Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Giám sát trong thực hành tham vấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.24 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM KIỀU LINH

GIÁM SÁT TRONG THỰC HÀNH THAM VẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM KIỀU LINH

GIÁM SÁT TRONG THỰC HÀNH THAM VẤN

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TRẦN THỊ MINH ĐỨC

HÀ NỘI - NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Kiều Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

4

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁM

9

SÁT TRONG THỰC HÀNH THAM VẤN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

9

1.2. Một số khái niệm cơ bản

12

1.2.1. Khái niệm tham vấn

12


1.2.2. Khái niệm giám sát

16

1.2.3. Khái niệm giám sát trong tham vấn

16

1.2.3.1. Định nghĩa giám sát trong tham vấn

16

1.2.3.2. Mục tiêu và nội dung giám sát trong tham vấn

19

1.2.3.3. Người giám sát: vai trò, kỹ năng và các phẩm chất tâm lý

20

cần có
1.2.3.4. Người được giám sát và tính dễ tổn thương, các cơ chế

22

phòng vệ
1.2.3.5. Mối quan hệ nghề nghiệp giữa người giám sát và người

23


được giám sát
1.2.3.6. Các mức độ, hình thức và công cụ giám sát trong tham

24

vấn
1.2.3.7. Đạo đức trong giám sát tham vấn

26

Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

28

GIÁM SÁT TRONG THỰC HÀNH THAM VẤN
2.1. Tổ chức nghiên cứu

28

2.2. Nội dung và các phương pháp nghiên cứu

28

2.2.1. Nghiên cứu lý luận

28

2.2.2. Nghiên cứu thực tiễn


29

2.3. Khách thể nghiên cứu của đề tài

31

1


Chương 3: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

34

3.1. Giới thiệu chung về các trung tâm tham vấn

34

3.2. Thực trạng hoạt động giám sát tại các trung tâm tham vấn

38

3.2.1. Nhận thức và thái độ của cán bộ quản lý, cán bộ tham vấn

38

và cán bộ giám sát về hoạt động giám sát trong tham vấn
3.2.2. Cách thức và các tiêu chí lựa chọn người giám sát

40


3.2.3. Các hình thức và mức độ giám sát trong tham vấn

42

3.2.4. Các tác động của hoạt động giám sát

50

3.2.4.1. Tác động đến chất lượng hoạt động tham vấn

50

3.2.4.2. Tác động đến sự trưởng thành nghề nghiệp của cán bộ

51

tham vấn
3.2.4.3. Tác động đến uy tín hành nghề của cơ sở tham vấn

53

3.2.5. Sự tuân thủ các nguyên tắc đạo đức trong hoạt động giám

55

sát tham vấn
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát

57


3.3.1. Hệ thống lưu giữ ca tham vấn

57

3.3.2. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giám sát của cán bộ

58

quản lý
3.3.3. Sự ổn định của nguồn nhân sự

58

3.3.4. Tìm kiếm chuyên gia giám sát và nguồn kinh phí

58

3.3.5. Chế độ lương, phụ cấp và khối lượng công việc

59

3.3.6. Tâm thế của người giám sát và người được giám sát

60

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO


66

PHỤ LỤC

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Phân bổ khách thể tham gia nghiên cứu

32

Bảng 3.1: Hiểu biết về mục tiêu giám sát của cán bộ quản lý,

39

cán bộ giám sát và cán bộ tham vấn
Bảng 3.2: Nội dung giám sát

39

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong khoảng mười năm trở lại đây, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của người dân Việt Nam không ngừng được nâng cao, đồng thời các áp lực

trong cuộc sống, công việc và các mối quan hệ không ngừng gia tăng. Chính
vì vậy, nhu cầu được chia sẻ, trò chuyện, giải tỏa tâm lý và chăm sóc sức khỏe
sinh sản, tình dục của người dân, nhất là những người sống tại các thành phố
lớn như TP.Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh… không ngừng gia tăng. Đáp ứng nhu
cầu này, nhiều trung tâm tham vấn tâm lý, sức khỏe sinh sản… đã ra đời, thu
hút số lượng khách hàng đông đảo. Tính đến nay, chỉ riêng TP.Hà Nội và
TP.Hồ Chí Minh đã có hơn 100 cơ sở cung cấp dịch vụ tham vấn tâm lý, sức
khỏe sinh sản, tình dục và phòng chống bạo hành giới với đủ các loại hình
tham vấn như tham vấn trực tiếp, tham vấn qua điện thoại, tham vấn qua
mạng internet, tham vấn qua báo chí, tham vấn qua đài phát thanh, truyền
hình…
Trong khi hiện nay, tại Việt Nam, việc giám sát, đánh giá chất lượng
tham vấn và năng lực nghề nghiệp của người hành nghề tham vấn vẫn còn
đang bị bỏ ngỏ hoặc được thực hiện một cách tự phát theo các tiêu chí, cách
thức mà các cơ sở cung cấp dịch vụ tham vấn tự đề ra, có thể tham khảo hoặc
không tham khảo những quy chuẩn nhất định mà hiệp hội tham vấn hay hiệp
hội hành nghề tham vấn ở các quốc gia có nghề tham vấn phát triển quy định
hoặc ứng dụng. Đặc biệt trong bối cảnh dịch vụ tham vấn vượt qua giới hạn
một loại hình trợ giúp xã hội miễn phí để trở thành một hoạt động trợ giúp có
thu phí thì việc kiểm định, kiểm soát chất lượng tham vấn càng trở nên cấp
thiết. Thực tế có không ít cơ sở cung cấp dịch vụ tham vấn chạy theo lợi
nhuận, đặt lợi nhuận với mức phí và thời gian tham vấn có thu phí lên hàng
đầu, bỏ qua các nguyên tắc đạo đức hành nghề tham vấn, buông lỏng năng lực

4


nghề nghiệp của người hành nghề tham vấn tại cơ sở của mình, không có cơ
chế, công cụ đánh giá, kiểm soát chất lượng tham vấn, không có hệ thống
giám sát tham vấn. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của

khách hàng cũng như uy tín nghề tham vấn mà các nhà tham vấn (hướng đến
chuyên nghiệp) đang nỗ lực xây dựng.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu trong lĩnh vực tham vấn tại Việt Nam mới
chỉ tập trung tìm hiểu, làm rõ các khía cạnh như quy trình tham vấn, các
trường phái tham vấn, các lý thuyết tham vấn, kỹ năng tham vấn, các vấn đề
đạo đức trong tham vấn, mối quan hệ giữa người hành nghề tham vấn và
khách hàng... Chưa có nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về khía cạnh giám sát
trong hoạt động tham vấn.
Trong điều kiện nói trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hoạt động giám sát hiệu quả, có tính
ứng dụng cao trong hoạt động tham vấn tâm lý tại Việt Nam có ý nghĩa thiết
thực, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tham vấn, thúc đẩy tham vấn
trở thành một nghề chuyên nghiệp, được xã hội và người dân tin cậy sử dụng.
Đây chính là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: Giám sát trong
thực hành tham vấn.
2. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra thực trạng hoạt động giám sát tham vấn tại các cơ sở thực hành
tham vấn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề giám sát và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát trong
tham vấn hiện nay
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:
• Nhiệm vụ 1: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài

5


• Nhiệm vụ 2: Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát chuyên môn tại
các cơ sở thực hành tham vấn tại Việt Nam

5. Khách thể nghiên cứu
68 khách thể nghiên cứu, bao gồm:
• 5 cán bộ quản lý cơ sở thực hành tham vấn
• 8 cán bộ giám sát tại cơ sở thực hành tham vấn
• 55 cán bộ tham vấn
6. Giới hạn nghiên cứu
Hệ thống giám sát chuyên môn tại các nước có nghề tham vấn phát
triển bao gồm rất nhiều nội dung. Tuy nhiên trong điều kiện giám sát tham
vấn ở Việt Nam, nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu năm phần cơ bản
trong hệ thống giám sát bao gồm:
• Quy trình giám sát chuyên môn đối với các ca tham vấn
• Mối quan hệ nghề nghiệp giữa người giám sát và người được giám sát
• Những kỹ năng giám sát được sử dụng trong quá trình giám sát
• Những quy điều đạo đức của hoạt động giám sát
• Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát
7. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu đi tìm câu trả lời cho hai câu hỏi lớn như sau:
• Thực trạng hoạt động giám sát tại các cơ sở thực hành tham vấn tại
Việt Nam hiện nay như thế nào?
• Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hoạt động giám sát trong tham vấn?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Hoạt động giám sát trong thực hành tham vấn đã và đang diễn ra một
cách thiếu định hướng về nghiệp vụ chuyên môn, chưa đáp ứng được các tiêu
chuẩn về trình độ đào tạo, các kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức và chịu ảnh

6


hưởng bởi nguồn nhân sự, tài chính của cơ sở thực hành tham vấn và năng lực
giám sát của các cán bộ giám sát.

9. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu định tính. Một phần số liệu được thống kê dưới dạng nghiên cứu
định lượng hỗ trợ phân tích định tính.
9.1. Phương pháp phân tích tài liệu
9.2. Phương pháp quan sát
9.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
9.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
10. Ý nghĩa của nghiên cứu
Ở những nước có nghề tham vấn phát triển, hệ thống giám sát là một
phần không thể thiếu tại mỗi cơ sở thực hành tham vấn chuyên nghiệp. Đồng
thời, cho dù là nhà tham vấn lâu năm thì nhu cầu được giám sát vẫn rất phổ
biến, bởi hoạt động giám sát không chỉ giúp đảm bảo chất lượng tham vấn,
đảm bảo quyền lợi của khách hàng mà còn giúp nhà tham vấn trưởng thành về
nhân cách và năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tham vấn chưa
được công nhận là một nghề và chưa có hiệp hội nghề nghiệp nên không có
đơn vị/ tổ chức nào nhận trách nhiệm kiểm định chất lượng tham vấn và năng
lực nghề nghiệp của người hành nghề tham vấn. Việc đánh giá chất lượng các
ca tham vấn, đánh giá năng lực nghề nghiệp của người hành nghề tham vấn và
nâng cao năng lực nghề nghiệp của người hành nghề tham vấn do những
người hành nghề tham vấn và các cơ sở cung cấp dịch vụ tham vấn tự thực
hiện theo kinh nghiệm và các tiêu chí của riêng mình. Tài liệu liên quan đến
hoạt động giám sát chuyên môn, đặc biệt tài liệu hướng dẫn thực hành, tổ
chức hệ thống giám sát tại các trung tâm tham vấn bằng tiếng Việt còn rất hạn
chế, hầu như không có, còn tài liệu bằng tiếng nước ngoài chưa tính đến các

7


yếu tố nguồn lực và tình hình thực tiễn tại Việt Nam nên tính ứng dụng chưa

cao. Kết quả nghiên cứu này với hệ thống cơ sở lý luận được xây dựng dựa
trên các tài liệu chính thống từ các nước có nghề tham vấn phát triển, có tính
đến các yếu tố văn hóa, xã hội và các nguồn lực hiện có ở Việt Nam cho thấy
nghiên cứu có những đóng góp cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn. Chính
vì vậy, nghiên cứu có ý nghĩa nhất định và đáng được tổ chức thực hiện.
11. Kết cấu của nghiên cứu
Nghiên cứu gồm phần mở đầu, 3 chương chính (bao gồm: Chương 1:
Những vấn đề lý luận cơ bản về giám sát trong thực hành tham vấn; Chương
2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu; Chương 3: Phân tích kết quả nghiên
cứu) và kết luận, khuyến nghị.

8


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁM SÁT TRONG THỰC
HÀNH THAM VẤN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Lịch sử và sự phát triển của giám sát trong thực hành tham vấn không
dễ dàng để hiểu. Tuy nhiên chúng ta có thể khám phá những yếu tố quan
trọng hình thành nên giám sát trong tham vấn. Từ những năm 1920 đến giữa
những năm 1960 Fleming và Benedek đã mô tả sự phát triển của giám sát
trong phân tâm. Ba bước: giám sát, hướng dẫn và phân tích tâm lý con người
được coi là những bước bắt buộc trong quá trình đào tạo một nhà phân tâm trẻ
tuổi, thiếu kinh nghiệm để làm việc độc lập với khách hàng [11]. Sau đó ba
bước này được áp dụng như một cấu phần quan trọng trong chương trình đào
tạo cơ bản đối với các nhà trị liệu tâm lý, nhà tham vấn và các nghề trợ giúp
khác.
Dù là một nhà tham vấn trong một tổ chức cộng đồng hay trong trường
học thì giám sát cũng trở thành một phần được mong đợi và cần thiết trong

trách nhiệm chuyên môn của nhà tham vấn. Điều này được chứng minh bằng
việc: Các ủy ban cấp phép yêu cầu tăng số giờ giám sát lâm sàng và đặt ra
những yêu cầu khắt khe hơn cho nhà giám sát lâm sàng, những người quản lý
trường học ngày càng ủng hộ nhu cầu giám sát, các nguyên tắc đạo đức đối
với nhà giám sát được bàn luận và xây dựng, các tiêu chuẩn cho sự chuẩn bị
và thực hành của nhà giám sát được thiết lập [13].
Ban đầu, giám sát được nhìn nhận như “một loại hình tham vấn đặc
biệt”, trong đó nhà tham vấn tham khảo ý kiến của người giám sát để nâng
cao khả năng làm việc của mình với thân chủ, “Tôi và bạn đang nói về anh ta/
cô ta với mục đích tạo nên một số thay đổi”. Tuy nhiên sự khác biệt giữa
giám sát và tham vấn ở chỗ: tham vấn không đánh giá người được tham vấn

9


(thân chủ), còn giám sát bằng cách này hay cách khác đang đánh giá người bị
giám sát (Benshoff, 1994).
Giám sát cũng được nhìn nhận từ khía cạnh tiếp cận hệ thống. Trong đó
cơ bản nhất là hệ thống Nhà giám sát ⇔ người bị giám sát/ nhà tham vấn ⇔
thân chủ. Nếu một thành phần của hệ thống ấy thay đổi thì cả hệ thống sẽ thay
đổi theo, ví dụ như nếu nhà giám sát tạo điều kiện cho sự lớn mạnh về kiến
thức của nhà tham vấn/người bị giám sát thì thân chủ của anh ấy/cô ấy sẽ thay
đổi, và nếu nhìn xa hơn thì sự thay đổi của thân chủ sẽ tạo nên sự thay đổi của
hệ thống mà thân chủ được bao hàm trong đó, ví dụ như gia đình của thân
chủ. Bên cạnh đó còn có một quá trình khác, được gọi là quá trình song song
(do Sumerel đề xuất), diễn ra: mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ có
thể được bắt chước một cách vô thức trong mối quan hệ giữa người giám sát
và nhà tham vấn, ví như nhà tham vấn mang theo những lo lắng của thân chủ
vào giám sát. Nếu quá trình song song này được bàn đến, được trải nghiệm thì
cũng có thể hữu ích đối với mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng hiện nay đa số các kiểu giám sát rơi vào ba
loại: mô hình mang tính phát triển, mô hình định hướng cụ thể và mô hình
tích hợp [13].
Mô hình phát triển tin rằng có các giai đoạn – giống như các kiểu phát
triển mà người bị/ được giám sát sẽ trải qua trong quá trình giám sát. Người
bị/được giám sát đi qua các giai đoạn này nhanh hay chậm tùy thuộc vào
phong cách cá nhân, năng lực và sự tự điều chỉnh của họ với người giám sát.
Với nhà giám sát, sự nhận thức các giai đoạn này giúp phát triển các chiến
lược cho sự lớn mạnh của người bị/được giám sát căn cứ vào từng giai đoạn
đặc thù (do Nixon & Claiborn khởi xướng). Một mô hình phát triển khác cũng
rất nổi tiếng đó là mô hình phát triển của Stoltenberg và Delworth. Mô hình
này tập trung vào các nhà tham vấn đang trong quá trình đào tạo, những

10


người này sẽ trải qua 3 mức độ phát triển tương ứng với sự thay đổi của 3
mặt: Nhận thức bản thân và người khác; Động cơ; Sự tự chủ. Ở mức 1 (mức
thấp nhất), nhà tham vấn vẫn hoài nghi năng lực của bản thân, sợ bị đánh giá
nên khó có thể thấu hiểu/thấu cảm với thân chủ, trong khi động cơ muốn giúp
đỡ người khác, muốn học các kỹ thuật trợ giúp lại rất mạnh mẽ nên thường
mong chờ lời khuyên từ người giám sát và phụ thuộc nhiều vào người giám
sát. Ở mức 2, nhà tham vấn có thể tập trung vào xúc cảm, nhận thức của thân
chủ và bắt đầu có ảnh hưởng tới thân chủ, tuy nhiên do hiểu được sự phức tạp
của mối quan hệ tham vấn nên có thể dao động giữa sự hoài nghi với sự tự tin
vào năng lực của bản thân và có sự xung đột giữa việc vừa muốn độc lập với
người giám sát vừa sợ sự độc lập ấy. Ở mức 3 (mức cao nhất), nhà tham vấn
đã tách bạch được thế giới của mình và đi vào thế giới của thân chủ, bắt đầu
hình thành phong cách tham vấn – trị liệu của chính mình, tiếp tục làm việc
với những điểm mạnh cũng như điểm yếu của chính mình và cảm thấy thoải

mái hơn với sự độc lập, tự chủ của bản thân. Đạt đến mức độ 3 nhà tham vấn
dễ dàng tiếp nhận sự phản hồi từ phía người giám sát, sẵn sàng tham khảo ý
kiến của người giám sát mà không làm mất đi sự độc lập nghề nghiệp của bản
thân.
Mô hình định hướng cụ thể cho rằng các nhà tham vấn đã hình thành và
theo đuổi một kiểu tham vấn – trị liệu đặc thù nên cần có người giám sát là
bậc thầy trong hướng tiếp cận tương tự, để có thể đào tạo họ theo hướng tiếp
cận ấy. Ví dụ nhà giám sát phân tâm sẽ dùng thuật phân tích với người
bị/được giám sát, còn nhà giám sát tập trung vào cá nhân sẽ dùng thấu cảm,
bày tỏ sự tôn trọng vô điều kiện và trung thực với người bị/được giám sát.
Mô hình tích hợp hay còn gọi là lý thuyết biến đổi. Mô hình phân biệt
của Bernard và Goodyear (1992) xem xét 3 vai trò của người giám sát: vai trò
giáo huấn – người giám sát giống như một giáo viên; vai trò trị liệu – bằng

11


kinh nghiệm của mình, người giám sát nhìn thấy những vấn đề ảnh hưởng đến
khả năng của nhà tham vấn và giúp nhà tham vấn vượt qua; vai trò tham vấn –
người giám sát giúp nhà tham vấn sử dụng kỹ năng của mình để nhận thức và
xử lý các vấn đề của thân chủ. Một mô hình tích hợp khác do Norm Kagan
phát triển (1980) cũng khá phổ biến dựa trên niềm tin người bị/được giám sát
có thể khám phá những điểm mạnh và điểm yếu của chính bản thân mình, quá
trình giám sát tập trung hay chú ý một cách chính xác những cảm xúc và suy
nghĩ của người bị/được giám sát và làm cho nó sâu sắc hơn.
Một hướng nghiên cứu khác cũng chỉ ra những khác biệt trong giám sát
thực hành (đối với những người đang trong quá trình đào tạo để trở thành nhà
tham vấn) và giám sát hành nghề (đối với những người đã hoàn thành chương
trình đào tạo thông thường. Các nhà tham vấn thực hành thường quan tâm đến
các vấn đề kỹ thuật/kỹ năng, các mô hình lí thuyết can thiệp hiệu quả, các

khái niệm/hiểu biết của thân chủ, những vấn đề mang tính hệ thống, cảm xúc
của chính mình trước vấn đề của thân chủ… Còn các nhà tham vấn hành nghề
có khuynh hướng thích một nhà giám sát có hướng tiếp cận gần gũi, có định
hướng công việc tương tự và hội tụ được nhận thức và các kỹ năng tham vấn
tương ứng với các vấn đề chuyên môn.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm tham vấn
Từ khoảng 10-15 năm trở lại đây, thuật ngữ tham vấn (counseling)
không còn xa lạ ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách
hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này. Trong đó trước tiên phải kể đến
sự đồng nhất giữa khái niệm tư vấn (consutation) và khái niệm tham vấn
(counseling).
Trên thực tế, việc “cung cấp thông tin, cho lời khuyên, chỉ bảo, hướng
dẫn hay trợ giúp những khó khăn về tâm lý… cho một cá nhân hoặc một tổ

12


chức khi họ có nhu cầu” thường được gọi là tư vấn. Trong từ điển Tiếng Việt,
thuật ngữ tư vấn (consutation) và tham vấn (counseling) đều được dịch là tư
vấn, với ý nghĩa là “sự đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng
không có quyền quyết định”.
Còn trên thế giới, khái niệm tư vấn không đơn thuần hiểu theo nghĩa cho
lời khuyên từ một tổ chức hay những người có trình độ chuyên môn về một
lĩnh vực cụ thể, như một hình thức góp ý kiến.
Hiệp hội Tham vấn Hoa Kỳ (1998) đã định nghĩa tư vấn là: Mối quan hệ
giữa một người trợ giúp chuyên nghiệp và một người, một nhóm người hoặc
một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ, trong đó nhà tư vấn cung cấp sự giúp
đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết một vấn đề liên quan đến
công việc hoặc người khác. Như vậy, tư vấn liên quan đến mối quan hệ tay

ba, bao gồm nhà tư vấn (người thứ nhất) và người xin tư vấn (người thứ hai)
nói chuyện về một cá nhân/ một tổ chức khác (người thứ ba) với mục đích tạo
nên sự thay đổi, trong đó trọng tâm là người xin tư vấn và bên thứ ba. Tư vấn
với một người về người khác không chỉ liên quan đến ba cá nhân chính (nhà
tư vấn, người được tư vấn và “người khác”) mà còn liên quan đến môi trường
mà “người khác” đang tồn tại trong đó [13].
Trong tài liệu Tập huấn về tư vấn tâm lý của UNICEP, 6/2000: tư vấn là
một mối quan hệ, một quá trình trong đó nhà tư vấn giúp khách hàng cải thiện
cuộc sống của họ bằng cách khai thác tìm hiểu và nhìn nhận được nội dung ý
nghĩ, cảm giác và hành vi của họ. Nhà tư vấn tạo động lực cho khách hàng tự
giải quyết các vấn đề trong cuộc sống của họ. Nhà tư vấn không giải quyết
vấn đề cho khách hàng.
Ngoài ra hiện nay tại Việt Nam khái niệm “tham vấn” cũng được sử
dụng đồng nhất với khái niệm “tư vấn tâm lý” với nội hàm chỉ mối quan hệ

13


trợ giúp về mặt tâm lý giữa người cung cấp dịch vụ trợ giúp tâm lý và người
có khó khăn về tâm lý đến nhận dịch vụ.
Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ - ACA, 1997: Tham vấn là sự áp
dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển
con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận
thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân,
phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý.
Theo tác giả James Hutchinson Haney & Jacqueline Leibsohn: Tham vấn
tâm lý được định nghĩa là sự tương tác ở đó nhà tham vấn tập trung vào
những trải nghiệm, cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của thân chủ với những đáp
ứng một cách có chủ định nhằm tạo ra sự khám phá, chấp nhận hoặc thách
thức ở thân chủ.

Theo tác giả Trần Thị Minh Đức thì: Tham vấn tâm lý là một quá trình
tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn, kỹ năng và phẩm chất
đạo đức, được pháp luật thừa nhận) và thân chủ (người đang có vấn đề khó
khăn tâm lý cần được giúp đỡ). Thông qua sự trao đổi, chia sẻ thân tình, thân
chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm thấy tiềm năng bản thân để
giải quyết vấn đề của mình [4].
Mỗi định nghĩa trên đều có điểm tương đồng trong nội hàm với nghĩa
giúp thân chủ lớn mạnh. Hai định nghĩa của tác giả James Hutchinson Haney
& Jacqueline Leibsohn và Trần Thị Minh Đức đều có điểm chung hướng tới
kết quả tham vấn một cách cụ thể hơn (sự khám phá, sự chấp nhận, sự tự giải
quyết...), trong khi đó định nghĩa của ACA mang ý nghĩa về sự phát triển một
cách tổng thể, sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân con người trên khía cạnh
tâm lý nói chung.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm tham vấn
là một hoạt động trợ giúp mang tính chuyên nghiệp, đó là một tiến trình tương

14


tác giữa nhà tham vấn và khách hàng nhằm giúp khách hàng khám phá, khơi
dậy những tiềm năng của bản thân để tự giải quyết vấn đề của mình. Trong
đó, thuật ngữ “nhà tham vấn” được sử dụng để chỉ người làm tham vấn, người
hành nghề tham vấn, người thực hành tham vấn, chuyên viên tham vấn,
chuyên gia tham vấn, tham vấn viên, tư vấn viên… - những người làm công
việc trợ giúp khó khăn tâm lý cho người khác. Và thuật ngữ “khách hàng”
được sử dụng để chỉ người có vấn đề nan giải, có khó khăn về tâm lý cần
được trợ giúp.
Xét từ góc độ chuẩn mực hành vi và đánh giá xã hội, một số biểu hiện
hành vi sau được coi là “có vấn đề” cần đến sự trợ giúp của nhà tham vấn:
• Luôn không hài lòng và thấy khó chịu trong một mối quan hệ nào đó.

• Thường gây bất bình với những người xung quanh.
• Xuất hiện cá tính hiếm khi thấy và ít xuất hiện trong hành động tiền lệ.
• Thấy buồn chán, lo âu, căng thẳng, đau khổ, sợ hãi, những điều này lặp
đi lặp lại và ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân.
• Tính phi lý trong hành động mà người khác cho là không bình thường.
• Tính không thích nghi hoặc khó thích nghi, luôn hành động theo cách
mà nó ảnh hưởng đến những mục tiêu hoặc hoạt động bình thường của
cá nhân và những người xung quanh.
Bên cạnh đó, quan hệ giữa nhà tham vấn và khách hàng là mối quan hệ
công việc. Tuy nhà tham vấn và khách hàng đề cập tới những vấn đề rất riêng
tư hay rất nhạy cảm nhưng không vì thế quan hệ giữa nhà tham vấn và khách
hàng được phép đi ra ngoài những quy định của một mối quan hệ công việc.
Trong mối quan hệ này nhà tham vấn và khách hàng là hai người ngang bằng
nhau về vị trí, ở đó nhà tham vấn hỗ trợ, khuyến khích để khách hàng khám
phá chính mình, “khách hàng là chuyên gia về vấn đề của họ” vì vậy nhà

15


tham vấn tạo điều kiện để họ hiểu hơn chính họ và trưởng thành hơn chứ
không phải nhà tham vấn dạy bảo để họ nghe theo.
1.2.2. Khái niệm giám sát
Theo từ điển tiếng Việt, giám sát được hiểu là “theo dõi, kiểm tra xem
có thực hiện đúng những điều quy định hay không” [7]. Ngoài ra, giám sát
còn chỉ một chức quan thời xưa, trông nom, coi sóc một loại công việc nhất
định.
Giám sát còn được hiểu là sự đánh giá liên tục và có hệ thống, với các
mục tiêu đa dạng đã đề ra.
Trong những lĩnh vực khác nhau thì “hoạt động theo dõi, kiểm tra xem
có thực hiện đúng những điều quy định hay không” được gọi tên khác nhau,

như giám sát, thanh tra, kiểm huấn, đánh giá…
1.2.3. Khái niệm giám sát trong tham vấn
1.2.3.1. Định nghĩa giám sát trong tham vấn
Hoạt động giám sát trong tham vấn được gọi tên khác nhau ở các quốc
gia, ví dụ ở Anh, Úc, Mỹ gọi là Giám sát lâm sàng, thực hành phản hồi, giám
sát hỗ trợ, tư vấn đặc biệt; ở Nam Phi gọi là Cố vấn nghề; ở Việt Nam gọi là
Giám sát, kiểm huấn, đánh giá, đào tạo thực hành, hướng dẫn thực hành.
Ban đầu, thuật ngữ “giám sát trong tham vấn” được sử dụng để chỉ hoạt
động trợ giúp các nhà tham vấn mới hành nghề sử dụng năng lực tham vấn
của mình hiệu quả hơn để tiến dần tới sự độc lập trong công việc. Tuy nhiên,
sau này, giám sát trong tham vấn được hiểu rộng hơn, là một phần trong mô
hình thực hành nghề nghiệp tham vấn. Cuốn sách “Ethical, legal, and
professional issues in counseling” đã chỉ ra vị trí của hoạt động giám sát trong
mối quan hệ giữa tham vấn và sự phát triển nghề nghiệp.

16


THỰC HÀNH THAM VẤN

Tham vấn

Luật pháp

Giám sát

Đạo đức
hành nghề

Phát triển

nghề nghiệp

Hệ thống
chính sách

Hiệp hội Giáo dục và Giám sát Nhà tham vấn (ACES) của Hoa Kỳ
khẳng định rằng việc giám sát phải luôn diễn ra trong suốt sự nghiệp của một
nhà tham vấn và không dừng lại trước bất cứ trình độ giáo dục, bằng cấp hoặc
là thành viên của bất cứ tổ chức nghề nghiệp. Trong đó, giám sát tham vấn
được coi là một hoạt động trợ giúp chuyên nghiệp nhằm mục đích giúp đỡ
nhà tham vấn trưởng thành hơn trong nghề nghiệp như: Giúp họ đạt được các
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, sự tự tin, sáng tạo, chuyên nghiệp; Tăng
cường các kiến thức và kỹ năng; Đảm bảo sự an toàn cho người được giám
sát và khách hàng của họ trong các tình huống phức tạp... Từ đó nhà tham vấn
có thể giúp các khách hàng của mình đương đầu với vấn đề một cách tốt nhất.
Trong tham vấn, giám sát cũng được coi là một loại hình tham vấn đặc
biệt, trong đó khách hàng (là người đang hành nghề tham vấn như sinh viên
cuối khóa, các nhà tham vấn mới vào nghề hoặc các chuyên gia tham vấn)
tham khảo ý kiến của người giám sát để nâng cao khả năng làm việc với
khách hàng của mình. Hay nói cách khác, giám sát là một mối quan hệ liên cá
nhân sâu sắc, trong đó một người được chỉ định để tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển năng lực tham vấn của một hoặc nhiều người khác (Loganbill,

17


Hardi và Delworth, 1982) nhằm mục đích giúp đỡ họ ngày càng trưởng thành
hơn trong nghề nghiệp. Đồng thời, giám sát cũng là mối quan hệ ảnh hưởng
mang tính hệ thống, trong đó người giám sát tác động đến nhà tham vấn, nhà
tham vấn tác động đến khách hàng và điều đó ảnh hưởng đến cuộc sống của

khách hàng. Khi người giám sát sử dụng kỹ năng tốt thì kỹ năng sẽ phóng
chiếu vào nhà tham vấn và nhà tham vấn có thể áp dụng chúng với khách
hàng và khách hàng áp dụng chúng vào cuộc sống. Hệ thống này cũng có thể
có tác động ngược lại như: Những lo lắng của khách hàng biến chuyển/phóng
chiếu thành lo lắng của nhà tham vấn và điều này có thể ảnh hưởng đến quá
trình giám sát: Nhà tham vấn trở thành khách hàng và người giám sát trở
thành nhà tham vấn. Để tránh tác động ngược này, cả người giám sát và nhà
tham vấn đều cần ý thức một cách rõ ràng công việc của người giám sát là:
Tôi (người giám sát) và Bạn (nhà tham vấn) trò chuyện về Họ (khách hàng
của nhà tham vấn) với mục đích nâng cao kiến thức, kỹ năng cho Bạn, để Bạn
giúp đỡ khách hàng của mình tốt hơn.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi định nghĩa giám sát như sau:
“Giám sát là một loại hình tham vấn đặc biệt, trong đó, người giám sát sử
dụng các kỹ năng giám sát của mình nhằm giúp người được giám sát (nhà
tham vấn) nâng cao khả năng làm việc với khách hàng của họ (nhà tham
vấn), từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tham vấn”.
Như vậy giữa tham vấn và giám sát có những điểm khác biệt sau đây:
Tham vấn

Giám sát
Mục tiêu

Tăng cường nội lực cho khách hàng Giúp nhà tham vấn phát triển kỹ năng
để khách hàng đương đầu với cuộc và phát huy năng lực bản thân để họ
sống dựa trên kinh nghiệm của mình

giúp đỡ khách hàng có hiệu quả

Phương thức thể hiện


18


Lời nói của khách hàng

Lời nói, chữ viết, băng ghi âm, băng
hình, quan sát ca tham vấn
Những mong đợi

Khách hàng không có sự chuẩn bị

Nhà tham vấn chuẩn bị cho buổi giám

Tốc độ tham vấn được xác định bởi sát và cung cấp thông tin cần thiết
sự sẵn sàng của khách hàng

Tốc độ giám sát được xác định bởi
người giám sát
Mối quan hệ

Quan hệ hữu hạn

Quan hệ liên tục

Chỉ tập trung vào khách hàng

Mối quan hệ liên cá nhân sâu sắc

Không có trách nhiệm đánh giá trực Đánh giá trực tiếp công việc của nhà
tiếp khách hàng


tham vấn

1.2.3.2. Mục tiêu và nội dung giám sát trong tham vấn
Hoạt động giám sát nhằm các mục tiêu: (1) Tăng cường kiến thức, kỹ
năng, thái độ cho các nhà tham vấn, cụ thể giúp nhà tham vấn: khám phá và
nhìn nhận lại cách thức họ đang làm việc với khách hàng, nâng cao khả năng
tiếp cận và các kỹ năng tham vấn cho nhà tham vấn; (2) Nâng cao chất lượng
hoạt động tham vấn của tổ chức, cụ thể xây dựng và áp dụng được quy trình
đánh giá chất lượng và hiệu quả ca tham vấn, đảm bảo chất lượng các ca tham
vấn ở mức độ có thể chấp nhận được, xác định được nhu cầu đào tạo cho các
nhà tham vấn tại cơ sở; (3) Duy trì tính chuyên nghiệp của nghề tham vấn, cụ
thể giúp nhà tham vấn nhận thức rõ rằng mình đang đi đúng hướng, làm việc
theo đúng quy định của pháp luật, đạo đức hành nghề, duy trì và thúc đẩy
trách nhiệm làm việc, khả năng làm việc ở mức tốt nhất; (4) Bảo vệ gián tiếp
quyền lợi của khách hàng, cụ thể bảo vệ khách hàng không bị nhà tham vấn
gây hại, khách hàng nhận được dịch vụ tham vấn hiệu quả và phù hợp

19


Từ mục tiêu trên có thể thấy công việc giám sát có chức năng: (1) Cung
cấp kiến thức; (2) Tăng năng lực; (3) Đánh giá nhân viên
Nội dung giám sát có thể do nhà tham vấn lựa chọn khi họ nhận thấy
yếu về vấn đề nào đó, tuy nhiên, nội dung giám sát cũng thường được đề xuất
từ chính người giám sát bởi nhà tham vấn không thể nhận biết hết được vấn
đề mình cần phải được giám sát. Những nội dung giám sát thường bao gồm:
(1) Giám sát cả quá trình thực hiện ca; (2) Giám sát từng giai đoạn hoặc theo
giai đoạn trong quá trình tham vấn; (3) Giám sát việc sử dụng kiến thức, kỹ
năng về một vấn đề cụ thể; (4) Giám sát việc xây dựng mối quan hệ với khách

hàng; (5) Giám sát mọi khía cạnh gây ảnh hưởng tiêu cực tới khách hàng.
1.2.3.3. Người giám sát: Vai trò, các kỹ năng và phẩm chất tâm lý cần có
Người giám sát là các nhà tham vấn bậc cao, các cố vấn, nhà tư vấn,
người đào tạo về giám sát.
Theo hiệp hội Giáo dục và Giám sát nhà tham vấn của Hoa Kỳ
(ACES), người giám sát trong tham vấn là những nhà tham vấn được bổ
nhiệm trong phạm vi trường đại học hoặc tổ chức thực hành tham vấn (mang
tính pháp lý) để quan sát trực tiếp công việc chuyên môn của các nhà tham
vấn. Người giám sát cũng có thể là những người chịu trách nhiệm giám sát
các sinh viên thực tập tham vấn trong thời gian thực tập nghề, hoặc giám sát
cho các nhà tham vấn đang muốn có chứng chỉ hành nghề cấp quốc gia và họ
cũng cung cấp sự giám sát cho các tổ chức bên ngoài.
Vẫn theo ACES, vai trò của người giám sát bao gồm: (1) đảm bảo
quyền lợi của khách hàng; (2) khuyến khích nhà tham vấn (người được giám
sát) tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức, pháp lý và nghề nghiệp và duy trì sự
nghiêm túc khi làm việc với khách hàng; (3) kiểm soát việc thực hiện các biện
pháp làm việc với khách hàng của nhà tham vấn (người được giám sát); (4)

20


tạo điều kiện và đánh giá sự phát triển chuyên môn và sự trưởng thành của
nhà tham vấn (người được giám sát).
Các phẩm chất tâm lý cần có của người giám sát cũng tương tự như các
phẩm chất tâm lý cần có của nhà tham vấn nhưng đòi hỏi ở mức độ cao hơn,
bao gồm: giữ bí mật, thấu cảm, linh hoạt, trung thực, có kỹ năng thực hành,
sẵn sàng giúp đỡ, cởi mở, có khả năng bày tỏ và khích lệ.
Khi làm việc với người được giám sát, người giám sát sẽ sử dụng một
số kỹ năng chính như: lắng nghe, quan sát/chú ý một cách chính xác những
cảm xúc và suy nghĩ của người được giám sát; đặt câu hỏi một cách phù hợp

để làm sâu sắc hơn nhận thức và định hướng về ca tham vấn và năng lực tham
vấn của người được giám sát; kỹ năng phản hồi; kỹ năng quản lý và giải quyết
mâu thuẫn; kỹ năng suy nghĩ tích cực; kỹ năng tự nhận thức bản thân… Trong
đó, kỹ năng đặt câu hỏi được coi là kỹ năng quan trọng nhất, then chốt nhất
của người giám sát. Để người được giám sát tránh rơi vào cảm giác bị chất
vấn bởi người giám sát, E.D. Neukrug cho rằng người làm công tác giám sát
tham vấn có thể sử dụng các câu hỏi sau trong buổi giám sát:
• Bạn (nhà tham vấn được giám sát) ước là bạn đã nói được điều gì với
khách hàng?
• Bạn nghĩ là khách hàng sẽ phản ứng lại như thế nào nếu bạn đã nói như
thế?
• Liệu sẽ có những rủi ro gì trong việc nói những điều bạn muốn nói?
• Nếu bây giờ bạn có cơ hội, bạn có thể nói như thế nào với khách hàng
về những gì bạn đang nghĩ và đang cảm thấy?
• Những cảm xúc đó bạn có cảm nhận được trên một số bộ phận của cơ
thể bạn không?
• Liệu có bất kỳ suy nghĩ nào khác chạy qua trong đầu bạn hiện nay?
• Bạn muốn người khác nhận thấy bạn như thế nào?

21


• Bạn có nhận thức được bất kỳ cảm xúc nào của khách hàng? Cảm xúc
đó có ý nghĩa đặc biệt nào với bạn?
• Bạn muốn khách hàng nói gì với bạn?
• Bạn nghĩ khách hàng muốn gì từ bạn?
• Khách hàng có gợi cho bạn nhớ đến ai đó trong cuộc sống của bạn
không?
Ngoài ra, người giám sát phải có am hiểu sâu sắc về tham vấn, có
những kỹ năng nhận thức tốt về khách hàng và là người giải quyết vấn đề tốt.

Hiệp hội Giáo dục và Giám sát nhà tham vấn Hoa Kỳ đã đưa ra các tiêu
chuẩn cho người giám sát, tuy nhiên các tiêu chuẩn này thiên về bằng cấp,
chứng nhận chứ chưa đề cập một cách cụ thể các yêu cầu về năng lực, phẩm
chất và kỹ năng của người giám sát. Các tiêu chuẩn đó bao gồm:
• Tốt nghiệp đại học ngành tham vấn
• Có quá trình làm việc thành công (được chứng nhận) trong vai trò là
nhà tham vấn
• Có chứng chỉ của một trong các tổ chức sau: chứng chỉ của bộ giáo
dục, giấy phép hành nghề của nhà nước với vai trò nhà tham vấn,
chứng chỉ nhà tham vấn quốc gia, chứng chỉ lâm sàng nhà tham vấn
sức khỏe tâm thần, chứng chỉ nhà tham vấn nghề.
• Tốt nghiệp các khóa đào tạo giám sát tham vấn, bao gồm các khóa đào
tạo chuyên môn, hội thảo, khóa thực hành giám sát
• Tiếp tục học tập chuyên sâu về lý thuyết và thực hành giám sát, các
hoạt động nghiên cứu về lý thuyết và thực hành giám sát.
1.2.3.4. Người được giám sát và tính dễ tổn thương, các cơ chế phòng vệ
Theo định nghĩa của Hiệp hội Giáo dục và Giám sát nhà tham vấn Hoa
Kỳ, người được giám sát là những nhà tham vấn đang được đào tạo trong các
trường đại học ở bất kỳ trình độ nào, các nhà tham vấn đang làm việc với

22


×