Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG HIỆN ĐẠi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.29 KB, 18 trang )

Đề tài:

ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG HIỆN ĐẠi

Mục lục
A-Mở đầu
B- Nội dung
I. Đặc điểm của ngân hàng trung ương hiện đại
1.Vị trí pháp lý:
1.Hoạt động
1.1 Độc lập trong việc thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT)
1.2. Độc lập trong hoạt động thanh tra, giám sát các ngân hàng trung gian
2.Mục tiêu
3.Chức năng
4.Nhiệm vu, quyền hạn của NHTW
5. Cơ cấu tổ chức và quản lý nội bộ
II. Mô hình NHTW ở một số nước trên thế giới
1.NHTW trực thuộc quốc hội
2.NHTW trực thuộc chính phủ
3.NHTW trực thuộc Bộ Tài Chính.
III. Một số kiến nghị xây dựng NHTW hiện đại ở Việt Nam
1. Những điểm mới trong Luật NHNN sửa đổi năm 2010
2. Về sự độc lập tự chủ của NHNN Việt Nam
IV- Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam
1. Quan điểm
2. Các biện pháp
2.1. Trong ngắn hạn
2.2. Trong dài hạn
C- Kết luận


1


A-Mở đầu
Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là
một trong những cơ quan có vị thế cực kỳ quan trọng, là ngân hàng đứng
đầu trong hệ thống ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung
ương là nó không giao dịch, làm nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh
doanh và công chúng, khách hàng của nó là tất cả các ngân hàng khác.
Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các ngân hàng; bảo
quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay vốn khi
cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan
phát hành tiền tệ trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân
hàng trung ương các nước khác; là cơ quan cung cấp tiền cho ngân sách
khi cần và làm một số nghiệp vụ của kho bạc nhà nước.
NHTW là một chế định tài chính hỗn hợp mang hai đặc trưng cơ bản:
a. NHTW vừa là cơ quan thực thi trách nhiệm quản lý và bảo đảm cho
ngân hàng phát triển an toàn và ổn định thông qua việc cấp phép và thanh
tra, giám sát hoạt động của ngân hàng trung gian và các chế định tài chính
khác, là cơ quan phát hành tiền.
b. NHTW lại vừa mang tính chất là một doanh nghiệp nhưng lại hoạt
động với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, thực hiện các mục tiêu kinh
tế vĩ mô khác chứ không vì mục đích lợi nhuận.
=>Đây là điểm khác biệt giữa NHTW với cơ quan quản lý nhà nước
khác.

B- Nội dung
I. Đặc điểm của ngân hàng trung ương hiện đại:
1.Vị trí pháp lý:
Nói đến địa vị pháp lý của một tổ chức là đề cập đến vị trí, vai trò của

tổ chức đó trong bộ máy nhà nước phải được thể hiện hóa bằng pháp luật,
tức là được quy định và thừa nhận một cách hợp pháp, được thành lập và
2


hoạt động theo những trình tự và thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi
nói đến địa vị pháp lý của NHTW là nhấn mạnh vị trí pháp lý của NHTW
trong mối quan hệ với các thiết chế chính trị khác như Quốc Hội, Chính
Phủ và tính độc lập của NHTW trong việc thực thi các chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạng của mình.
NHTW với tư cách là một chế định công, vừa thực hiện nhiệm vụ đảm
bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng, vừa thực hiện chức năng của
NHTW nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ mô, góp phần phát
triển nền kinh tế. Có thể đây là nét đặc thù của NHTW và vì vậy nó
chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước. Trên thực tế, tùy theo điều
kiện kinh tế- xã hội mỗi quốc gia mà NHTW sẽ tổ chức theo những mô
hình khác nhau và có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước, có mối
quan hệ khác nhau với Chínnh phủ- cơ quan quản lý vĩ mô nền kinh tế và
địa vị pháp lý của thể của NHTW được xác định trong văn bản luật về
NHTW của mỗi quốc gia. Trên thực tế đã tồn tại 3 mô hình NHTW:
NHTW trực thuộc Quốc hội và độc lập với Chính phủ, NHTW trực thuộc
Chính phủ, NHTW trực thuộc bộ Tài chính.
+) NHTW trực thuộc Quốc hội và độc lập với Chính phủ:

NHTW không nằm trong cơ cấu bộ máy của chính phủ, không chịu sự
lãnh đạo điều hành của chính phủ. Theo chế định này, chính phủ không
có quyền can thiệp vào hoạt động của NHTW mặc dù ban lãnh đạo của
ngân hàng do tổng thống hay thủ tướng bổ nhiệm. Chính quyền không
được phế truất thống đốc. Điển hình cho mô hình này là NHTW ở các
nước như Hoa Kỳ, Đức…

+) NHTW trực thuộc chính phủ :

3


NHTW chịu sự điều hành trực tiếp của chính phủ , có sự can thiệp rất lớn,
không chỉ trên phương diện tổ chức, điều hành mà còn trong lĩnh vực
thực hiện CSTT quốc gia. Tiêu biểu là Ngân hàng Trung Quốc, Việt
Nam…
+) NHTW trực thuộc Bộ Tài chính:

BỘ TÀI CHÍNH

NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG

Đây là mô hình ít phổ biến, dễ xảy ra khả năng sử dụng công cụ phát
hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách. VD mô hình ở Pháp, Anh,
Malaysia…
Một NHTW được gọi là hiện đại – là ngân hàng có vị trí pháp lý độc
lập tức là mối quan hệ giữa NHTW với quốc hội và chính phủ phải được
làm rõ và tính độc lập tự chủ phải được đề cao. Trong hoạt động thực
hiện chức năng, hoạt động của NHTW thì quyền quyết định là của Ban
lãnh đạoNHTW chứ không phải là quyết định của Quốc hội hay Chính
phủ. Vị thế này được thể hiện rõ nét nhất trong việc xây dựng và thực
hiện chính sách tiền tệ. Đây là một trong những nhân tố quyết định sự
thành công của hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô.
1.Hoạt động :
1.1 Độc lập trong việc thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT)
Có thể nói CSTT có vai trò cực kì quan trọng đối với việc tăng trưởng

hoặc duy thoái của nền kinh tế thông qua việc hoạch định và thực thi
CSTT. Mục tiêu cơ bản của CSTT là :
+ kiểm soát lạm phát, kiểm soát và bình ổn thị trường tài chính
+ ổn định giá trị đồng tiền
+ tạo việc làm, tăng trưởng kinh tế
4


CSTT là hoạt động cơ bản và chủ yếu của NHTW. Việc giao quyền tự
chủ cho NHTW trong việc thực thi CSTT là cần thiết,nó cho phép
NHTW được độc lập trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn các CSTT
để đạt được các mục tiêu đó 1 cách hiệu quả nhất. Tính độc lập được xem
xét ở các mức độ khác nhau:
- Độc lập trong việc thực hiện mục tiêu: NHTW có trách nhiệm quyết
định CSTT và chế độ tỷ giá để sao cho có hiệu quả cao. Đây là mức độ
độc lập cao nhất mà NHTW có thể có được (đang được áp dụng đối với
hoạt động của NHTW Mỹ).
- Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động
- Tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành: Chính phủ hoặc Quốc
hội quyết định chỉ tiêu CSTT, có sự thỏa thuận với NHTW, NHTW sẽ có
trách nhiệm hoàn thành các chỉ tiêu đó.
- Mức độ tự chủ hạn chế: đây là mức độ tự chủ thấp nhất, ở vị trí này
NHTW thực chất chỉ là 1 cơ quan của chính phủ, thực thi CSTT theo sự
chỉ đạo của Chính phủ.
1.2. Độc lập trong hoạt động thanh tra, giám sát các ngân hàng trung
gian
NHTW có sứ mệnh quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển an toàn
và hiệu quả của toàn bộ hệ thống. Ngân hàng là lĩnh vực hoạt động tiềm
ẩn nhiều rủi ro và những hiệu ứng do nó gây ra có thể tác động tới nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và toàn bộ hệ thống tài chính quốc

gia. Hoạt động thanh tra là rất cần thiết, giúp phát hiện những yếu kém
trong quản lý, những vi phạm pháp luật, các chuẩn mực an toàn trong
hoạt động của ngân hàng.
2.Mục tiêu:
NHTW hiện đại cần phải xác định được mục tiêu độc lập và rõ ràng. Đầu
tiên và quan trong nhất là ổn định giá trị của đồng tiền.
3.Chức năng:
- Phát hành tiền: NHTW được trao trọng trách thực hiện chế độ nhà nước
độc quyền phát hành tiền để đảm bảo sự an toàn và thống nhất việc lưu
thông hệ thống tiền tệ. Việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên
tắc chặt chẽ và đi đôi với việc kiểm soát lưu thông tiền tệ , gắn chặt với
CSTT của quốc gia.
- Là ngân hàng của Nhà nước: NHTW có nhiệm vụ và quyền hạn theo
quy định của PL và hoạt động vì lợi ích quốc gia trong việc hoạch định và
thực thi CSTT, ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro tài chính. NHTW thay
mặt nhà nước thực hiện các công việc sau:

5


+ duy trì và thực hiện thống nhất các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh
toán ngoại hối…
+ đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức tài chính quốc tế.
+ tư vấn cho chính phủ về các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ.
+ thực hiện dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng…
+ tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
+ mở tài khoản và làm đại lý cho Chính phủ.
- Là ngân hàng của các ngân hàng trung gian: sự hình thành và hoạt động
của hệ thống ngân hàng 2 cấp đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt giữa
NHTW và các ngân hàng thương mại. NHTW đóng vai trò quản lý vĩ mô

làm hậu thuẫn cho các ngân hàng trung gian, đảm bảo cho toàn bộ hệ
thống hoạt động an toàn, hiệu quả. Chức năng này thể hiện ở các nội
dung sau:
+ NHTW có quyền cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân
hàng cho các ngân hàng trung gian. Chịu trách nhiệm thanh tra và xử lý
khi các ngân hàng này có vi phạm PL về ngân hàng.
+ NHTW đưa ra các quy định về việc các ngân hàng trung gian phải duy
trì mức dự trữ bắt buộc tại ngân hàng.
+NHTW mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các
ngân hàng trung gian
VD: chức năng của Cục dự trữ liên bang Mỹ
có hai chức năng chính, gọi chung là chức năng công cộng và chức
năng tư nhân.
+ Chức năng công cộng: thể hiện chức năng là ngân hàng Trung
ương. Thực hiện các nhiệm vụ về phát hành tiền, là ngân hàng của các
ngân hàng...
+ Chức năng tư nhân: thể hiện ở chỗ, nó còn mang tính chất là tổ
chức tư nhân nên nó còn có các hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
+ Tiến hành nghiên cứu nền kinh tế Mỹ cũng như kinh tế các bang,
cung cấp thông tin về nền kinh tế.
Vì nó không phải là một cơ quan thuộc chính phủ, và hoạt động của nó
còn hướng tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận
4.Nhiệm vu, quyền hạn của NHTW:
- NHTW là 1 bộ phận quan trọng của bộ máy quản lý vĩ mô của nhà
nước, có nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị của đồng tiền và điều khiển
hệ thống ngân hàng hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế cao.

6



- Với việc thực hiện độc quyền phát hành tiền, NHTW áp dụng các biện
pháp kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng lưu thông qua thị
trường tài chính.
- Thực hiện việc quản lý và điều hành hệ thống tài chính quốc gia, làm
nhiệm vụ thanh tra hoạt động của các ngân hàng trung gian…
- Tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh
toán cho nền kinh tế nói chung.
- Với tư cách là ngân hàng nhà nước, NHTW thực hiện kiểm soát dự trữ
quốc tế và quản lý dự trữ ngoại hối.
5. Cơ cấu tổ chức và quản lý nội bộ:
Tự chủ trong việc lựa chọn bộ máy quản trị, để đạt được hiệu quả cao
thì cần thiết phải có sự tách bạch giữa chức năng điều hành và chức năng
hoạch định chính sách. Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc ra quyết
định tập thể và quyết định đó phải nhằm mục tiêu thực thi tốt nhiệm vụ
của NHTW.
Trong NHTW hiện đại, sự có mặt của Ban điều hành- bộ phận quản trị
ngân hàng, là người trực tiếp tổ chức thực hiện những chính sách do Hội
đồng chính sách hoạch định. Hoạt động của Ban điều hành phải đảm bảo
rằng các quyết định, chủ trương của Hội đồng chính sách phải được thực
hiện đúng và chính xác.
Toàn bộ hoạt động điều hành của NHTW phải được thực hiện trên cơ
sở nền tảng pháp lý đồng bộ và phù hợp; đảm bảo tính minh bạch trong
hoạt động của NHTW thông qua việc kiểm toán và kiểm soát nội bộ hàng
năm. Những quan điểm về NHTW hiện đại có thể mang đến những gợi
mở thiết thực trong việc xây dựng và hoàn thiện về mặt pháp lý cho hoạt
động của NHNN VN theo các tiêu chuẩn của 1 NHTW hiện đại. NHTW
đã thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của mình với tư cách là cơ quan
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, góp phần vào việc đảm bảo an toàn tài
chính quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
II. Mô hình NHTW ở một số nước trên thế giới

NHTW là một định chế công cộng chịu trách nhiệm trong việc quản
lý và điều tiết các vấn đề liên quan đến tiền tệ, nhằm phục vụ cho sự tồn
tại và phát triển của công cộng. NHTW cũng đồng thời là một cơ quan
vừa mang tính chất quản lý Nhà nước vừa thực hiện hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của nhtw là vì mục tiêu quản lý
chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. Tùy theo điều kiện từng nước, nhtw sẽ
được tổ chức theo các mô hình khác nhau, thông thường là 3 mô hình
sau:
7


1. NHTW trực thuộc quốc hội
Mô hình này được áp dụng chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam
Phi, Châu Á và Nhật Bản thời gian gần đây.
+ Ưu điểm của mô hình này là NHTW có toàn quyền xây dựng và thực
thi CSTT mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách
hay áp lực chính trị khác; Tăng hiệu quả của mục tiêu kiểm soát lạm phát,
tăng trưởng kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài
chính; Tự chủ về cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính, nhân sự ; có trách
nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Điều này thể hiện tính độc lập cao
trong việc điều hành CSTT, đồng thời có sự ngăn ngừa hiện tượng phát
hành tiền do sự thiếu hụt Ngân sách Nhà nước.
+ Song điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là: khó có sự kết hợp hài
hòa giữa chính sách tiền tệ (do NHTW thực hiện) và chính sách tài khóa
( do chính phủ chi phối để) quản lý vĩ mô một cách hiệu quả. Tuy nhiên,
đây được coi là mô hình tổ chức tiên tiến, phù hợp với xu thế thời đại để
từng bước nâng cao vị trí của NHTW trong nền kinh tế thị trường.
*) NHTW ở Mỹ
Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có chức năng là một ngân hàng trung
ương. Cơ quan này được thành lập nhằm đưa ra trong nước một đồng tiền

linh hoạt, tạo điều kiện dễ dàng cho việc chiết khấu các thương phiếu và
cải thiện việc giám sát hoạt động ngân hàng, từ đó trách nhiệm của Hệ
thống đã được mở rộng. Qua nhiều năm, người ta đã nhận thấy rằng, sự
ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, mức độ bảo đảm tình trạng có việc
làm cao, sự ổn định về mãi lực đồng đô la Mỹ và sự cân bằng hợp lý
trong giao dịch với những nước khác, là những mục tiêu đầu tiên trong
đường lối kinh tế của Nhà nước.
Hệ thống Dự trữ Liên bang bao gồm Hội đồng các Thống đốc ,12
ngân hàng dự trữ khu vực và các văn phòng chi nhánh, Uỷ ban thị trường
Công khai Liên bang Nòng cốt của hệ thống là Hội đồng 7 Thành viên
Thống đốc ở Washington. Các thành viên này được Tổng thống chỉ định
và được Thượng viện tán thành với nhiệm kỳ 14 năm. Tổng thống cũng
chỉ định Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Hội đồng này trong số các thành
viên của Hội đồng với nhiệm kỳ 4 năm, sau đó có thể thay mới. Hội đồng
này làm việc dựa trên nguyên tắc tập thể đưa ra chủ trương chính sách.
Chức năng chính của Hệ thống là chủ trương chính sách tiền tệ được
kiểm soát bằng 3 công cụ: nhu cầu dự trữ, tỷ lệ chiết khấu và hoạt động
của thị trường công khai. Những nhu cầu dự trữ thống nhất do hội đồng
đưa ra được áp dụng cho các tài khoản giao dịch và tiền gửi có kỳ hạn
của pháp nhân tại các tổ chức nhận tiền gửi. Trách nhiệm đưa ra tỷ lệ
chiết khấu (lãi suất mà các tổ chức tiền gửi có thể vay tiền tại các ngân
hàng dự trữ) được Hội đồng Thống đốc và các ngân hàng dự trữ cùng
chia sẻ. Những thay đổi về tỷ lệ chiết khấu do từng ban giám đốc của các
ngân hàng dự trữ đưa ra và phải được Hội đồng Thống đốc thông qua.
8


Công cụ quan trọng nhất của chính sách tiện tệ là những hoạt động thị
trường công khai (mua và bán các trái khoán nhà nước).
2. NHTW trực thuộc chính phủ:

Với quan điểm Chính phủ là cơ quan hành pháp, thực hiện chức năng
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Do đó, Chính phủ phải nắm trong tay
các công cụ kinh tế vĩ mô để sử dụng nó một cách đồng bộ và phối hợp
các công cụ này nhằm vận hành nền kinh tế trôi chảy và hiệu quả, cũng là
để thực thi tốt nhiệm vụ của Chính phủ, mà thực chất là Chính phủ nắm
NHTW và thông qua NHTW tác động đến CSTT. Với mô hình này,
NHTW chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước chính phủ,
chịu sự điều hành trực tiếp của chính phủ. Hầu hết các quy định về việc
hoạch định và thực thi CSTT, việc quản lý và điều khiển mức cung ứng
tiền cho nền kinh tế. Kể cả việc quyết định bổ nhiệm hay miễn nhiệm
lãnh đạo của nhtw cũng như đặt dưới sự kiểm soát và chuẩn y của Chính
phủ. Mô hình này hiện đang được áp dụng tương đối phổ biến ở một số
nước châu Á: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Việt Nam,
Indonesia…
+ Ưu điểm của mô hình này là: Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính
sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
nhằm đảm bảo liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách
đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là
phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng, xây
dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
+ Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là NHTW sẽ mất đi sự chủ
động trong việc thực hiện CSTT. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm
cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ,
góp phần tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, với mô hình này có thể biến
NHTW thành nơi phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà
nước khiến cho hoạt động phát hành tiền không tuân thủ nguyên tắc và có
thể dẫn đến lạm phát.
3. NHTW trực thuộc Bộ Tài Chính.
Lịch sử đã từng ghi nhận mô hình NHTW trực thuộc bộ Tài chính, đó
là một mô hình được xây dựng khi mộ tài chính còn làm chức năng phát

hành tiền. Tuy nhiên, mô hình này được đánh giá là không thành công
trong việc điều hành và thực thi CSTT và quản lý vĩ mô đối với nền kinh
tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, vì khi cơ quan phát hành tiền trực
thuộc bộ tài chính thì khả năng sử dụng công cụ phát hành để bù đắp
thiếu hụt ngân sách càng dễ xảy ra. Cơ chế này tự tạo ra mâu thuẫn giữa
một cơ quan thực hiện nhiệm vụ Ngân sách với một cơ quan phát hành
tiền và điều khiển lượng tiền cung ứng. Việc phát hành tiền không thể
thực hiện một cách tùy tiện, theo ý chí chủ quan của một cá nhân hay tổ
9


chức nào, nó phải tuân theo những nguyên tắc và quy luật khách quan của
nền kinh tế, phải phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế và phải điều chỉnh
thường xuyên khối lượng tiền cung ứng theo quan hệ cung cầu. Mô hình
này xuất hiện đầu tiên ở Pháp, Anh sau đó áp dụng ở một số nước Châu
Á như Malaysia, Thái Lan, Indonesia… Sau đó vì những khiếm khuyết
của mô hình này mà hầu hết các quốc gia không còn áp dụng.
=> Không có một mô hình NHTW hiện đại lý tưởng cho mọi quốc gia
trên thế giới và cho mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Song từ việc
nêu ra những đặc điểm của một NHTW hiện đại và các mô hình nhtw
hiện nay trên thế giới thì NHTW Việt Nam cần rút ra những kinh nghiệm
và xây dựng một mô hình NHTW hiện đại phù hợp nhất. Để xây dựng
NHNN Việt Nam trở thành một nhtw hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc lựa chọn cho nó một mô hình
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán
là điều không hề dễ dàng. Bất cứ một mô hình NHTW nào kể trên cũng
có những ưu nhược điểm của nó. Cho dù lựa chọn mô hình nào cho
NHNN Việt Nam hiện nay thì mục đích ưu tiên và trên hết là phải nâng
cao được tính độc lập, tự chủ của NHNN Việt Nam đối với các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước và độc lập trong chức năng, nhiệm vụ hoạt động

và cơ cấu tổ chức.
Ở phần lớn nền kinh tế hiện đại người ta tách NHTW riêng và độc lập,
kể cả trong trường hợp không độc lập mà phải trực thuộc Bộ Tài chính và
Chính phủ thì chính sách tiền tệ cũng có tính chất độc lập rất cao. Trên
thực tế dù riêng biệt nhưng mục tiêu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước đều cùng hướng tới đảm bảo lợi ích quốc gia và nền kinh tế.
III. Một số kiến nghị xây dựng NHTW hiện đại ở Việt Nam
1. Những điểm mới trong Luật NHNN sửa đổi năm 2010
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa thông qua Luật NHNN
Việt Nam (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). So với Luật
NHNN Việt Nam năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm
2003, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 có những điểm mới, tiến bộ sau
đây:
Về địa vị pháp lý, NHNN Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện
trong Luật NHNN Việt Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và
Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật NHNN 2010 đã thể
hiện rõ hơn vị trí của NHNN là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, đồng
thời xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tư cách là
NHTƯ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các
chức năng về quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan
trọng của một NHTƯ: Thực thi CSTT và giám sát an toàn hoạt động của
10


hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là nội dung quan trọng đã được thực
tiễn chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước vừa qua.
Theo đó, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ và cơ chế vận hành được thiết
kế, xây dựng theo hướng đảm bảo thực hiện được đồng thời cả hai chức
năng nói trên.

Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 có nhiều nội dung
thay đổi so với Luật NHNN Việt Nam 2003 và 1997, đó là:
(i) Cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong
việc quyết định và thực thi CSTT quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp,
Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN
trong việc chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ CSTT đã được xác
định rõ ràng.
(ii) Xác định rõ được thẩm quyền của NHNN trong việc giám sát
an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám
sát và thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát
Ngân hàng thuộc NHNN để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ
thống tổ chức tín dụng.
(iii) Quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước
Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng
trong hoạt động của NHTƯ nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các
quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên
mà còn với công chúng, thị trường.
Ngoài ra, Luật NHNN năm 2010 còn có những nội dung quan
trọng khác đã được điều chỉnh, sửa đổi so với Luật hiện hành trên nhiều
lĩnh vực hoạt động của NHNN, như: lãi suất, kế toán, quan hệ với Kho
bạc Nhà nước, dự trữ ngoại hối, kiểm toán nội bộ, quản lý nhà nước đối
với Bảo hiểm tiền gửi...[1]
Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam 2010 đã đưa ra được nội hàm
của CSTT quốc gia để làm cơ sở phân định thẩm quyền quyết định CSTT
quốc gia của Quốc hội, Chính phủ, cụ thể: “CSTT quốc gia là các quyết
định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao
gồm: quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát; quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện
mục tiêu đề ra”. Theo đó, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng
năm được thể hiện thông qua chỉ số giá tiêu dùng; Thủ tướng Chính phủ,

Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều
hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia.
2. Về sự độc lập tự chủ của NHNN Việt Nam
Vào thời điểm đầu 2008, khi mà tình hình lạm phát đang ở mức rất
cao, thì dường như lúc này tính tự chủ của NHNN Việt Nam được nâng
cao. NHNN đã đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng như tăng lãi
suất cơ bản giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể nâng lãi suất,
đảm bảo khả năng thanh toán... Nhờ đó, lạm phát đã được kiềm chế phần
11


nào. Tuy nhiên, không vì thế mà điều này có thể thay đổi được tính độc
lập vốn thấp của NHNN Việt Nam.
Từ khi thành lập cho đến nay, NHNN Việt Nam luôn là một cơ
quan thuộc Chính phủ, là một đơn vị ngang Bộ. Thống đốc NHNN là
thành viên của Chính phủ, có hàm tương đương với Bộ trưởng, được
Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội.
Chính vì vậy, hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn của
Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT quốc gia để
Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực
hiện và có trách nhiệm điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và
Chính phủ duyệt. Tương tự, NHNN Việt Nam không được độc lập thiết
lập mục tiêu hay xây dựng chỉ tiêu hoạt động.
Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam
nằm ở cấp độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc
lập thấp nhất của NHTƯ đối với Chính phủ. Điều đó phần nào làm giảm
tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi
khi gây ra sự chậm trễ trong phản ứng chính sách trước các diễn biến khó
lường trên thị trường tài chính - tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của
đồng tiền. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều phải được sự cho phép

của Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện CSTT quốc gia, cho vay ngân
sách trung ương, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho
vay các tổ chức tín dụng trong trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt
Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý hành chính nhà nước, giống
như các Bộ khác, chứ không phải là một thiết chế đặc biệt dù tổ chức,
hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống
ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc
gia.
Bên cạnh đó, do là cơ quan của Chính phủ nên có trường hợp
NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của
CSTT, chẳng hạn như tái cấp vốn cho các NHTM để khoanh, xoá nợ các
khoản vay của các tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động
của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng
tiền.[2]
Tuy có nhiều điểm đổi mới, song Luật NHNN Việt Nam năm 2010
không có nhiều điểm đột phá về tính độc lập của NHNN trong việc hoạch
định và thực thi CSTT quốc gia. Mặc dù định hướng chiến lược của
NHNN vẫn là NHTƯ độc lập trong điều hành chính sách và độc lập trong
việc lựa chọn mục tiêu tiền tệ. Tuy nhiên, NHNN hiện tại vẫn chưa thực
sự đạt được mức độ độc lập theo cả hai tiêu chuẩn này. Về mặt chính
sách, Chính phủ hàng năm quy định khá cụ thể, chi tiết cho NHNN, từ
tổng phương tiện thanh toán đến tăng trưởng tín dụng và xu hướng tỷ giá.
Còn về lựa chọn mục tiêu tiền tệ thì theo quy định của Hiến pháp Quốc
12


hội hàng năm sẽ giao chỉ tiêu cho NHNN. Do chưa đạt được tính dẫn dắt
thị trường nên doanh nghiệp và người dân thường nhìn vào quan điểm
của Chính phủ và của Quốc hội về lạm phát và tăng trưởng để điều chỉnh

hành vi của mình hơn là nhìn vào NHNN.[3]
Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, tính độc lập của NHNN
Việt Nam đang dần được cải thiện. Như trên đã đề cập, Khoản 4, Điều 3
Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010 của Quốc hội
quy định “Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện
pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của
Chính phủ”. Điều 10 trong Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cũng nêu rõ:
“Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện CSTT
quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc,
nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định
của Chính phủ”.
Đây là điểm mới nhất trong Luật NHNN 2010 xét trên khía cạnh
độc lập tự chủ của NHNN. Ở một mức độ nào đó, có thể nói, NHNN Việt
Nam đang tiến dần từ cấp độ độc lập tự chủ thứ tư “độc lập tự chủ hạn
chế” lên cấp độ độc lập tự chủ thứ ba “độc lập tự chủ trong lựa chọn công
cụ điều hành”. Với sự đổi mới này, NHNN sẽ có được sự linh hoạt và độc
lập nhất định trong khâu thực hiện các mục tiêu đề ra của CSTT. Nhờ đó,
thị trường tiền tệ và giá trị đồng tiền được kỳ vọng ổn định hơn, vai trò
của một NHTƯ cũng được thể hiện rõ nét hơn và uy tín của NHNN cũng
được nâng cao hơn.
IV- Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam
Hiện nay, NHNN là một cơ quan hành chính nhà nước với tất cả
các ràng buộc, quy định của hành chính. Với cơ cấu như vậy, khó có thể
độc lập và có chính sách kiên quyết và đủ sức nặng. Do đó, tăng cường
tính độc lập cho NHNN là mục tiêu cần hướng tới nhằm đạt được hiệu
quả trong thực thi CSTT và ổn định thị trường tài chính tiền tệ nói chung.
Vấn đề đặt ra là NHNN cần độc lập như thế nào, mức độ ra sao cho phù
hợp với điều kiện thực tiễn về thể chế chính trị - kinh tế - xã hội của Việt
Nam.
1. Quan điểm

Thứ nhất, cần phải nhấn mạnh rằng, sự độc lập này không thể đến
từ một quyết định thuần tuý, từ văn bản giấy tờ mà phải đến từ việc thiết
kế hệ thống, thể chế, nội dung của NHNN, cấu trúc lại bộ máy của
NHNN.
Thứ hai, sự độc lập này chỉ có tính chất tương đối. Nói “tương đối”
là bởi có những cái cho NHNN độc lập họ cũng không dám độc lập vì nó
phải nằm trong một hệ thống, nhất là trong hệ thống quản lý kinh tế của
chúng ta những chỉ tiêu kinh tế đan xen nhau, những chỉ tiêu kinh tế của
NHNN còn phụ thuộc vào cả nền kinh tế. Cho nên điều quan trọng là tạo
13


điều kiện cho NHNN độc lập để họ điều hành tốt, thực hiện đúng chức
năng của họ, còn cái gì đòi hỏi có sự phối hợp thì cũng không nên quá đòi
hỏi sự độc lập ở đây.
Thứ ba, vấn đề của NHNN Việt Nam không nằm ở chỗ lựa chọn
mô hình NHTƯ nào mà lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp
với NHNN trong bối cảnh hiện nay.
Với cấp độ độc lập thứ nhất, “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu
hoạt động”, ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể
chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi
mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế - tài chính là rất khó
khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn
còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ độc lập này không phù hợp với NHNN
Việt Nam ít nhất là trong thời gian trung hạn.
Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu
hoạt động”, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này
cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN Việt Nam trong giai đoạn trước
mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc,

xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở nên
ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện).
Theo ý kiến của các chuyên gia, tại thời điểm hiện nay, cấp độ
“Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp với
NHNN Việt Nam hơn cả, đặc biệt trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở
nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại
bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức
độ độc lập tự chủ này cho phép dung hoà giữa mục tiêu của CSTT với các
mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định.[4]
2. Các biện pháp
2.1. Trong ngắn hạn
Trong thời gian trước mắt, nhằm tăng tính độc lập của NHNN
trong khuôn khổ các quy định của Luật NHNN 2010, cần tập trung vào
các vấn đề sau:
Một là, xác định rõ mục tiêu hoạt động cho NHNN. Điều 4, Luật
NHNN 2010 có nêu rõ: “Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng
tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín
dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia;
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Có thể nói, các mục tiêu hoạt động của NHNN được quy định
trong Luật có phần “ôm đồm”. Bởi lẽ, mục tiêu tối cao của NHTƯ là bảo
đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng
tiền, những mục tiêu còn lại là hệ quả của việc đạt được các mục tiêu nêu
trên. Chính bởi vậy, chỉ nên xác định mục tiêu của NHNN đó là “bảo đảm
14


an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền
trong nền kinh tế”.[5] Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì mục tiêu có rõ ràng
thì NHTƯ mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của

mình. Hơn nữa, như trên đã đề cập, việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ
hạn chế năng lực và tính chủ động của một NHTƯ.
Hai là, NHNN phải thực sự được độc lập trong quyết định thực thi
chính sách và việc lựa chọn công cụ điều hành. Thống đốc phải được trao
quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về
các quyết định đó mà không cần phải thông qua Chính phủ. Đồng thời,
NHNN phải được trao đầy đủ thẩm quyền trong việc lựa chọn các công
cụ điều hành CSTT một cách linh hoạt và phù hợp nhất cũng như kiểm
soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là
về vấn đề chống lạm phát, để có thể đạt được các mục tiêu CSTT mà
Chính phủ hay Quốc hội đã đề ra. Điều này không những góp phần làm
tăng tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách. Tất nhiên,
song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng
của NHTƯ.
Ba là, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để
đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân
sách hay tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên
được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối theo đúng mục tiêu
thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động
trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có qui
định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo
hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín
dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị
trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm
bảo khi cho các NHTM vay.[6]
Bốn là, trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính và
độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm). Để thực thi
tốt CSTT, NHNN cần phải thu hút được một đội ngũ đông đảo những
chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải

cạnh tranh được với các NHTM về môi trường làm việc và chế độ lương
thưởng. Do đó, Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử
dụng những khoản thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện
tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền
lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN
được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế
các chi nhánh, cục, vụ, viện trực thuộc. Có như vậy thì NHNN mới có đủ
nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ
để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất.
15


Ngoài ra, để nâng cao vai trò và chất lượng của sự phản biện trong
việc thi hành chính sách, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong
việc thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu
ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTƯ của các nước phát
triển am hiểu về điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
Năm là, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ
của NHNN đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với
trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định
kỳ hoặc theo đề nghị của Quốc hội phải có trách nhiệm giải trình trước
Quốc hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm
quyền được giao.
Sáu là, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa
NHNN với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHNN hỗ trợ tốt
cho các chương trình kinh tế của Chính phủ, cụ thể:
+ NHNN tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách
kinh tế của Chính phủ và đề đạt ý kiến của mình về các quyết định của
Chính phủ; tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan
đến nhiệm vụ và thẩm quyền của NHNN.

+ NHNN và các Bộ, ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đổi,
cung cấp thông tin để theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của
nền kinh tế.
Bảy là, tách bạch chức năng điều hành và quản trị. Điều hành
NHNN được thực hiện bởi Ban điều hành, còn quản trị nên được thực
hiện bởi Hội đồng quản trị (hoặc Hội đồng quản lý) NHNN. Hội đồng
quản trị là cơ quan hoạch định chính sách trong lĩnh vực tiền tệ, làm việc
theo nguyên tắc tập thể, còn Ban điều hành có trách nhiệm đưa các chính
sách đó vào cuộc sống. Nếu NHNN được thiết kế theo mô hình quản trị
này sẽ tạo ra được phương thức quản trị ngân hàng mang tính tổng thể,
định hướng chiến lược lâu dài, tránh được hiện tượng thụ động, mang
nặng tính hành chính và mệnh lệnh trong điều hành. Bên cạnh đó, hoạt
động của Ban điều hành cũng phải bảo đảm tính minh bạch thông qua các
hoạt động kiểm toán, kiểm soát nội bộ của NHNN.
2.2. Trong dài hạn
Trong tương lai dài hơn, có thể hướng tới:
Một là, thực hiện “Chính sách lạm phát mục tiêu”. Lạm phát mục
tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTƯ hoặc Chính
phủ thông báo một số mục tiêu trung và dài hạn về lạm phát và NHTƯ
cam kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN
phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra
các công cụ của CSTT. Ngoài ra, người dân cũng phải được thông báo về
khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT.
Hai là, tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN.
Theo đó, nhiệm kỳ của ban lãnh đạo NHTƯ có thể dài hơn nhiệm kỳ của
16


Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ.
Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi

chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ
không bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm
kỳ.

C.Kết luận
Ở các nước trên thế giới, ngân hàng trung ương khá độc lập trong việc
đưa ra các chính sách tiền tệ, còn ở nước ta ngân hàng trung ương vừa
mang tính chất độc lập và tự chủ nhưng phù hợp với thể chế chính trị,
đồng thời cũng phải phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Thực ra, ở phần lớn nền kinh tế hiện đại họ tách ngân hàng trung ương
riêng và độc lập, kể cả trong trường hợp không độc lập mà phải trực
thuộc Bộ Tài chính và Chính phủ thì chính sách tiền tệ cũng có tính chất
độc lập rất cao. Trên thực tế dù riêng biệt nhưng mục tiêu của Chính phủ
và Ngân hàng Nhà nước đều cùng hướng tới đảm bảo lợi ích quốc gia và
nền kinh tế.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc để ngân hàng trung ương tách
riêng sẽ giúp nâng cao tính chủ động trong thực thi các chính sách tiền tệ
và hướng tới đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị của đồng tiền.

17


Danh mục tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Luật Ngân hàng, nxb ĐHQGHN-Khoa Luật
- Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
- Luật các tổ chức tín dụng 2010
Các webside:

www.vietcombank.com.vn/
www.scb.com.vn/

- Lê Vinh Danh, Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
trung ương , NXB Chính trị Quốc gia
- Nguyễn Ninh Kiều, Tiền tệ-ngân hàng, NXB Thống kê
- T¹p chÝ: Nghiªn cøu lËp ph¸p
[1] Luật NHNN năm 2010 đã phân định rõ thẩm quyền quyết định CSTT
của Việt Nam?, , 16/06/2010
[2] Đặng Hữu Mẫn, Tính độc lập của NHTƯ – chìa khóa để ổn định giá,
kinh nghiệm của New Zealand và một số đề xuất đối với Việt Nam,
www.kh-sdh.udn.vn
[3] Võ Văn Minh, Chính sách tiền tệ và mục tiêu kiềm chế lạm phát,
www.ddn.com.vn, 16/4/2010
[4] Doãn Hữu Tuệ, Mô hình
www.chinhphu.vn, 11/07/2009

nào

cho

NHNN

Việt

Nam?,

[5] Lê Thị Thu Thủy, Tính độc lập của NHTƯ ở Việt Nam,
, 23/11/2009
[6] Đặng Hữu Mẫn, Tính độc lập của NHTƯ – chìa khóa để ổn định giá,
kinh nghiệm của New Zealand và một số đề xuất đối với Việt
Nam, www.kh-sdh.udn.vn


18



×