp chân răng có rất
nhiều các lỗ cuống nhỏ, trong khi đó ở 1 số mẫu răng chỉ có 1 lỗ cuống răng
thoát ra ở mặt trong hay mặt ngoài chân răng.
Mặt cắt theo chiều gần xa:
Khoang tuỷ cấu tạo theo đường viền ngoài của răng. Khi nhìn từ bình diện
ngoài thấy các song tuỷ tròn. Buồng tuỷ và ống tuỷ thuôn nhỏ dần về phía
cuống. ống tuỷ thường rất cong ở đoạn cuống.

1


Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Khoang tuỷ rộng nhất ở vùng cổ răng. Hình thể ngoài của thân răng
vùng cổ có thể dạng tam giác, o van hay hình tròn.
2.1.3 Răng nanh hàm trên : Mặt cắt trong ngoài :
Răng nanh hàm trên có đường kính trong ngoài chân răng lớn nhất so với

các răng khác trong miệng. Do khoang tuỷ tương xứng với hình thể ngoài của
răngnên buồng tuỷ cũng có kích thước lớn nhất so với các răng khác.ống tuỷ
thuôn nhỏ dần từ buồng tuỷ tới lỗ cuống răng.Một số răng nanh có ống tuỷ ở
đoạn 1/3 chóp cong rất nhiều.Lỗ cuống răng có thể ở chính giữa tại phần chóp
chân răng hoặc lệch ra ngoài so với chóp chân răng.
Mặt cắt theo chiều gần xa:
So với mặt cắt trong ngoài khoang tuỷ hẹp hơn nhiều, kích thước và đọ
thuôn của ống tuỷ tương tự như răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trênmặc
du răng nanh có chân răng dài hơn. Khoang tuỷ thuôn nhỏ dần từ vùng rìa cắn
tới lỗ cuống răng.Lỗ cuống răng có thể nằm đúng vị trí của chóp chân răng
hoặc lệch về phía gần hoặc phía xa chân răng.
Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Hình dáng chân và khoang tuỷ có dạng oval, tam giác, và dạng ellip.
Buồng tuỷ và ống tuỷ nằm chính giữa thân và chân răng.

1


2.2 Hình thái tuỷ các răng trước hàm dưới
2.2.1. Răng cửa giữa hàm dưới :
-

Mặt cắt trong ngoài :
Răng cửa hàm dưới là răng nhỏ nhất của cả hai cung hàm nhưng kích thước

trong ngoài của răng rất lớn .Răng thường có một ống tuỷ nhưng khả năng tìm
thấy 2 ống tuỷ cũng khá cao . ống tuỷ thuôn nhỏ về phía cuống lỗ cuống răng.
Lỗ cuống răng có thể ở ngay vị trí chóp chân răng hoặc thiên về phía mặt
ngoài chân răng
- Mặt cắt gần xa :

Nhìn từ bình diện ngoài khoang tuỷ trên cắt gần xa rất hẹp . Chỉ có duy nhất
1sừng tuỷ nhô cao ở răng cửa hàm dưới . Ông tuỷ hẹp thuôn dần từ buồng tuỷ

1


tới phần cuống răng. Lỗ cuống răng có thể nằm ngay đỉnh chóp chân răng
hoặc thiên phía xa của chóp chân răng.
- Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Kích thước gần xa của chân răng trên mặt cắt ngang qua cổ răng rất nhỏ trong
khi kích thước trong ngoài lại rất lớn.Hình thể ngoài rất đa dạng:tròn, ovan,
ellip.

2.2.2 Răng cửa bên hàm dưới:
-Mặt cắt trong ngoài:
Răng cửa bên hàm dưới có xu hướng lớn hơn răng cửa giữa nên khoang tuỷ
cũng lớn hơn.Chức năng và cấu trúc của răng này giống như răng cửa giữa.

1


- Mặt cắt gần xa:
Khoang tuỷ trên mặt cắt gần xa thon mảnh.Hình thái khoang tuỷ giống với
răng cửa giữa nhưng kích thước có đôi chút rộng hơn.
- Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Khoang tuỷ chính nằm chính giữa chân răng. Hình thể chân răng rất đa dạng,
biến đổi từ oval sang dạng ellip.
2.2.3 Răng nanh hàm dưới
-Mặt cắt trong ngoài:
Khoang tuỷ của răng nanh hàm dưới có hình thể và kích thước tương tự như

răng nanh hàm trên nhưng đôi chút ngắn hơn hoặc có khi dài hơn.Khả năng có
hai chân hoạc có hai ống tuỷ rất hay xảy ra.Sừng tuỷ nhô cao nếu không có sự
mòn răng.Buồng tuỷ thường rất rộng nhưng cũng có thể có đọ lớn trung
bình.Một số răng nanh có khoang tuỷ thu hẹp ngay dưới buồng tuỷ cho tới tận
cuống răng.
- Mặt cắt gần xa:
Kích thứơc răng nanh theo chiều gần xa rất hẹp.Trên mặt cắt này, đoạn cuống
của chân răng rắt hẹp. Chiều cong của ống tuỷ thường nghiêng về phía gần.
Sừng tuỷ nhô cao, đỉnh sừng tuỷ tù. Buồng tuỷ và ống tuỷ có dạng thuôn liên
tục về phía cuống. Lỗ cuống răng ở đỉnh chóp chân răng hoặc hơi thiên về
phía gần hoặc phía xa.

1


- Mặt cắt ngang qua cổ răng:
Hình thể ngoài chân răng có thể dạng oval, hình vuông, hình tam giác. Kích
thước và hình dạng ống tuỷ có rắt nhiều thay đổi. Hình thể khoang tuỷ tương
tự như hình thể ngoài chân răng.

3. Cấu trúc mô học của tủy răng:
-

Tủy răng là mô mềm có nguồn gốc trung mô, nằm trong một khoang

cứng nên rất dễ bị hoại tử khi có tác nhân gây viêm.
-

Ba đặc tính mô học quan trọng nhất trong bệnh lý tủy


2


Sự mất cân xứng giữa thể tích mô tủy và hệ thống cung cấp máu. Đây thực
chất là hệ thống vi tuần hoàn nên lượng máu cung cấp không đủ cho sự hàn
gắn mô tủy bệnh.
Hệ thống cung cấp máu thiếu cấu trúc tuần hoàn phụ. Các tiểu động mạch đi
qua lỗ cuống bên sẽ bị tắc dần theo qua trình canxi hoá.
Thể tích buống tủy không thay đổi nên tủy rất dễ bị hoại tử vô mạch ngay
trong giai đoạn phản ứng huyết quản huyết của viêm do hiện tượng tăng áp
lực của phản ứng gian mạch, tăng tính thấm thành mạch và thoát dịch phù
viêm.
A/ Các vùng chức năng của mô tủy:
+ Lớp nguyên bào tạo ngà
- Harry Sicher (1955) cho rằng lớp nguyên bào tạo ngà nằm sát lớp tiền ngà có
chức năng duy trì cân bằng hoá sinh của mô tủy.
- Năm 1963, quan sát dưới kính hiển vi điện tử, Selzer và Bender thấy vùng liên
kết chức năng này là phức hợp 3 loại: (1) vùng liên kết không thẩm thấu; (2)
vùng liên kết dính; (3) vùng liên kết lưu thông.
- Các nguyên bào tạo ngà nằm xen kẽ các đầu tận của mạch máu và thần kinh,
quyết định tính thấm của các phân tử, các ion và các loại dịch giữa lớp tiền
ngà và mô tủy.

2


+ Lớp tế bào thưa thớt:
Là vùng đệm, rải rác rất ít tế bào , nằm sát lớp nguyên bào tạo ngà. Sự
xuất hiện của lớp tế bào này phụ thuộc vào tình trạng chức năng của mô tủy,
tuổi răng và quá trình hình thành ngà thứ phát.

+ Lớp tế bào dầy đặc:
- Chứa nguyên bào xơ, đại thực bào và lympho bào. Các nguyên bào xơ sẽ di
chuyển ra vùng ngoại vi, biệt hoá thành các nguyên bào tạo ngà thay thế các
nguyên bào đa bị tổn thương không hồi phục.
+ Vùng trung tâm:
-

Chứa mạch máu và thần kinh của mô tủy, xen kẽ các tế bào của mô liên

kết gồm tế bào xơ và tế bào trung mô.
B/ Thành phần cấu trúc mô tủy: Thành phần tế bào:
-

Nguyên bào tạo ngà: Là tế bào biệt hoá cao, ở vùng thân răng chúng

tạo nên một lớp tế bào giả tầng, thân tế bào hình trụ, nhân luôn luôn ở phía cực
đáy; các tế bào có chiều dài khác nhau và chờm lên nhau một phần. ở vùng
chuyển tiếp giữa thân và chân răng, các nguyên bào ngà cũng có dạng trụ giả
tầng. ở khoảng phần ba giữa chân răng, các nguyên bào có dạng khối vuông
hay dạng chóp. ở phần ba chóp của tuỷ chân răng các nguyên bào trở nên ngắn
và dẹt. ở vùng chóp thường không thấy lớp nguyên bào ngà.(Mô phôi răng
miệng)

2


- Nguyên bào sợi: là loại tế bào có nhiều nhất trong tuỷ răng. Chúng chịu trách
nhiệm trong việc sản xuất và luân chuyển các chất gian bào.
- Các tế bào trung mô chưa biệt hoá: hay còn gọi tế bào dự trữ.Or
ban(1929) coi chúng là các tế bào bảo vệ tuỷ, chúng nằm ở vùng giàu tế bào

phía dưới lớp nguyên bào ngà.
- Các loại tế bào khác: ngoài các tế bào kể trên, mô tuỷ lành mạnh luôn chứa các
tế bào thường trực tự do (mô bào, bạch cầu đơn nhân, lympho bào).
Cấu trúc sợi: gồm 2 loại:
- Sợi chun: bao quanh thành các tiểu động mạch.
- Sợi tạo keo (collagen) tạo nên cấu trúc đệm gian bào, được tổng hợp từ
nguyên bào xơ và nguyên bào ngà có cấu trúc là hỗn hợp 2 loại: týp I và týp
III theo tỷ lệ 55 : 45.
Chất căn bản:
- Các thành phần tế bào và sợi của tuỷ răng được bao bọc bởi chất căn bản dạng
gel, chất căn bản này chứa nhiều nước, nhiều loại glyco s aminoglycan khác
nhau, các glucoprotein, proteoglycan.Thành phần cấu tạo của các chuỗi phân
tử và độ nhớt của chất căn bản ảnh hưởng tới tốc độ lan toả phản ứng viêm.
Van Hassel cho rằng các bó sợi tạo keo cùng chất căn bản làm thay đổi áp lực

2


dịch mô, hình thành hàng rào chắn đối với vi khuẩn và độc tố vi khuẩn, ngăn
chặn sự lan rộng của phản ứng viêm.
Cấu trúc thần kinh: Gồm 2 loại sợi thần kinh chủ yếu:
- Sợi A - : Là sợi thần kinh có myelin, dẫn truyền cảm giác ê buốt, nằm chủ yếu
ở danh giới tủy - ngà, có ngưỡng kích thước thấp.
- Sợi C: Không có myelin, phân bố rải rác trong mô tủy, dẫn truyền cảm giác
đau, nhiệt, có ngưỡng kích thước tương đối cao, thường do tổn thương mô.

ảnh chụp mẫu tuỷ răng người dưới kính hiển vi
D - Ngà răng(Dentin)
P- Tiền ngà( Predentin)
O – Lớp nguyên bào tạo ngà(Odontoblast layer) CF – Vùng tế bào tự do(Cell free zone)

CR – Vùng giàu tế bào(Cell - rich zone) CP – Tuỷ trung tâm( Central pupl)

2


4. Chức năng của tủy răng:
- Mô tủy có 4 chức năng đối với quá trình phát triển sinh lý và tiến triển bệnh lý
của mô cứng cũng như mô mềm với các tác nhân ngoại lai cũng như nội tại:
-

Chức năng tạo ngà: gồm 2 quá trình:

+ Tạo ngà sinh lý trong quá trình phát triển răng.
+ Tạo ngà phản ứng trong các tổn thương mô cứng.
- Chức năng dinh dưỡng: Chứa hệ thống mạch máu nuôi dưỡng toàn bộ các
thành phần sống của phức hợp tủy - ngà.
-

Chức năng thần kinh: dẫn truyền cảm giác và thần kinh vận mạch.

-

Chức năng bảo vệ: Qua 2 quá trình:

+ Tái tạo ngà răng.
+ Đáp ứng miễn dịch.
Một số nghiên cứu về hình thái giải phẫu tuỷ răng cửa hàm dưới
1. Benjamin, K.A. and J.Dowson(1974): ”Incidence of two root canal in human
mandibular incisor.” Oral Surg Oral Med Oral Pathol 38(1):122-6.
2. Gomes,B.P., H.H. Rodrigues, et al (1996)”.The use of a modeling technique to

investigate the root canal morphology of mandibular incisor.”Int Endod J
29(1):29-36.

2


×