LỚP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP K17B
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
NHÓM SỐ 5
ĐỀ TÀI SỐ 3
THỰC TRẠNG NỢ XẤU
TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN
: THS TRƯƠNG MINH TUẤN
NHÓM THỰC HIỆN
: 25 LÊ NGUYỄN NGỌC LẬP
26 TRẦN HOÀNG LINH
27 HỨA THẮNG LỘC
28 NGUYỄN THÀNH LUÂN
29 NGUYỄN THỊ MAI
Nhóm số 5
3
TPHCM, NGÀY 29 THÁNG 9 NĂM2014
ĐÁNH GIÁ NHÓM
STT
THÀNH VIÊN
25
26
27
28
29
LÊ NGUYỄN NGỌC LẬP
TRẦN HOÀNG LINH
HỨA THẮNG LỘC
NGUYỄN THÀNH LUÂN
NGUYỄN THỊ MAI
PHÂN CÔNG ĐỀ TÀI
Nguyên nhân của nợ xấu
Tổng hợp và biên soạn tài liệu
Khái niệm nợ xấu và ảnh hưởng
Nguyên nhân của nợ xấu
Thực trạng nơ xấu tại các NHTM
HOÀN
THÀNH
100%
100%
100%
100%
100%
ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
MỤC LỤC
Nhóm số 5
5
Nhóm số 5
7
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền
kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các NHTM. Nợ xấu
được ví như “cục máu đông” trong mạch máu của nền kinh tế. Đề tài sẽ tập
trung phân tích thực trạng và nguyên nhân nợ xấu tại các NHTM Việt Nam
Nhóm số 5
9
1. NỢ XẤU & ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ XẤU ĐẾN DOANH NGHIỆP,
NỀN KINH TẾ
1.1.
NỢ XẤU
Nợ xấu là khoản vay trong hạn (chưa hết hạn), khoản vay bị quá hạn
thanh toán mà người đi vay không còn khả năng thanh toán số tiền gốc
và lãi cho NHTM.
Nợ xấu còn gọi là nợ nhóm 3 đến nhóm 5.
•
Nợ nhóm 3: gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi hoặc gốc trên 90
ngày, đồng thời quy định các NHTM căn cứ vào khả năng trả nợ của
khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90
ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa
•
của chung trong giới tín dụng chuyên ngành.
Nợ nhóm 4 – nhóm 5: Ở giai đoạn này nếu bạn không thanh lý
khoản vay thì nguy cơ ra tòa là điều đã đươc dự đoán trước và mọi
chi phí phát sinh, có lẽ người chịu thiệt thòi là người đi vay ( bao
gồm tiền án phí, chi phí đi lại, lãi phạt 150%,….)
Và khi khách hàng bị nợ xấu từ nhóm 3 trở lên sẽ rất khó được NHTM
duyệt vay lại ít nhất là 5 năm.
Như vậy nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá
hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ
nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã
tẩu tán tài sản. Nợ xấu bao gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi hoặc gốc
trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để
hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Nhóm số 5
11
Tham khảo thêm Thông tư 02/2013/TT-NHNN và 14/2014/TT-NHNN về
việc phân loại nợ.
1.2.
TÁC ĐỘNG CỦA NỢ XẤU
Đối với Ngân sách :
Nợ xấu ra tăng tạo ra gánh nặng ngân sách trong vấn đề xử lý nợ
xấu.Các nguồn thu ngân sách đang ngày càng khó khăn do sự đình
trệ của nền kinh tế. Về dài hạn, nếu việc xử lý nợ xấu gây ra bội chi
ngân sách sẽ tiềm ẩn rủi ro lạm phát, gây bất ổn nền kinh tế
Đối với Ngân hàng:
Nợ xấu tăng đe dọa an toàn hoạt động của cả hệ thống NHTM: Nếu
nợ xấu không được xử lý kịp thời, có thể gây ra sự đổ vỡ của một số
NHTM yếu kém, khi đó nó sẽ có thể gây ra tác động lan truyền đến cả
hệ thống NHTM, gây mất niềm tin của người dân, của nhà đầu tư, của
doanh nghiệp, của các tổ chức quốc tế. Nghiêm trọng hơn nó có thể
dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ vốn
chủ sở hữu so với tổng dư nợ vào khoảng 14% (trung bình cho cả hệ
thống NHTM). Nghĩa là nợ xấu chỉ cần tăng tới 14% là hệ thống
NHTM đã có nguy cơ thâm hụt lớn về vốn chủ sở hữu.
Đối với nền Kinh tế:
Khi nợ xấu ra tăng gây đình trệ nền kinh tế. Khi nợ xấu tăng, NHTM
phải trích lập dự phòng rủi ro, do đó lượng vốn đưa vào lưu thông bị
hạn chế. Nếu nợ xấu tăng quá cao NHTM sẽ rất hạn chế cho vay đồng
nghĩa với dòng huyết mạch của nền kinh tế bị nghẽn lại, các thành
phần khác của nền kinh tế (doanh nghiệp, hộ sản xuất,…) cũng khó
tiếp cận nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh
Nhóm số 5
13
Nợ xấu là vấn đề thường trực trong NHTM, vì hoạt động tín dụng luôn
có rủi ro. Trong quá trình hoạt động, các NHTM luôn phát sinh những
khoản nợ xấu. Nợ xấu của hệ thống NHTM gia tăng không có nghĩa
rằng chính hệ thống NHTM là tác giả của những khoản nợ xấu này, bởi
vì việc phát sinh những khoản nợ xấu này là do khách hàng vay không
trả được nợ dẫn đến nợ xấu. Khi nói về nợ xấu, tại sao nợ xấu lại gia
tăng chúng ta cần xem xét các nguyên nhân từ phía Chính Phủ, các
NHTM, tình hình nền kinh tế và người vay có liên quan như thế nào .
2. THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM
Theo số liệu giám sát đến cuối tháng 6/2011 của Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu thực tế của hệ thống các TCTD là 6,62%
tổng dư nợ tín dụng. Nếu phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế thì tỉ lện
nợ xấu của hệ thống các TCTD có thể lên tới 2 chữ số (Tổ chức xếp
hạng Fitch Rating đánh giá ở mức 13%), khi đó trích lập dự phòng đầy
đủ thì nhiều TCTD của Việt Nam bị lỗ, thậm chí không còn vốn tự có.
Tình hình nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam từ 2009 tới 02/2013
Nhóm số 5
15
Cơ cấu nợ xấu của Việt Nam
Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD tại thời điểm 30/9/2012
Nhóm số 5
17
Tại cuộc họp báo cuối tháng 4/2014, NHNN cũng cho biết nợ xấu đến
hết tháng 2/2014, nếu gộp cả các khoản đã được tái cơ cấu, lên tới gần
308.000 tỷ đồng (chiếm 9,71% dư nợ).
3. NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ XẤU
3.1.
YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, môi trường kinh tế vĩ
mô khó khăn làm giảm khả năng trả nợ của người vay khiến chất lượng
tài sản của hệ thống NHTM suy giảm. Trong giai đoạn 2008-2010, nền
kinh tế Việt Nam đã đối diện với tình trạng lạm phát cao, đồng thời chịu
tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, tái lặp lạm phát cao làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế suy
giảm. Điều này phản ảnh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu
tiêu dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong
sản xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các NHTM.
Nhóm số 5
19
3.2.
•
YẾU TỐ BÊN TRONG DOANH NGHIỆP
Bên cạnh sự tác động của suy thoái kinh tế , việc tăng trưởng dựa
vào vốn là chính, trong khi công nghệ, mà cụ thể là quản lý không
theo kịp, doanh nghiệp càng vay nhiều càng khó có khả năng quản lý
hiệu quả các đồng vốn vay.
•
Nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa
vào vốn vay NHTM, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự
thay đổi môi trường kinh doanh kém. Vì vậy khi môi trường kinh
doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng thì các
doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về khả năng trả nợ. Theo kết quả giám
sát của Cơ quan thanh tra, giám sát NHTM, đến cuối tháng 3/2012,
trong hơn 1 triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD
của Việt Nam có 10.782 khách hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3
•
lần trở lên.
Tình trạng kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp, nhất là DNNN.
Các công ty và dự án NN kinh doanh kém hiệu quả, quan liêu, tham
nhũng dẫn đến thua lỗ. Có đến 70% nợ xấu là nợ của các DNNN do
đây là nhóm có nhiều thuận lợi trong tiếp cận tín dụng và chiếm thị
phần lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế. Phần nợ xấu
lớn thứ hai sau DNNN xuất phát từ một số doanh nghiệp tư nhân lớn,
Nhóm số 5
21
trong đó tập trung chủ yếu là các khoản vay đầu tư bất động sản,
chứng khoán, đầu tư ngoài ngành,…Nhiều doanh nghiệp dùng nợ
ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Các chủ đầu tư dự án dùng vốn không
đúng mục đích, lạm dụng đòn bẩy tài chính quá nặng tay, đầu tư dàn
trải, thiếu khảo sát nên chưa am hiểu thị trường...Sau khi thua lỗ, chủ
đầu tư đã thế chấp dự án, bán công ty gây nên tình trạng sở hữu
chồng chéo hoặc bị xiết nợ và không còn tiền để tiếp tục xây dựng.
3.3.
•
YẾU TỐ TỪ CÁC NHTM
Rủi ro tín dụng: Như đã nói ở trên, để đáp ứng nhu cầu về đầu tư sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân, nguồn vốn kinh
doanh của họ chủ yếu dựa vào hệ thống NH, nên đã có hiện tượng
“tín dụng nóng” (Tốc độ tăng của vốn tín dụng quá nhanh so với vốn
huy động và hiệu quả đầu tư giảm sút). Đặc biệt nguy hiểm với khách
hàng là hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước có tình hình tài chính kém lành mạnh, kinh doanh kém
hiệu quả. Khi nền kinh tế gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng gia tăng,
nhất là trong những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp
tín dụng cho vay và không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng đầy đủ. Đặc biệt, sự hấp dẫn của thị trường bất động sản và
chứng khoán trong thời gian trước đã khiến nhiều NHTM tập trung
quá nhiều vốn cho những thị trường đầy rủi ro này, góp phần không
nhỏ vào thổi phồng “bong bóng” bất động sản và chứng khoán.
Những lúc thị trường này đảo chiều đi xuống thì nguy cơ rủi ro lại
tăng cao. Mặt khác, do một số NHTM mới thành lập nên mặc dù qui
mô vốn không lớn song vẫn cần tăng nhanh qui mô tín dụng để qui
mô tài sản có phù hợp với qui mô vốn, đồng thời, nhằm đáp ứng yêu
cầu lợi nhuận của cổ đông, cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh
Nhóm số 5
23
chóng vươn lên bằng các NHTM có qui mô lớn và bề dày kinh
nghiệm khác. Trong điều kiện đó, những ngân hàng này đã bất chấp
các qui tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc độ tăng tín
dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh
•
vực rủi ro cao.
Rủi ro thanh khoản: Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín
dụng và tài sản có quá cao trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính
thanh khoản của những NHTM này xuống thấp, thậm chí có những
thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là, để bảo đảm tính thanh
khoản, một số NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng lên tới 20%-30%/năm, thậm chí trên 40%/năm bất chấp lãi
suất tái chiết khấu do NHNN công bố chỉ là 13%/năm (theo số liệu
năm 2012). Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng
chục ngàn tỉ trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo
đảm thanh khoản cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi
với rủi ro kỳ hạn khi đại đa số vốn huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí
rất ngắn song các NHTM lại cấp tín dụng với một tỷ lệ không nhỏ
•
dành cho vay trung và dài hạn.
Rủi ro lãi suất: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát cao
và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ
thống NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động
lớn, đột ngột về lãi suất, cả huy động và cho vay, cùng với những
biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến
cho các NHTM thường xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy
đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao
để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì vậy, hiện tượng “vượt trần, phá
rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến .
Nhóm số 5
25
•
Rủi ro về đạo đạo đức: Nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo
đức nghề nghiệp của một số cán bộ NH và khách hàng. Kinh doanh
NH dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo đức làm nghề
nghiệp NH không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt buộc. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ NH đã cấu kết với
khách hàng để che dấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của
NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có số liệu công bố cụ thể nhưng
trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo
đức nghề nghiệp.
Tóm lại ta có :
Thứ nhất khi lãi suất tăng cao,trong điều kiện thông tin bất cân xứng
,các cá nhân và doanh nghiệp có rủi ro cao luôn sẵn lòng vay vốn với
lãi suất cao , trong khi dự án có rủi ro tín dụng thấp ít có khả năng vay
vốn.
Thứ hai , lãi suất cao làm cho thị trường chứng khoán sụt giảm , nghĩa
là giá trị thuần của doanh nghiệp sụt giảm (chênh lệch giữa tài sản và
nợ phải trả) , làm tăng rủi ro đối với người cho vay . Thêm nữa , các
công ty lại có động cơ vay mượn vốn nhiều hơn để đầu tư vào các dự án
có rủi ro cao làm gia tăng rủi ro đạo đức.
Thứ ba , khi các ngân hàng rơi vào trạng thái thua lỗ và tạo ra phản
ứng dây chuyền trong hệ thống , người gửi tiền không rõ danh mục đầu
tư của NH, họ lo sợ cho khoản tiền gửi của mình và ào ạt đến NH rút
tiền.Các ngân hàng bị thiếu hụt nguồn vốn thanh toán và thu hẹp nguồn
cung cho vay , làm lãi suất lại tăng cao .
Như vậy ba yếu tố trên làm tăng vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo
đức trong thị trường tín dụng, người vay không dám cho vay làm giảm
Nhóm số 5
27
đáng kể số vốn cho vay, thu hẹp đầu tư và các hoạt động kinh tế, nợ xấu
lại diễn biến trầm trọng hơn.
•
Cạnh tranh giữa các TCTD: thiếu lành mạnh, thiếu sự hợp tác giữa
các TCTD dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính sách, pháp luật trong hoạt
động ngân hàng không tôn trọng: Phương thức, chiến lược kinh doanh
và cạnh tranh của các TCTD trong nước nhiều hạn chế. Mục tiêu chạy
theo lợi nhuận đã lấn át yêu cầu bảo đảm an toàn kinh doanh của các
TCTD và dẫn tới vi phạm quy định pháp luạt về hoạt động ngân hàng
khá phổ biến. Phương pháp cạnh tranh chủ yếu của các TCTD Việt
•
Nam là bằng giá/lãi suất, chưa coi trọng chất lượng dịch vụ
Năng lực quản trị rủi ro của các NHTM
o Năng lực của cán bộ tín dụng về thẩm định còn hạn chế ,công tác
thẩm định không kỹ lưỡng, nghiêm ngặt, không đánh giá một cách
toàn diện, chính xác những rủi ro của khoản vay, thiếu hiểu biết
đầy đủ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong thời điểm
hiện tại cũng như tương lai, đánh giá quá lạc quan, thiếu phân tích
ảnh hưởng tiềm ẩn của môi trường xung quanh, biến động bất
o
thường của kinh tế trong và ngoài nước.
Quá trình xét duyệt hồ sơ: có trường hợp NHTM bỏ qua một thực
tế thủ tục và hồ sơ vay vốn của khách hàng không đầy đủ, hay hồ
sơ vay vốn của khách hàng là hồ sơ ảo. Do đó làm mất đi sự chính
o
xác và tính hiện thực khi xem xét hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Vẫn còn nhiều NHTM Việt Nam biến nghiệp vụ cơ cấu nợ, vốn là
một nghiệp vụ bình thường của NHTM thành một hình thức để
giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do nợ cơ cấu không được tính vào nợ
xấu. Đồng thời, không ít NHTM đã hạn chế phân loại nợ xuống
nhóm 3 – 5 để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh
hưởng đến lợi nhuận của mình.
Nhóm số 5
29
o
Công nghệ NHTM còn nhiều bất cập so với yêu cầu hoạt động.
Công nghệ NHTM lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh
doanh, nhất là công tác quản trị hệ thống trong điều kiện các
NHTM Việt Nam có sự mở rộng đáng kể về phạm vi địa bàn hoạt
động lẫn danh mục các dịch vụ NH và tăng trưởng tín dụng quá
nhanh. Để các hoạt động diễn ra thuận lợi, an toàn và hiệu quả, rất
cần có sự hậu thuẫn của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
Nếu như điều kiện này không được đáp ứng thì cũng có nghĩa là
các NHTM càng mở ra thêm nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ,
càng mở ra thêm nhiều mạng lưới chi nhánh giao dịch, tốc độ tăng
trưởng tín dụng càng nhanh, thì rủi ro sẽ càng gia tăng khó kiểm
o
soát hơn và khi đó rủi ro tiềm ẩn sẽ càng lớn
Công tác thanh tra, giám sát NH trong một thời gian dài chưa phát
huy hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời
các vi phạm, rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM,
nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín dụng và đầu tư quá
mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Có hiện tượng NH
thiếu biện pháp hiệu quả để xác định, định hướng và kiểm soát rủi
ro trong từng khu vực, số liệu quá khứ không đầy đủ, hệ thống
thông tin không cập nhật, kinh nghiệm cá nhân nhiều khi lạm dụng
có thể để lại hậu quả cho hoạt động NH. Do đó, biện pháp quản lý
•
yếu kém có nguy cơ tập trung và mang tính hệ thống.
Hoạt động thâu tóm, mua bán, sát nhập các công ty sân sau, sở
hữu chéo trong NH… đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền.
Sở hữu chéo là việc doanh nghiệp này nắm giữ cổ phần tại doanh
nghiệp khác hoặc thậm chí là sở hữu cổ phần lẫn nhau. Để có thể đáp
ứng được nhu cầu tín dụng quy mô lớn của doanh nghiệp, họ phải liên
kết hoặc sở hữu ngân hàng để đảm bảo việc cung ứng vốn không bị
Nhóm số 5
31
gián đoạn. Tương tự, các ngân hàng cũng chịu áp lực tăng trưởng nên
thường có xu hướng cho các doanh nghiệp thân quen vay để giảm
thời gian đánh giá và thẩm định hồ sơ. Một nguyên nhân khác dẫn
đến mối quan hệ sở hữu chéo của Việt Nam trở nên nghiêm trọng là
quyết định chuyển đổi 13 ngân hàng nông thôn thành ngân hàng thành
thị trong giai đoạn 2005-2007. Các nhà băng này trước khi chuyển
đổi, vốn điều lệ chỉ khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Nhưng
theo yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ vào năm 2011, họ phải
tăng vốn chủ sở hữu lên 10-20 lần chỉ trong vòng chỉ 5 năm. Để tăng
vốn chủ sở hữu với tốc độ lớn như vậy trong thời gian ngắn, các ngân
hàng này buộc phải dựa vào vốn đóng góp của chính các tập đoàn nhà
nước và tư nhân, và tự biến mình thành “sân sau” của các tổ hợp
doanh nghiệp. Sở hữu chéo không phải lúc nào cũng gây ra hệ lụy
tiêu cực, bởi nó góp phần cải thiện sự hỗ trợ vốn, công nghệ, kinh
nghiệm lẫn nhau giữa các thành viên. Nhưng nó thực sự gây ra “thảm
họa” nếu không được kiểm soát chặt chẽ, khi mà cổ đông là tập thể
hay pháp nhân sở hữu tỷ lệ cổ phần chi phối, có quyền định đoạt tại
nhiều NH khác nhau.Trong hình thức sở hữu chéo, có một rủi ro rất
lớn là việc các cổ đông, nhóm cổ đông chi phối một hay nhiều NH có
“quan hệ mật thiết” với các tập đoàn tư nhân. Khi đó, mọi tiêu chuẩn
an toàn trong hoạt động tín dụng sẽ bị phá vỡ, NH “bơm” vốn cho
“sân sau”, cho nhóm khách hàng có quan hệ thân thiết với các cổ
đông chi phối. Điều này khiến mọi hệ số an toàn của NH bị lệch
•
chuẩn, con số phản ánh chỉ là số ảo.
Giả thiết mua bán nợ chéo: mỗi ngân hàng A, B,C,D đều sở hữu và
chi phối một công ty AMC - chỉ thực hiện nghiệp vụ chính là thu hồi
nợ, hoặc nghiệp vụ định giá tài sản. Một khoản nợ trị giá 2.000 tỷ
đồng của ngân hàng A được giao cho công ty AMC 1 ký hợp đồng
Nhóm số 5
33
bán cho AMC 2 của ngân hàng B với kỳ hạn trung bình là 9 tháng, lãi
suất thỏa thuận.Hết thời hạn này, AMC 2 tiếp tục bán khoản nợ cho
AMC 3 của ngân hàng C, sau đó nợ được bán cho AMC 4 của ngân
hàng D... Với giá trị khoản nợ, lãi suất, các chi phí khác… được thỏa
thuận sao cho tổng giá trị mua bán nợ cuối cùng luôn ngang giá nợ cũ
là 2.000 tỷ đồng.Như vậy, kết thúc vòng quay - qua ít nhất 4 lần mua
bán nợ - khoản nợ 2.000 tỷ đồng của ngân hàng A vẫn còn nguyên
vẹn. Thời điểm bắt đầu mua nợ là quý IV hàng năm và kết thúc vào
quý III năm sau cũng nhằm tránh thời điểm chốt số liệu ngày 31/12
hàng năm.Khi ấy, nợ xấu của ngân hàng đương nhiên sẽ nằm trong
khoản mục "nợ phải thu" của báo cáo tài chính, thay vì nằm trong con
số và tỷ lệ nợ xấu. Vòng quay này có thể kéo dài 3 - 4 năm, giúp cho
khoản nợ luôn "đẹp" trên sổ sách. Nếu quả thực các ngân hàng vận
dụng cách mua bán nợ chéo giữa các AMC, thì có thể thấy "mạng
nhện" này cũng "chằng chịt", khó gỡ không thua kém gì sở hữu chéo
cổ phần giữa các ngân hàng.
3.4.
•
YẾU TỐ TỪ PHÍA CHÍNH PHỦ
Môi trường pháp lý về hoạt động NH:
Mặc dù những năm qua chúng ta đã rất chú ý xây dựng và từng bước
hoàn thiện các văn bản pháp lý về hoạt động NH, nhưng nhìn tổng thể
có thể thấy hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn
thiện. Chẳng hạn, một số điều luật đã có nhưng chưa được triển khai
(về xiết nợ, về phát mại tài sản, về thế chấp, cầm cố, các quy định
liên quan đến quyền sử dụng đất đai,...). Mặt khác, hiệu lực thực thi
các văn bản pháp luật về hoạt động NH chưa cao, điều này đã và đang
tiếp tục gây ra những rủi ro tiềm ẩn lớn đối với lĩnh vực NH Việt
Nam. Bên cạnh đó, chủ trương, chính sách của NN còn thiếu tính ổn
Nhóm số 5
35
định, làm cho hệ thống NH phải đổi mặt với nguy cơ rủi ro chính
sách, nhất là các chính sách về lãi suất, tỷ giá, vàng,... bất cứ lĩnh vực
kinh doanh nào trong nền kinh tế đều cần có sự điều tiết của NN
thông qua các công cụ chính sách pháp luật và khi tình hình kinh tế
có sự thay đổi thì cơ chế chính sách tất yếu phải thay đổi cho phù
hợp, bảo đảm sự điều tiết có hiệu quả của NN đối với từng lĩnh vực
hoạt động kinh doanh
Một thực tế không thể không xem xét và có sự điều chỉnh cho phù
hợp, đó là hiện nay thay vì dựa trên phán đoán các tín hiệu từ các
diễn biến thị trường, thì trên thì trường tài chính Việt Nam, có vẻ
không ít các NHTM đang nhìn vào động thái chính sách để đưa ra các
quyết định kinh doanh. Các chính sách về tài chính - tiền tệ càng tỏ ra
cứng rắn thì xu thế này càng biểu hiện rõ nét hơn. Rõ ràng đây là điều
không hề mong đợi trong một nền kinh tế căn bản đã chuyển sang
kinh doanh theo thị trường từ nhiều năm nay, bởi thực tiễn mà chúng
ta rút ra được đó là điều hành nền kinh tế theo tín hiệu thị trường sẽ
giúp giảm thiểu được những phí tổn so với điều hành nặng về công cụ
chính sách mang tính chất hành chính. Tuy vậy, cần phải nhìn nhận
một thực tế là trong những năm qua, thị trường tài chính Việt Nam
đang có dấu hiệu cạnh tranh quá mức, thiếu lành mạnh, khó kiểm soát
bằng các công cụ kinh tế nên việc điều hành bằng các công cụ hành
chính là rất cần thiết. Song sự hạn chế căn bản của việc điều hành
bằng các công cụ hành chính là rất dễ gây sốc cho nền kinh tế, nên
phải xác định được “điểm dừng” để nhanh chóng chuyển sang điều
hành thị trường tài chính bằng chính các công cụ kinh tế.
•
Nhóm nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ xấu:
Nhóm số 5
37
o
Tiêu thức phân loại nợ chưa phản ánh đúng số nợ xấu. Nợ xấu
không phải mới phát sinh mà nó được tích lũy trong một khoảng
thời gian dài và khi tình hình kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008,
đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng, khách hàng
vay gặp khó khăn về tài chính và hoạt động sản xuất – kinh doanh
thì nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu ngày càng rõ nét.Trước
khi các thông tư 02/2013/TT-NHNN và 14/2014/TT-NHNN được
ban hành ,chưa có quy định rõ ràng và mang tính pháp lý buộc các
NHTM phân loại nợ theo mức độ rủi ro của từng khách hàng. Điều
này dẫn đến kết quả là cùng một khoản nợ có thể phân thành mấy
loại khác nhau. Nó lý giải vì sao số liệu thống kê về nợ xấu không
thống nhất giữa các cơ quan quản lý, các tổ chức nghiên cứu. Hậu
quả là một số NHTM lợi dụng để điều chỉnh nhóm nợ để trích ít
o
dự phòng nhằm tăng lợi nhuận, theo kiểu “giấu nợ, khoe lãi”.
Vướng mắc trong cơ chế xử lý tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo
thường là bất động sản. Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán, NH được phép đứng ra bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ
nhưng theo quy định hiện hành thì không thể sang tên bất động sản
được nếu chủ tài sản không đồng ý. Nếu mang ra tòa thì thời gian
xử lý rất dài, mất nhiều năm, thủ tục rườm rà, phức tạp, qua nhiều
khâu, nhiều cấp, quá trình bàn giao tài sản chậm… làm cho tài sản
hư hỏng, giá trị thu hồi nhỏ hơn dự kiến ban đầu. Đó là chưa kể tới
trong lĩnh vực bất động sản, NH cho vay tới 60% giá trị dự án,
nhưng ngay từ khi xác định giá trị tài sản lại nâng cao hơn giá trị
thực của nó, do vậy mặc dù thành lý toàn bộ tài sản đảm bảo cũng
không thu hồi được nợ, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thu hồi
nợ qua tài sản đảm bảo.
Nhóm số 5
39
o
Về xử lý nợ xấu, các giải pháp đưa ra chưa thực sự hiệu quả.
Trước năm 2000, các NHTM không được trích lập quỹ dự phòng
rủi ro, do vậy nợ xấu tích tụ ngày càng nhiều, nhưng không có
nguồn bù đắp. Để tạo điều kiện cho các NH phát triển và ổn định,
Chính phủ cho phép các NH thành lập công ty mua bán nợ tồn
đọng, đồng thời có chính sách xử lý nợ xấu riêng cho NHTM quốc
doanh và NHTM cổ phần. Từ năm 2001 trở đi, các NH được phép
trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng quỹ này tạo nguồn tài chính
chủ động trong việc xử lý rủi ro tín dụng. Cụ thể năm 2001, Chính
phủ cho phép thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
(AMC), cho tới nay đã có khoảng 27 AMC trực thuộc các NHTM.
Nhưng hiệu quả hoạt động còn rất hạn chế, hoạt động của AMC
chủ yếu phục vụ cho các NH mẹ, chỉ giới hạn mua bán các khoản
nợ cho khách hàng vay, do quy mô vốn nhỏ, không đủ năng lực tài
chính và các kỹ năng để xử lý nợ xấu. Năm 2003 Chính phủ Việt
Nam đã thành lập Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC), nhưng
cho đến nay DATC cũng chỉ giải quyết được một phần nhỏ nợ xấu,
kết quả còn hạn chế do tiềm lực tài chính của DATC còn nhỏ bé so
với quy mô nợ xấu của NHTM, do các NHTM không muốn bán,
hoặc che dấu, hoặc tiêu chí phân loại nợ chưa rõ ràng làm cho
DATC không tiếp cận được nợ xấu, do DATC hoạt động theo cơ
chế kinh doanh (phải bảo toàn vốn, đồng thời có lợi nhuận) trong
khi mua bán nợ là hoạt động mạo hiểm.
Thực tế DATC là doanh nghiệp 100% vốn NN, nhiệm vụ chính
của DATC là mua để xử lý các khoản nợ và tồn đọng của các
DNNN nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá, đổi mới, tái cơ cấu
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Từ năm 2007,
Nhóm số 5
41
DATC hướng hoạt động vào trọng tâm chính là xử lý nợ xấu gắn
với tái cơ cấu DNNN. Tuy nhiên, các trường hợp nợ xấu DATC
mua lại và xử lý đều có giá trị không lớn và chưa phải là các
trường hợp phức tạp, chủ yếu mới chỉ xử lý về tài chính, trong khi
việc tái cơ cấu hoạt động còn hạn chế. Ngoài ra, DATC còn có
những hạn chế cơ bản khác. Cụ thể: Mâu thuẫn giữa các mục tiêu
hoạt động, rất khó đảm bảo vừa xử lý nhanh các khoản nợ, vừa
đảm bảo lợi nhuận; Thiếu hướng dẫn chỉ tiết về vai trò của DATC
trong tái cơ cấu DNNN; Hạn chế trong quy định về sử dụng vốn
đầu tư của DATC; Hạn chế về quyền áp dụng các biện pháp xử lý
nợ xấu; Thiếu động lực và sức ép để xử lý nợ xấu; Hạn chế trong
tiếp cận thông tin; Thiếu khuyến khích đối với các nhà đầu tư
chiến lược.
Ngày 27/06/2013 ,Công ty Quản lý tài sản (VAMC) được thành
lập và hoạt động theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ,
Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết
định số 1459/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam. VAMC mua nợ
xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt
do VAMC phát hành. Trái phiếu đặc biệt được phát hành dưới
hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử với mệnh
giá có giá trị bằng giá mua của khoản nợ xấu. Trái phiếu đặc biệt
được phát hành bằng đồng Việt Nam có thời hạn tối đa 5 năm và
lãi suất bằng 0%; được sử dụng để vay tái cấp vốn của NHNN.
Tính đến 16/12/2013, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam (VAMC) đã mua được gần 28.170 tỷ đồng dư nợ
gốc, 22.863 tỷ đồng giá mua của 26 tổ chức tín dụng
Nhóm số 5
43
Theo 1 lãnh đạo chuyên trách của NHNN cũng ví von rằng:
“VAMC giờ như một siêu thị nợ xấu. Tức là các khoản mua lại đã
được phân loại, gắn với các “mức giá” cụ thể”. “Mức giá” có thể
hiểu là triển vọng xử lý, hoặc có thể làm cơ sở để xem xét nếu có
đối tác tìm đến mua. Thực tế hoạt động của VAMC cũng còn rất
nhiều vướng mắc và chưa mang lại hiệu quả mong đợi trong xử lí
nợ xấu.
o
Thị trường mua bán nợ ở Việt Nam chưa phát triển. Nợ xấu phát
sinh cao trong những năm gần đây nhưng thị trường mua bán nợ
lại chưa phát triển. Có thể nói, thị trường mua bán nợ đang trong
quá trình hình thành, còn khá mới mẻ đối với người bán, người
mua và cơ chế vận hành, quản lý của NN. Nhu cầu mua lại các
khoản nợ của các công ty cũng đang gia tăng, ở Việt Nam hiện
nay, DATC, VAMC thì có trên 20 công ty quản lý và khai thác tài
sản do các NHTM đứng ra thành lập và quản lý. Tuy nhiên, quy
mô của các công ty này hầu hết đều rất nhỏ không tương xứng với
khối lượng nợ xấu ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, kể từ khi thành
lập cho đến năm 2013, DATC đã thực hiện khoảng 118 phương án
xử lý nợ với giá trị sổ sách là hơn 7.400 tỉ đồng. Như vậy trung
bình mỗi năm, công ty xử lý được 928 tỷ đồng nợ. Tuy nhiên, với
khoản nợ xấu NH gia tăng đột biến như hiện nay thì tốc độ xử lý
của các Công ty mua bán nợ quốc gia phải tăng vốn gấp nhiều lần
•
mới đáp ứng đủ.
Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và ổn định kinh tế vĩ mô : Tác
động của biện pháp miễn, giảm thuế còn hạn chế do hầu hết các
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ hoặc không có lãi nên số tiền được
miễn giảm thuế không nhiều; Các biện pháp xúc tiến thương mại, thu
Nhóm số 5
45
hút đầu tư đạt kết quả chưa cao, thị trường tiêu thụ tiếp tục bị thu hẹp,
hàng tồn kho tăng cao, nhất là hàng hoá nông sản, thực phẩm, công
nghiệp, vật liệu xây dựng,... sức mua giảm mạnh. Ngoài ra, công tác
quản lý thị trường điều hành giá cả các mặt hàng thiết yếu còn nhiều
bất cập ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc hạ giá thành sản phẩm , nâng cao sức cạnh tranh.
Nhóm số 5
47
4. PHỤ LỤC
4.1.
TỪ VIẾT TẮT
NN : Nhà nước
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TCTD : Tổ chức tín dụng
NH : Ngân hàng
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
4.2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
/> /> /> /> /> /> />Nhập môn lý thuyết tài chính tiền tệ - 2008 (Sử Đình Thành – Vũ Thị Minh Hằng)
Nhóm số 5
49