Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

thừa kế theo bộ luật dân sự ở việt nam năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.37 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
trang

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................... 5

CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG........................................................6

CHƯƠNG II CÁC KHÁI NIỆM..........................................................................9

CHƯƠNG III THỪA KẾ THEO DI CHÚC..........................................................9

CHƯƠNG IV THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT....................................................11

CHƯƠNG V NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN....12
CHƯƠNG VI THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ..................................................12

CHƯƠNG VII KẾT LUẬN...................................................................................17

CHƯƠNG VIII CÁC TÌNH HUỐNG MINH HỌA..............................................18

CHƯƠNG IX CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20

1


LỜI MỞ ĐẦU :

 Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn
luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ. Việt
Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền
thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người


Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ
chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo
quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có
những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những
bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật
phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.
Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui
định của pháp luật.
 Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật
ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với
tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và theo em
phương pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ xung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam chính
là nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam với pháp luật các nước trên thế giới để
tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp để áp dụng vào thực tiễn nước ta.
 Từ hai lí do trên nhóm em quyết định nghiên cứu vấn đề thừa kế theo bộ luật dân
sự ở việt nam nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có
thể nghiên cứu một phần trong “ vấn thừa kế theo bộ luật dân sự ở việt nam năm
2005 “

2


CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
( CHƯƠNG 22 – Điều 631 đến Điều 645, - Bộ luật dân sự )
 Quyền thừa kế của cá nhân
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình
cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
 Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền

hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà
án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định
tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.
 Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không
xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc
phần lớn di sản.
 Di sản
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung với người khác.
 Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
 Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

3


Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại.
 Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
 Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
 Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
 Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà

mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
 . Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá
nhân.
 Người quản lý di sản
 Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thoả thuận cử ra.
 Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người
thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng,
quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được
người quản lý di sản.
 Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người
quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
 Nghĩa vụ của người quản lý di sản
 Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này
có các nghĩa vụ sau đây:
- Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác
đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định
đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng
ý bằng văn bản;
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
- Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
 Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638
của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:
- Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định
đoạt tài sản bằng các hình thức khác;
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;


4













Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo
yêu cầu của người thừa kế.
Quyền của người quản lý di sản
Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này
có các quyền sau đây:
Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di
sản thừa kế;
Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.
Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638
của Bộ luật này có các quyền sau đây:
Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di
sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.
Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời
điểm

Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng
thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người
nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di
sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ
trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này.
Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế:
Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế:
Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ
thừa kế.Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản
theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho
những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà người chết để lại. Đó chính
là sự tôn trọng ý trí của người để lại di sản.Và ngược lại, những người thừa kế có
quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần hoặc
khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người
thừa kế.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế:
Theo điều 632 Bộ luật dân sự -2005:"Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về
quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật".Theo điều luật này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài
sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc
thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép nhận tài
sản theo ý chí của người chết. Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá
những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản
bằng nhau.

5





Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn
sống vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp
nối về sở hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản
đương nhiên phải là người còn sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này
sang người chết khác là không thực hiện được.Tiếp đó là việc người còn sống đó
phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế.Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở
thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố là đã
chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc
chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản
của người đó.

CHƯƠNG II
CÁC KHÁI NIỆM
I Khái niệm quyền Thừa Kế:( chương 22-điều 631-645 Bộ luật dân sự )
- Quyền thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, bao gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc
theo trình tự do pháp luật quy định.
II Di Sản Thừa Kế: (Theo khoản 1 điều 637- bộ luật Dân Sự )
 Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng, phần tài sản cảu ngưòi chết trong tài sản
chung với người khác, quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại
thừa kế.
 Tài sản riêng tức là những tài sản thuộc phần sở hữu riêng của người chết đứng tên
lúc còn sống. Tài sản chung với ngưòi khác là phần tài sản do lúc còn sống ngưòi
chết đã đồng tao ra cùng chung với một người khác, thì lúc chết phần tài sản đó
cũng được đua vào di sản của ngưòi chết.

CHƯƠNG III
THỪA KẾ THEO DI CHÚC
(Chương 22 – Điều 646 đến Điều 673 – Bộ luật dân sự )

 Di sản của người đã chết được chuyển cho những người thừa kế theo di chúc người
chết để lại. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình

6


cho người khác sau khi chết. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường
hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập
di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
 Người lập di chúc có các quyền: chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản
của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài
sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong
phạm vi di sản; chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia di
sản.
 Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản,
thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng
chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một người bị
cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc
bằng văn bản, miệng thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp pháp,
nếu người di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm
chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm
chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị huỷ bỏ.
 Di chúc được coi là hợp pháp nếu:
 Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ hoặc cưỡng ép.
 Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật. Nội dung của di chúc được quy định tại điều 656 Bộ luật
dân sự. Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì

có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người
lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và
kí vào bản di chúc. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng
nhận hoặc uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc. Di chúc có
hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
 Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích
nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem
xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những
người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì coi như không có di
chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật.

7


CHƯƠNG IV
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
( Chương 24 – Điều 674 đến Điều 680 – Bộ luật dân sự )
I Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường hợp
- Người chết không để lại di chúc.
- Di chúc không hợp pháp.
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời
điểm mở thừa kế.
- Những người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối hưởng quyền di sản.
II Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực.

- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
III Những người thừa kế theo pháp luật (hàng thừa kế) được qui định thứ tự
như sau
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột,
cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô
ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
 Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di chúc bằng nhau.
 Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở hàng thừa
kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.
- Thừa kế thế vị pháp luật quy định: Trong trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước

8


hoặc cùng thời diểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
CHƯƠNG V
NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYÊN HƯỞNG DI SẢN
( Chương 22 – Điều 643 – Bộ luật dân sự )

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản

Những người này vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu người để lại di sản đã
biết các hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di
chúc.

Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước trong trường hợp
không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực
hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế sẽ thuộc Nhà nước.

CHƯƠNG VI
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
I Nhiều quy định pháp luật còn mâu thuẫn
1 . Thực trạng
Hiện nay, trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xảy ra tình trạng các
luật quy định một nội dung giống nhau nhưng lại không thống nhất với nhau. Việc không
thống nhất giữa quy định của pháp luật dẫn đến khó khăn khi vận dụng vào thực tiễn.

9



Ví dụ :
Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó, người làm chứng ghi chép lại,
cùng ký tên hoặc điểm chỉ sự quy định về hình thức di chúc miệng như sau:” trong
trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa di bệnh tật hoặc các nguyên nhân
khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Và: di chúc miệng
được coi là hợp pháp, nếu. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng”
Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì di chúc miệng chỉ được lập trong
hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là tính mạng của người để lại di chúc bị đe dọa, được hiểu
là người di chúc không còn khả năng hoặc không thể lập di chúc bằng văn bản. Và nếu
sau một thời gian, do pháp luật quy định mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn sáng
suốt thì di chúc miệng đó mặc nhiên vô hiệu. Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận tính
hợp pháp di chúc miệng với những điều kiện hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, với những quy
định hiện hành thì di chúc miệng có còn là một loại hình di chúc hợp pháp nữa hay S và
việc để lại di chúc miệng có thể thực hiện được không? . Nhưng pháp luật dân sự đã quy
định, trường hợp để lại di chúc miệng là phải trước mặt hai người làm chứng và những
lời di chúc đó sẽ được ghi chép lại và công chứng trong thời hạn năm ngày, sau thời hạn
này di chúc mới được coi là hợp pháp.
Luật Công chứng được Quốc hội thông qua ngày 29.11.2006, có hiệu lực thi hành từ
ngày 1.7.2007 quy định rất cụ thể về thủ tục công chứng. Điều 48 Luật công chứng có
quy định về công chứng di chúc người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di
chúc, không ủy quyền cho người khác công chứng di chúc… Quy định này của Luật công
chứng chỉ đúng với trường hợp thực hiện công chứng đối với di chúc được lập thành văn
bản. Còn đối với di chúc miệng thì người di chúc đã trong hoàn cảnh đặc biệt bị cái chết
đe dọa thì không thể tự mình yêu cầu công chứng được. Nếu buộc người lập di chúc phải
tự mình yêu cầu công chứng di chúc thì không còn tồn tại loại hình di chúc miệng nữa.
Vì, nếu người để lại di chúc miệng có thể tự mình yêu cầu công chứng thì trong mọi
trường hợp ý chí đó sẽ được công chứng viên ghi chép lại, có nghĩa là đều được thể hiện
bằng văn bản, và thực hiện công chứng đối với văn bản được thành lập theo cách như vậy

Như vậy, có thể thấy rằng với quy định trên, Luật Công chứng đã phủ nhận hoàn toàn
tính hợp pháp của loại hình di chúc miệng và, với quy định đó thì chỉ tồn tại duy nhất một
loại hình di chúc, đó là di chúc bằng văn bản.

2 . Kiến nghị
Từ những phân tích trên cho thấy, giữa các luật quy định về cùng một nội dung đã xảy
ra những sự mâu thuẫn với nhau. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn đến tình trạng vô hiệu
hóa các quy định pháp luật trong các luật khác nhau, gây ra tình trạng khó áp dụng trong
thực tiễn những quy định của pháp luật. Đây là vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng trong
quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính thống nhất và đồng

10


bộ của hệ thống pháp luật hiện nay . Từ đó nhóm tôi có đề xuất là phải làm rõ những quy
định có nội dung tương tự nhau để áp dụng vào thực tiễn cho hợp lí hơn

II Pháp luật còn nhiều vướng mắc
1 . Thực trạng
Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (có một số sửa đổi, bổ sung so với Bộ
luật Dân sự năm 1995), thì có lẽ do đây là một chế định tương đối cụ thể, rõ ràng nên
hiện nay vẫn chưa có kế hoạch khi đó, việc áp dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn
nhiều vấn đề gây tranh cãi như sau:
 Người thừa kế
Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức. Điều 638 BLDS quy định:
 Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết.
 Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế ” .

Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân, còn người thừa kế theo di
chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vấn đề đặt ra cần làm rõ là:
Thứ nhất: Hiểu như thế nào về ” người còn sống vào thời điểm mở thừa kế “, đặc biệt
trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết trước, ai chết
sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của
nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh chấp thừa kế một thời
gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời điểm chết của từng người rất
khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án (có lẽ, trong những trường hợp
này, căn cứ pháp lý duy nhất có thể tin cậy được là giấy chứng tử, nhưng trong nhiều
trường hợp giấy chứng tử lại không ghi cụ thể giờ, phút chết của cá nhân).
Điều 644 bộ luật dân sự quy định: trong trường hợp những người có quyền thừa kế di
sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một
thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di
sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng. Quy định
này xuất phát từ nguyên tắc: nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương sự. Trong
cùng nội dung này, luật dân sự Pháp lại áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý: ” Đối với

11


những người dưới 15 tuổi thì người nhiều tuổi hơn được suy đoán là chết sau; trên 60 tuổi
thì người ít tuổi hơn được suy đoán là chết sau; nếu đàn ông và đàn bà không chênh nhau
quá 3 tuổi thì đàn ông được suy đoán là chết sau đàn bà “. Chúng tôi cho rằng, đây cũng
là một nguyên tắc cần xem xét, nghiên cứu khi sửa đổi bộ luật dân sự.
Thứ hai: Điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quyền thừa kế tài sản. Vấn đề ở chỗ:
trường hợp nào được coi là sinh ra và còn sống? Đứa trẻ ra đời có thể chỉ sống được 30
phút, 01 giờ, 7giờ, 24 giờ, 7 ngày… sau đó mới chết. Việc xác định khi nào đứa trẻ đó
được coi là người thừa kế có ảnh hưởng rất lớn đối với kỷ phần thừa kế của những người
khác.

Điều luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên có nhiều cách hiểu khác nhau trong
quá trình áp dụng. Theo chúng tôi, nên vận dụng quy định của Nghị định 83/1998/NĐ-CP
ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch: đứa trẻ sinh ra và còn sống được 24 giờ rồi chết thì
phải khai sinh và khai tử để từ đó xác định khoảng thời gian được coi là sinh ra và còn
sống của đứa trẻ (24 giờ). Tuy nhiên, điều này cũng cần được ghi nhận rõ ngay trong bộ
luật dân sự.
Thứ ba: Quyền thừa kế của các tổ chức (pháp nhân) đã sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
giải thể, phá sản.
- Theo quy định của pháp luật dân sự, các pháp nhân cùng loại có thể bị chấm dứt khi sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách. Nhưng trong những trường hợp này, pháp nhân không chấm
dứt tuyệt đối mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho các pháp nhân khác.
Vậy những pháp nhân này có được thừa kế không?
- Pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hoặc phá sản. Khi này,
pháp nhân chấm dứt “tuyệt đối”. Sau khi pháp nhân chấm dứt, một thời gian sau mới phát
sinh vụ việc tranh chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ định là người thừa kế và tại
thời điểm mở thừa kế pháp nhân chưa bị giải thể hoặc phá sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay
mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi này tài sản được coi là tài sản vô chủ và thuộc về
nhà nước?
- Mặt khác, theo quy định của pháp luật dân sự, pháp nhân đã bị giải thể, bị tuyên bố phá
sản có thể được thành lập lại theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy,
trường hợp pháp nhân đó bị giải thể, bị tuyên bố phá sản trước thời điểm mở thừa kế,
nhưng sau thời điểm mở thừa kế lại được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền
thừa kế di sản không?
 Từ chối nhận di sản:
Điều 645 bộ luật dân sự quy định: ” 1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ
trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với
người khác.2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải
báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công
chứng nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế
về việc từ chối nhận di sản. 3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở


12


thừa kế “.Điều luật dành cho người thừa kế một quyền năng quan trọng: quyền từ chối
nhận di sản.Về hình thức, việc từ chối phải lập thành văn bản, phải thông báo cho một số
chủ thể có liên quan.
Quy định này đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất: trong trường hợp người thừa kế vì những lý do khác nhau (không nhằm trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản) mà từ chối nhận di sản, nhưng việc từ chối này chỉ bằng
lời nói. Khi phân chia di sản thừa kế, họ nhất quyết không nhận phần thừa kế của mình
thì giải quyết như thế nào? Có hai phương án lựa chọn;
- Phương án 1: dùng kỷ phần thừa kế đó tiếp tục chia đều cho những người thừa kế còn
lại (cùng
hàng thừa kế của người để lại di sản).
- Phương án 2: coi đây là một trường hợp từ bỏ quyền sở hữu, kỷ phần thừa kế đó là tài
sản vô chủ và thuộc về nhà nước.
Chúng tôi cho rằng: hợp lý hơn và cũng dễ chấp nhận hơn là lựa chọn phương án 1.
Thứ hai: điều luật quy định người từ chối nhận di sản phải thông báo cho một số người,
cơ quan có liên quan. Vậy trong trường hợp người từ chối nhận di sản đã thông báo
nhưng không thông báo đủ cho những người này (Ví dụ: chỉ thông báo cho những người
thừa kế, không thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế…),
sau đó người này lại thay đổi ý kiến, yêu cầu được nhận di sản thừa kế thì có cho phép
hay không? Bộ luật dân sự cũng chưa quy định cụ thể vấn đề này.
Thứ ba: điều luật quy định thời hạn từ chối là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Như vậy,
theo tinh thần của điều luật, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn trên thì
không chấp nhận việc từ chối đó. Vậy hậu quả pháp lý đối với phần thừa kế của người đó
được giải quyết như thế nào trong trường hợp họ nhất quyết từ chối nhận di sản? Thêm
nữa, trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản đúng thời hạn trên, nhưng sau đó họ
lại thay đổi ý kiến, xin nhận di sản thì giải quyết như thế nào, chấp nhận hay không chấp

nhận cho họ nhận di sản?
Đây là những vấn đề hết sức bức thiết cần phải sửa đổi, bổ sung trong bộ luật dân sự.
Quan điểm của chúng tôi là: trong trường hợp di sản chưa chia thì cho phép người từ chối
nhận di sản có quyền thay đổi ý kiến; trường hợp di sản đã phân chia thì để bảo vệ quyền
lợi cho những người thừa kế khác, thúc đẩy quan hệ dân sự phát triển, thì không cho phép
người đã từ chối nhận di sản thay đổi ý kiến.
 Về thời hiệu khởi kiện :
“ Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế ” .
Trong thực tiễn, khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, có nhiều cách hiểu
khác nhau về vấn đề này, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tạo tình trạng áp dụng không
thống nhất khi xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là thừa kế quyền sử dụng
đất.
Điều 165 bộ luật dân sự quy định: ” thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày
đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu “. Do đó, quy
định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

13


Ví dụ: ông A chết hồi 15h00? ngày 1/1/1992. Vậy thời hiệu khởi kiện được tính như thế
nào? Có 2 cách xác định như sau:
Cách thứ nhất: thời hiệu khởi kiện được xác định từ 0h00? ngày 2/1/1992 3 và kết thúc
vào 24h00? ngày 2/1/2002 (ngày 2/1/1992 là ngày đầu tiên tiếp sau ngày xảy ra sự kiện
ông A chết).
Như vậy trong trường hợp này, thời điểm mở thừa kế được tính lùi là 0h00? ngày
2/1/1992. Nếu vậy, những người thừa kế của ông A chết sau 15h00? ngày 1/1/1992 đến
trước 0h00? ngày 2/1/1992 đều không có quyền hưởng di sản của ông A vì không bị coi
là chết trong cùng một thời điểm 4 .
Cách thứ hai: Thời hiệu khởi kiện quyền thừa kế được xác định theo giờ người để lại di
sản chết.

Ví dụ: ông A chết hồi 15h00? ngày 1/1/1992, thời hiệu khởi kiện được xác định bắt
đầu từ 15h00? ngày 1/1/1992 và kết thúc vào 24h00? ngày 1/2/2002.
Cách xác định này dẫn đến hệ quả: những người chết trước 15h00? ngày 1/1/1992
hoặc chết cùng thời điểm đó không phải là người thừa kế của người để lại di sản, nếu chết
sau 15h00? ngày 1/1/1992, thậm chí chết sau chỉ một thời gian ngắn vẫn là người thừa kế
của người để lại di sản. Cách xác định này phù hợp với quy định tại Điều 648 BLDS, bảo
vệ được quyền lợi của những người chết sau người để lại di sản trong một khoảng thời
gian ngắn (thậm chí chỉ 5-7 phút), nhưng như vậy thì hiểu tinh thần của Điều 165 như thế
nào?

2 . Kiến nghị
Theo nhóm chúng tôi, để phù hợp hơn, cần thiết phải dung hoà hai cách hiểu này:
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính bắt đầu từ thời điểm bắt đầu của ngày
tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và do đó, thời điểm kết thúc là thời
điểm kết thúc ngày tương ứng 10 năm sau (như cách tính thứ nhất). Tuy nhiên, phải hiểu
thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại
thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của
những người thừa kế.

CHƯƠNG VII
KẾT LUẬN
Sau quá trình nghiên cứu ta nhận thấy chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong
hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự việt nam.. Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế
là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới
quan tâm,theo dõi và bảo hộ.Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có
nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác.
Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm

14



cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn…đã khiến cho không ít người bỏ qua việc
đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có
những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di
chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ
(đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Do đó,việc nghiên
cứu các chế định về thừa kế nhằm nắm bắt được thực trạng của chế định này trong xã hội
đồng thời có các biện pháp hoàn thiện là rất cần thiết, để mọi công dân điều được đảm
bảo quyền lợi công bằng trong các mối quan hệ về tài sản nói chung và quyền thừa kế nói
riêng....hướng đến công bằng ổn định xã hội...

CHƯƠNG VIII
CÁC TÌNH HUỐNG MINH HỌA

 Tình huống 1:
- Vợ A có hai đưá con riêng .A và vợ A có hai đưá con nữa. nay vợ A mất nhưng
không để laị di chúc.Vâỵ xin hỏi ngôi nhà A đang ở (đứng tên A) nếu bán, có chia tài
sản cho các con riêng của vợ A không ?
- Theo pháp luật về quyền thừa kế thì con riêng và bố dượng và mẹ kế khôngđược
hưởng thừa kế của nhau nhưng điều 679 bộ luật dân sự năm 2005 qui định thì con
riêng và bố dượng,mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc như cha con,mẹ con thì được thừa
kế theo pháp luật(điêu 676,677) theo thứ tự các hàng thừa kế…căn cứ vào điều
luật,nếu ngôi nhà trên là của riêng A thì A có toàn quyền định đoạt.Nếu là sở hữu
chung của 2 vơ chồng thì ½ ngôi nhà thuộc quyền định đoạt của A,1/2 ngôi nhà thuộc
quyền định đoạt chia đều cho 2 người con riêng của vợ A,2 người con chung của A bà
và một phần của A(1/5)
 Tình huống 2:
- Khi còn sống ,bố mẹ B phân chia đất đai cho các em B đâu vào đấy riêng mảnh
dất và ngôi nhà bố mẹ B ở trước khi qua đời , bố mẹ B di chúc lại để cho B là trai cả
để làm nơi thờ cúng và nuôi dưỡng đứa em út bị tâm thần từ bé.Nay anh em B nảy

sinh mâu thuẫn,các em B đặt vấn đề đất(phần của bố mẹ) và nhà là của chung , chỉ
giao cho B quản lí không có quyền thừa kế.Tài sản trong nhà không có trong di
chúc(tivi,tủ,quạt,thóc,lúa…) là của chung.Xin hỏi những ý kiến của các em B có đúng
không? Việc này giải quyết như thế nào?

15


- Về pháp luật căn cứ vào những câu chữ ghi lại trong di chúc thì B là người được
quản lí di sản theo di chúc và được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người
được thừa kế.Mặt khác theo điều 670 bộ luật dân sự, phân di sản theo di chúc dùng
vào viêc thờ cúng thì không được chia thừa kế và được giao cho một người khác đã
được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng(chính là B).các tài sản
khác thuộc di sản thừa kế không ghi trong di chúc thì được chia thừa kế theo pháp
luật.Cụ thể là những tài sản của các cụ để lại như di sản thừa kế được chia theo qui
đinh pháp luật.Tuy vậy, theo di chúc để lại thì phần nhà đất ghi trong di chúc được để
cho ông lo liệu cuộc sống trông nom mồ mả tổ tiên ,chăm sóc đứa em bị bệnh tật.Nếu
nội dung di chúc không rõ rãng cần thỏa thuận giải thích nội dung giữa những người
thừa kế dựa trên ý nguyện đích thực của người đã khuất.
 Tình huống 3:
- Cách đây mấy chục năm,cha mẹ C thấy D mồ côi cầu bất ,cầu bơ, đem về nuôi,
cho ăn học,trưởng thành.sau này lớn lên đi công tác, D chưa báo hiếu gì cho cha mẹ
C.Sau khi cha mẹ C mất,D đi từ than phố về đòi chia tài sản thừa kế. Hỏi D có quyền
ấy không?
- Theo điều 678 thì con nuôi của cha mẹ anh C hoàn toàn có quyền được hưởng tài
sản của cha mẹ nuôi(tức cha mẹ C) theo pháp luật thừa kế (điều 676,677) qui định con
nuôi được hưởng quyền thừa kế của cha mẹ như con đẻ.Vì vây người em đó hoàn toàn
được chia tài sản.Tuy vậy, anh có thể yêu cầu các cơ quan thi hành pháp lí xác định
xem người em đó có đủ căn cứ pháp lí để bảo đảm là con nuôi không. Nếu không thì
người đó không được hưởng quyền thừa kế.

 Tình huống 4:
- Anh cả ông A chết cách đây 5 năm.Anh của ông không có con trai chỉ có 2 đứa
con gái đã đi lây chồng.năm ngoái cha ông mất nhưng không để lại di chúc.Nay anh
em ông muốn chia thừa kế phần tài sản của cha để lại cho con cháu nhưng mà bà chị
dâu không chấp nhận đòi giữ tài sản,vì khi còn sống cha ông ở với anh cả.Hỏi bà chị
dâu có quyền như vậy không?
- Theo điều 676 thì con dâu không được hưởng quyền thừa kế của cha mẹ chồng.Di
sản của người đã khuất phải được chia theo pháp luật…Vậy anh em của ông A đều
được hưởng một phần bằng nhau số di sản thừa kếdo cha mẹ để lại .Riêng ông anh cả
đã chêt theo điều 677 thì trong trường hợp, con của người để lại di sản đã chết trước
người để lại đi sản thì cháu được hưởng một phần mà cha mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống…Theo qui định thì 2 đứa con gái của ông anh cả sẻ được hưởng 1 phần
di sản thừa kế.
 Tình huống 5:
- Cha mẹ chị B sinh được 4 người con,khi còn sống ông bà đã xây dựng được 2 căn
nhà trên diện tích 500 mét vuông (cả vườn). Khi cha mẹ chị mất không để lại di chúc
thì em trai thứ1 của chị đã đem bán một căn nhà và môt phần diận tích đất vườn mà
không hề cho chị va những người còn lại biết.Một đứa em trai khác của chị không may
mắn đã chết khi chưa lập gia đình.Nay em trai chị nói 2 chị gái lấy chồng rồi thì không
được đòi hỏi gì.Vậy chị có được hưởng giá trị tài sản của cha mẹ để lại hay không?
Đứa em trai đã chết có được chia tài sản không?

16


- Những người có quan hệ huyết thống ,họ hàng với người đã chết đều có thể được
hưởng quyền và nghĩa vụ về tài sản của người đã chết theo qui định của pháp luật Việc
em trai nói 2 chị không được hưởng tài sản là không đúng .Theo luật định thì cả 4
người con của cha mẹ đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất(điều 676) .Như vậy cả 2 chị và
2 người con trai đều được hưởng toàn bộ di sản thừa kế của cha mẹ để lại.Tuy nhiên

người em trai đã chết mà chưa có gia đình nghĩa là không có ai được hưởng quyền lợi
của người em đó thì không cần phải chia cho anh ta .Khối tài sản mà cha mẹ để lại
không ai được tự ý mua bán ,cho…nếu không có được sự đồng ý của người thừa
kế.Người em trai thứ nhất đã bán 1 phần tài sản là trái pháp luật về thừa kế.chỉ có thể
yêu cầu tòa án gải quyết thừa kế theo pháp luật.Đối với những tài sản mà em của chị
đã bán cho người khác thì người em chị phải có nghĩa vụ giải quyết về những thiệt hại
do mình gây ra khi số tài sản ấy được chia cho người được hưởng thừa kế.
CHƯƠNG IX
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Tập bài giảng “ Pháp luật đại cương ” của Tổ bộ môn pháp luật khoa lý luận chính
trị
Phần 4 :thừa kế (Điều 631 đến Điều 680 ) - Bộ luật dân sự năm 2005
www.moj.gov.vn


17



×