Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn được sử dụng trong tố tụng hình
sự. Là một trong những biện pháp ngăn chặn hữu hiệu nhất và nghiêm khắc nhất
trong số các biện pháp ngăn chặn của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam sẽ góp phần quan
trọng cho việc thực hiện được tốt chính xác các trình tự tố tụng hình sự, phát hiện
chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với kẻ phạm
tội, không để lọt tội phạm.
I-BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ:
1-Khái niệm biện pháp tạm giam:
Theo Điều 88 BLTTHS năm 2003, biện pháp tạm giam được hiểu
là:biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội.
Từ cách giải thích nêu trên của BLTTHS có thể thấy biện pháp tạm
giam về bản chất là sự cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong một thời gian nhất
định, khi đó, bị can, bị cáo bị hạn chế một số quyền công dân. Cũng chính từ đặc
điểm này mà biện pháp tạm giam được coi là biện pháp ngăn chặn mang tính
nghiêm khắc nhất.
2-Mục đích của biện pháp tạm giam:
Là một trong số các biện pháp ngăn chặn, biện pháp tạm giam vừa có
mục đích chung vừa có mục đích riêng.
Thứ nhất, về mục đích chung: biện pháp tạm giam cũng như các biện
pháp ngăn chặn khắc đều được áp dụng nhằm ngăn chặn, không để bị can, bị cáo
có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định.
Thứ hai, về mục đích riêng: Việc áp dụng biện pháp tạm giam có
mục đích riêng là nhằm nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan
tố tụng. Ví dụ như: trong giai đoạn điều tra áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị
can nhằm tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra có thể thuận lợi tiến hành các hoạt
động như thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất kỳ lúc nào khi xét thấy
cần thiết mà không cần mất thời gian triệu tập nhiều lần. Qua đó, việc giám sát
quản lý bị can sẽ được chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, việc tạm giam bị cáo sau khi
tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật
được hiệu quả.
3-Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam:
1
Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo rơi
vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003. Cụ thể áp
dụng với các trường hợp sau:
Trường hợp một: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
hoặc phạm tội rất nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS thì
trường hợp bị can, bị cáo phạm tội được quy định trong BLHS mà mức cao nhất
của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình được coi là trường hợp bị can, bị cao phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Còn
trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15
năm tù thì được coi là phạm tội phạm nghiêm trọng.
Như vậy, theo qui định của Điều 88 thì trong trường hợp áp dụng biện
pháp tạm giam đầu tiên khi có đầy đủ hai điều kiện sau:
Một là, người thực hiện tội phạm phải là bị can, bị cáo. Tức là người
đã bị khởi tố bị can hoặc là người đã bị Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử với tư cách là bị cáo.
Hai là, bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất
nghiêm trọng
Trường hợp hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm
tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội.
Để áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
Một là, người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo.
Hai là, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm tù. Trường hợp trong
cùng một điều luật có nhiều điều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt
trên hai năm tù có thể áp dụng biện pháp tạm giam. Phạm tội thuộc khoản có mức
hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được áp dụng biện pháp tạm giam.
Ba là, có căn cứ cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này
cần căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo; căn cứ vào thái độ của họ sau khi phạm tội
hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác ít nghiêm khắc.
Tuy nhiên, ngoài hai trường hợp nếu trên, khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm
2003 quy định về trường hợp ngoại lệ không áp dụng biện pháp tạm giam:
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con
dưới ba nươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
2
ràng thì không tạm giam mà phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những
trường hợp sau đây:
a)Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b)Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp
tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c)Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ nguy hại đến an ninh quốc gia.
Khoản 2 Điều 88 đưa ra ngoại lệ không áp dụng biện pháp tạm giam
với bị can bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con dưới ba sáu
tháng tuổi, người già yếu và người bị bệnh nặng là một qui định hoàn toàn hợp lý,
qui định này được xuất phát từ chính tính chất nhân đạo và khoan dung của pháp
luật xã hội chủ nghĩa, từ sự quan tâm ưu tiên và bảo vệ bà mẹ và trẻ em, cũng như
dành cho những người già yếu, người bị bệnh nặng. Đây không phải là một sự thiên
vị hay đối xử bất công bằng giữa các bị can, bị cáo. Bởi lẽ, pháp luật cũng qui định
rõ khi những đối tượng nêu trên được pháp luật không áp dụng biện pháp tạm giam
nhưng có hành vi qui định tại điểm a, b và c ( khoản 2 Điều 88) thì ngay lập tức họ
bị tước sự ưu tiên này và bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biên pháp tạm giam.
4-Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:
Thẩm quyền theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là: “quyền xem xét,
quyết định”. Theo ý hiểu của cá nhân em, thẩm quyền ra lệnh tạm giam được hiểu là
khả năng của các chủ thể nhất định được áp dụng biện pháp tạm giam đối với các bị
can, bị cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam. Dẫn
chiếu đến khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003 thì đó là những người tiến hành tố
tụng theo quy định của pháp luật. Bao gồm:
Một: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện
kiểm sát quân sự các cấp;
Hai: Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
Ba: Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
Bốn: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường
hợp này, lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi
thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến
3
việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau
khi kết thúc việc xem xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
5- Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo em được hiểu là trình tự
tiến hành một hệ thống các hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
ra lệnh tạm giam để thực hiện việc áp dụng biện pháp tạm giam với bị can, bị
cáo.
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam hiện nay được qui đinh tương
đối chi tiết tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 BLTTHS. Cụ thể bao gồm thứ tự các
bước sau:
Thứ nhất, việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền.
Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ
tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và phải
giao cho người bị tạm giam một bản.
Thứ hai, trước khi bắt người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và
giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người bị bắt có
quyền yêu cầu người thi hành lệnh bắt đọc toàn văn lệnh bắt và giải thích lệnh.
Trong trường hợp có nghi ngờ về lệnh bắt, người bị bắt có quyền yêu cầu cho xem
lệnh bắt và người thi hành lệnh bắt phải chấp nhận yêu cầu đó.
Thứ ba, khi bắt phải lập biên bản bắt người, nội dung biên bản theo
đúng qui định của pháp luật TTHS. Biên bản này phải được đọc cho người bị bắt
và người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt, người chứng kiến
phải cùng ký tên vào biên bản.
Lưu ý:
• Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú phải có đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn, người láng giềng của người bị bắt chứng kiến.
• Khi tiến hành băt người tại nơi làm việc của họ thì phải có người
đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm viêc chứng kiến.
• Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có đại diện chính quyền
địa phương nơi bắt chứng kiến.
• Không bắt người vào ban đêm trừ trường hợp khẩn cấp.
• Nhằm xác định đúng đối tượng bị tạm giam, tránh trường hợp
nhầm lẫn, sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc để gia đình họ cũng
như cơ quan, tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành thủ tục tìm kiếm,
gây tốn kém.
6- Thời hạn tạm giam:
4
Theo khoản 1 Điều 149 BLDS năm 2005, thời hạn được hiểu là:
“một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác”.
Trong pháp luật tố tụng hình sự, thời hạn tạm giam được hiểu là khoảng thời
gian tối đa được áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo kể từ thời
điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giam bị can,
bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố
tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Cụ thể:
a.Giai đoạn điều tra:
Giai đoạn này có các loại thời hạn tạm giam như sau:
- Thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để điều tra được quy định
tại Điều 120 BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội. Cụ thể:
+ Tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội ít nghiêm
trọng là 3 tháng.
+ Riêng đối với những vụ án về tội ít nghiêm trọng được áp dụng
thủ tục rút gọn thì thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố được quy định tại khoản 3
Điều 322 BLTTHS là không được quá mười sáu ngày.
+ Tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng
là 6 tháng.
+ Tổng thời hạn tạm giam điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng
là 9 tháng.
+ Tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội đặc biệt
nghiêm trọng là 16 tháng.
- Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra được quy định tại khoản 4 Điều
121 BLTTHS như sau:
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm
giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi
điều tra quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS. Như vậy, thời hạn tạm giam bị
can để phục hồi điều tra đối với tội ít nghiêm trọng là không quá hai tháng. Thời
hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội nghiêm trọng là không quá
hai tháng, có thể được gia hạn một lần nhưng không quá hai tháng. Thời hạn tạm
giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội rất nghiêm trọng là không quá hai
tháng, có thể được gia hạn một lần không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can
để phục hồi điều tra đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá ba tháng và có
thể được gia hạn một lần nhưng không qua ba tháng.
- Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung cũng được quy định tại khoản 4
Điều 121 BLTTHS như sau: trong trường hợp có căn cứ của Bộ luật luật tố tụng
hình sự cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không quá
thời hạn điều tra bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS. Theo đó, thời
5
hạn tạm giam bị can để điều tra bổ sung không phụ thuộc vào loại tội mà tuỳ
thuộc vào cơ quan (Toà án hay Viện kiểm sát) trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu hồ
sơ do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị
can là không quá hai tháng. Trường hợp này hồ sơ vụ án do viện kiểm sát trả lại
lần thứ hai để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can để điều tra bổ
sung lần này cũng không quá hai tháng. Nếu hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ
sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can là không quá một tháng. Trường hợp
Toà án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai thì thời hạn tạm giam bị can để
điều tra bổ sung lần thứ hai cũng là một tháng.
b. Giai đoạn truy tố :
Thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố được quy định tại khoản 2
Điều 166 BLTTHS và không được quá thời hạn để ra một trong bốn quyết định:
Truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng; trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Cũng giống như ở giai đoạn điều tra, thời hạn
tạm giam ở giai đoạn truy tố được quy định đối với từng loại tội phạm như sau:
Thời hạn tạm giam bị can phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng để truy tố
là hai mươi ngày; có thể được gia hạn thêm nhưng không quá mười ngày. Thời hạn
tạm giam bị can phạm tội rất nghiêm trọng để truy tố là ba mươi ngày có thể được
gia hạn thêm nhưng không quá mười lăm ngày. Thời hạn tạm giam bị can phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng để truy tố là ba mươi ngày và có thể gia hạn thêm nhưng
không quá ba mươi ngày.
c. Giai đoạn xét xử sơ thẩm :
Giai đoạn này có các loại thời hạn: Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc
xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án:
- Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm bao gồm hai loại. Loại thứ
nhất là thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam do
chánh án, phó chánh án toà án quyết định sau khi thụ lí hồ sơ vụ án. Thời hạn này
được quy định cụ thể đối với từng loại tội, cụ thể, đó là: Ba mươi ngày đối với tội
ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội
rất nghiêm trọng và ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án là thời hạn tạm giam đối
với bị cáo sau khi tuyên án. Theo quy định tại khoản 3 Điều 228 BLTTHS thì thời
hạn tạm giam bị cáo trong trường hợp này là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên
án.
d. Giai đoạn xét xử phúc thẩm :
6
Giai đoạn này cũng có thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử
phúc thẩm và thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm:
- Thời hạn tạm giam đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm cũng giống như
thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để bảo đảm cho
việc xét xử phúc thẩm bao gồm hai loại:
+ Một là, thời hạn tạm giam được tính bằng ngày. Thời hạn này
được quy định chung cho các loại tội phạm và phụ thuộc vào toà án cấp nào thụ
lí vụ án. Nếu vụ án do Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu thụ
lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là sáu mươi ngày. Nếu vụ án do Toà
án quân sự trung ương, Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao thụ lí để xét xử phúc
thẩm thì thời hạn tạm giam là chín mươi ngày.
+ Hai là, thời hạn tạm giam xuất hiện sau khi loại thời hạn thứ nhất
đã hết và kéo dài cho tới khi kết thúc phiên toà phúc thẩm. Đây là thời hạn tạm
giam đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm
giam đã hết và Toà án ra lệnh tạm giam (tiếp theo) khi xét thấy cần tiếp tục tạm
giam để hoàn thành việc xét xử.
- Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm được quy định tại khoản
3 Điều 243 BLTTHS: “Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày
kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm
giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4
và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này. Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị
xử phạt tù thì hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau
khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định tại Điều 261 của Bộ luật này. Thời hạn
tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án”.
Ngoài các thời hạn nêu trên, còn một loại thời hạn nữa được đề cập tại
Điều 287 BLTTHS, đó là loại thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm giam
mà Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ án để điều tra hoặc xét xử lại. Theo quy định
tại đoạn 2 Điều 287 BLTTHS thì: “Trong trường hợp huỷ bản án hoặc quyết định
bị kháng nghị để điều tra hoặc để xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo
là cần thiết thì hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi viện kiểm
sát hoặc toà án thụ lí lại vụ án”.
7- Một số vấn đề pháp lý khác liên quan đến tạm giam:
a.Chế độ tạm giam:
Tạm giam không phải là một hình phạt mà là một trong những biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không nhằm mục
đích trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh
pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Tại Điều
7
89 BLTTHS năm 2003 quy định chế độ tạm giam khác với chế độ chấp hành hình
phạt tù. Người bị tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành hình
phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định về chế độ đi lại, sinh hoạt, liên hệ với gia
đình trong thời gian bị tạm giam.
b.Những biện pháp bảo hộ của pháp luật:
Tại Điều 90 BLTTHS quy định những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối
với nhân thân và tài sản của người bị tạm giam như sau:
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, nếu người bị tạm giam có con chưa
thành niên dưới 14 tuổi hoặc người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không
có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho
người thân thích khác chăm nom. Trường hợp người bị tạm giam không có người
thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho chính
quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản
khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ quan ra lệnh tạm giam phải áp
dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng. Sau khi đã áp dụng những
biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản, cơ quan đã ra quyết định tạm giam
phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
II- THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM:
• Những thành tựu đạt được:
Tạm giam đã mang lại hiệu quả rất lớn trong quá trình điều tra
phòng chống tội phạm ở nước ta, hàng loạt các vụ án được khám phá nhanh
chóng kịp thời, đáp ứng nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, các
quyền và lợi ích được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ.
Đại đa số các trường hợp áp dụng các biện pháp tạm giam là có căn
cứ đúng pháp luật, tình trạng tạm giam thiếu căn cứ pháp luật ngày càng được
khắc phục.
Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra lệnh tạm giam đã
ngày càng linh hoạt, đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác khi không cần
thiết áp dụng biện pháp tạm giam như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh,…
• Những hạn chế còn tồn tại:
Mặc dù các qui định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm
giam đã tương đối cụ thể, chi tiết và rõ ràng song trên thực tế áp dụng những qui
định này vẫn còn tạo ra nhiều vướng mắc, khó khăn đối với cơ quan, người có
thẩm quyền áp dụng.
8
Một, nhiều trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh tạm giam, lệnh bắt
tạm giam có căn cứ nhưng theo Viện kiểm sát đó không phải là những căn cứ để
áp dụng biện pháp tạm giam nên không phê chuẩn lệnh bắt. Tức giữa các cơ
quan mâu thuẫn với nhau cách hiểu :“căn cứ” ( khoản 1 Điều 88) để áp dụng
lệnh bắt tạm giam .
Hai, các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp tạm giam quá
nhiều mà ít áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Ngoài ra
còn có trình trạng áp dụng sai biện pháp tạm giam, thậm chí áp dụng biện pháp
tạm giam một cách tràn lan, coi biện pháp tạm giam như một biện pháp điều tra,
xâm phạm đến quyền tự do cá nhân, quyền cơ bản của công dân.
Số người bị áp dụng biện pháp tạm giam trên tổng số người khởi tố
một số năm như sau: Năm 2004 là 85%; năm 2005 là 86 %; năm 2006 là 85 %; năm
2007 là 84% (Vụ 4 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù các
năm 2004 đến năm 2009)
Số lượng lệnh bắt tạm giam và lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra
không được Viện kiểm sát phê chuẩn năm 2008 là 632 lệnh; năm 2007 là 670 lệnh;
năm 2006 là 679 lệnh; năm 2005 là 721 lệnh (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo
cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân các năm 2006 đến 2008).
Tạm giam quá thời hạn năm 2008 là: chiếm 40% tổng các trường hợp
áp dụng biện pháp tạm giam, tức tỉ lệ tạm giam quá thời hạn còn khá cao.
• Nguyên nhân:
Thứ nhất, các qui định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm
giam còn chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, thậm chí còn thiếu qui định hay hướng dẫn
chi tiết về qui định còn mập mờ trong BLTTHS năm 2003. Từ đó dẫn đến hiểu sai,
hiểu thiếu hay áp dụng tùy tiện từ phía các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các chủ thể có thẩm
quyền như Điều tra viên, kiểm sát viên chưa sâu và chưa cao cho nên khi áp dụng
các qui định của pháp luật về biện pháp tạm giam còn lúng túng, khó tránh khỏi
những sai lầm nghiêm trọng.
Thứ ba, các chủ thể có thẩm quyền nêu trên chưa chấp hành đúng các
qui định pháp luật về thủ tục, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến tình trạng
áp dụng không đúng.
Thứ tư, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát còn chưa thường xuyên, đầy đủ cho nên không phát hiện và
có biện pháp khắc phục kịp thời.
9
Thứ năm, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, của bị can, bị cáo
về pháp luật nói chung, các qui định về bắt người để tạm giữ trong tố tụng hình sự
dẫn đến tình trạng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền công dân, gây ra oan sai
không đáng có.
III-HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG TRONG THỰC TẾ:
Xuất phát từ những hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại trong việc
thực hiện biện pháp tạm giam, em xin được đưa ra một số kiến nghị trên các
phương diện như sau:
1.Hoàn thiện qui định về đối tượng áp dụng biến pháp tạm giam:
Điều 88 BLTTHS chỉ quy định chỉ những đối tượng sau đây có thể bị
ápdụng biện pháp tạm giam: Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó
có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội.Trong khi đó tại Điều 83 BLTTHS lại quy định một trong những việc cần làm
ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt theo lệnh truy nã là sau khi nhận được
thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra
ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp
phêchuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm
giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến
trại tạm giam nơi gần nhất.
Như vậy, Điều 88 BLTTHS chưa liệt kê đầy đủ đối tượng có thể bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam. Cho nên, sẽ là hợp lý nếu khoản 1 Điều 88
BLTTHS được sửa đổi lại theo hướng quy định thêm đối tượng có thể bị tạm giam
là người bị bắt theo lệnh truy nã.
2.Hoàn thiện qui định về thời hạn tạm giam:
• Qua các qui định của BLTTHS về thời hạn tạm giam, nhận thấy:
thời hạn tạm giam không được qui định thành trong phần những biện pháp ngăn
chặn mà được qui định song song với thời hạn tạm giam trong các giai đoạn tố
tụng như: điều tra, truy tố, xét xử. Để đảm bảo thực hiện đúng thời hạn tạm giam
và tránh tình trạng tạm giam quá hạn cần qui định thời hạn tạm giam thành một
điều luật riêng biệt.
• Thời hạn tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo được quy định
theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để đảm bảo
cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong đó thời hạn
10
tạm giam để quyết định truy tố được quy định bằng thời hạn quyết định truy tố; và
thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử được quy định bằng thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn gia hạn tạm
giam để điều tra phụ thuộc vào từng loại tội là một qui định không hợp lý. Nếu so
sánh với thời hạn điều tra thì chúng ta thấy tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội ít
nghiêm trọng là 4 tháng và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội ít
nghiêm trọng là 3 tháng; tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 8
tháng và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 6
tháng; tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 12 tháng và tổng
thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 9 tháng. Trong
khi đó, tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng và
tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng là 16
tháng. Như vậy, trong số các loại tội phạm nêu trên chỉ có tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là có tổng thời hạn tạm giam để điều tra bằng tổng thời hạn điều tra. Còn tội
ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng là các tội có tổng thời hạn tạm
giam để điều tra ngắn hơn tổng thời hạn điều tra. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm
giam trong quá trình điều tra vụ án hình sự cho thấy có nhiều vụ án thời hạn tạm
giam đã hết mà thời hạn điều tra vẫn còn. Cơ quan điều tra vẫn chưa kết thúc điều
tra vụ án nhưng phải trả tự do cho bị can. Việc trả tự do cho bị can trong trường
hợp này gây rất nhiều khó khăn cho việc tiếp tục điều tra vụ án. Có trường hợp
còn gây nghi ngờ trong dư luận nhân dân xung quanh việc trả tự do cho bị can. Để
khắc phục bất cập này và tạo thuận lợi cho Cơ quan điều tra, cần sửa lại quy định
tại Điều 120 BLTTHS về thời hạn tạm giam để điều tra theo hướng quy định tổng
thời hạn tạm giam để điều tra (trong đó có thời hạn gia hạn) bằng tổng thời hạn
điều tra vụ án theo loại tội.
3. Hoàn thiện qui định về căn cứ để tạm giam:
Điểm b khoản 1 điều 88 BLTTHS qui định: “bị can, bị cáo phạm
tội nghiêm trọng mà BLTTHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có
thể tiếp tục phạm tội”. Vậy căn cứ đó là căn cứ gì và luật chưa quy định cụ thể. Vì
thế luật phải quy định rõ căn cứ nào để cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Làm như thế
để tránh sự tùy tiện, phán đoán chủ quan trong việc khẳng định bị can, bị cáo có
bỏ trốn hay cản trở hay tiếp tục phạm tội.
Có thể hoàn thiện qui định về căn cứ tạm giam theo hướng như sau:
• Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định
trong luật. Những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư
trú của bị can, bị; tình trạng nghề; tính chất hành vi đã thực hiện; nhân thân; sự
11
ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; những biểu hiện cụ thể của bị
can, bị cáo...Luật phải quy định cụ thể để áp dụng biện pháp tạm giam hợp lí và
đúng lúc hơn.
• Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
cũng không quy định trong luật. Những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị
cáo cản trở việc tiến hành tố tụng thường là: Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành
vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối
phó hoạt động tố tụng; Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh,
côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại
hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối; Sự ràng buộc với gia
đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp; Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về
hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ
bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại;
những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do
phạm tội mà có…
• Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Để nhận định bị
can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một
cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị
cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can,
bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng
thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.Vì thế luật cũng phải quy định để
thuận tiện trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn.
4. Bổ sung căn cứ tạm giam đối với bị can bị cáo chưa thành niên:
Khoản 2 Điều 303 BLTTHS qui định: “người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi chỉ có thể bị tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội rất nghiêm trọng và phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, trong trường hợp người thành niên phạm tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng do vô ý thì sẽ không áp dụng biện pháp tạm giam với bất cứ lý
do gì. Vậy, nhiều trường hợp bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
ít nghiêm trọng và nghiêm trong do vô ý đã được tại ngoại những đã bỏ trốn nhiều
lần và bị bắt với lệnh truy nã, lúc này Cơ quan điều tra, Tòa án và Viện kiểm sát
không biết áp dụng biện pháp tạm giam nhưu thế nào. Vì vậy theo em cần sửa đổi
Điều khoản trên như sau: “Trường hợp bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do vô ý nhưng có căn cứ cho
rằng bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội thì áp dụng biện pháp tạm giam”.
12
5. Hoàn thiện qui đinh về chế độ tạm giam phụ nữ có thai, đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh năng khi cần thiết:
Đối với những đối tượng không được miễn trừ chính sách ưu đãi theo quy
định Điều 88 khoản 2: đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
nhỏ dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng
nếu có đủ điều kiện tạm giam thì vẫn có thể ra lệnh tạm giam, đó là những trường
hợp đặc biệt. Pháp luật qui định áp dụng biện pháp tạm giam với các đối tượng nêu
trên khi:
+ Bị can,bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
+ Bị can,bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp
tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử ;
+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Trong trường hợp này luật chỉ đưa ra đối tượng không được miễn trừ chính
sách ưu đãi khi áp dụng biện pháp tạm giam nhưng chưa có quy định cụ thể về
điều kiện áp dụng đảm bảo quyền lợi cho họ. Vì thế luật luật phải quy định một
cách rõ ràng trường hợp bị can, bị cáo mang thai phải được hưởng chế độ giam
giữ như thế nào, để đảm bảo sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, dinh dưỡng cho thai
sản ra sao? trẻ sinh ra và phải ở với mẹ trong trại tạm giam được chăm sóc nuôi
dưỡng ra sao? đây là những vấn đề mà luật cần quy định để hướng dẫn việc thi
hành biện pháp ngăn chặn có hiệu quả hơn.
6. Hoàn thiện qui định về trách nhiệm của người đề xuất, người ra
lệnh và người phê chuẩn lệnh tạm giam:
Pháp luật quy định sau khi khởi tố, Thủ trường cơ quan điều tra trực
tiếp điều tra hoặc quyết định phân công cho điều tra viên điều tra vụ án.Còn việc
áp dụng biện pháp tạm giam, điều tra viên chỉ có quyền đề xuất, Thủ trưởng cơ
quan điều tra ký quyết định. Vậy nếu việc tạm giam này là trái pháp luật thì ai
chịu trách nhiệm. Nếu việc tạm giam sau đó được Viện kiểm sát phê chuẩn thì
người phê chuẩn có phải chịu trách nhiệm không.Tất cả những điều này chưa
được quy định rõ ràng.
Như vậy, đối với trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người
phê chuẩn lệnh tạm giam cần phải hướng dẫn theo hướng: Nếu tạm giam trái pháp
luật thì điều tra viên phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, thủ trưởng cơ quan
điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh còn nếu việc tạm giam sau đó
được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người
13
đề xuất, còn người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người phê chuẩn. Mức
độ sai phạm và trách nhiệm của từng người là như nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
• Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008. Trang 319-321; trang 224-229.
• ThS. Mai Bộ, Các loại thời hạn tạm giam trong BLTTHS năm 2003, Tạp
chí Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao, Số 8/2004, tr.10-14.
• Nguyễn Thị Minh Thương, Tạm giữ và tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp năm 2011, Trường Đại học Luật Hà Nội.
• Hà Đình Hiệu, Tạm giam trong Tố tụng hình sự - Một số vấn đề lí luận và
thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp năm 2010, Trường Đai học Luật Hà Nội.
14