Luật Hôn nhân và Gia đình VN
Nhóm 1_ Lớp K54 CLC
1. Nguyễn Ngọc Quỳnh
2. Trịnh Thị Huyền Trang
GIA ĐÌNH VIỆT NAM
MỤC LỤC
Nội dung.
I. Giới thiệu chung về gia đình và nghĩa vụ của gia đình. Những vấn đề về bảo vệ
quyền lợi phụ nữ và trẻ em được ưu tiên hàng đầu hiện nay:
II. Bạo lực gia đình
1. Bạo lực gia đình là gì?
1.1 Khái niệm
1.2. Các hành vi bạo lực gia đình
2. Nguyên nhân
3.Hậu quả
4. Các biện pháp phòng ngừa :
4.1 Biện pháp chung
4.2 Biện pháp cụ thể
5. Các biện pháp xử phạt hành vi bạo lực gia đình :
5.1.Áp dụng bằng biện pháp xử lý hành chính
5.2 Áp dụng các chế tài trong luật hình sự
5.3 Áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo
dục, trường giáo dưỡng
III. Quyền lợi của trẻ em sau khi cha mẹ ly hôn:
1.Khái quát về những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của trẻ em sau
khi cha mẹ ly hôn:
1.1.Đối tượng: là người con, kết quả của cuộc hôn nhân giữa cha mẹ
1
1.2.Nguyên tắc: người nuôi con phải đáp ứng quyền lợi mọi mặt của con
1.3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn
a. Người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con
b. Nghĩa vụ và quyền của người (cha, mẹ) không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục
con
1.4. Thực tiễn áp dụng quy định bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn trong
hoạt động xét xử của Toà án
Kết luận.
Nội dung
2
I. Giới thiệu chung về gia đình và nghĩa vụ của gia đình. Những vấn đề về bảo
vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em được ưu tiên hàng đầu hiện nay:
Theo Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa, gia đình “là một xã hội
thu nhỏ bao gồm một hay nhiều thế hệ khác nhau sống và hoạt động bên nhau một
cách có tổ chức có nguyên tắc thành văn hay bất thành văn. Sự hòa thuận được
đảm bảo bởi sự ấm cúng, cảm giác an toàn và tình yêu thương” (tr.205). Nếu xét từ
khía cạnh xã hội, ta có thể đưa ra một định nghĩa khái quát và thông dụng hơn về
gia đình: đó là một cộng đồng người cùng chung sống sinh hoạt chung dưới một
mái nhà, làm thành đơn vị nhỏ nhất của xã hội (còn được gọi là tế bào xã hội) gắn
bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu.
Có nhiều ý kiến về các chức năng cơ bản của gia đình, nhưng hiện nay quan
điểm chung là gia đình có 5 chức năng chính: tái sản xuất, giáo dục, kinh tế, thỏa
mãn nhu cầu tâm lý của các thành viên, và chăm sóc sức khỏe.
- Chức năng tái sản xuất ra con người: tất cả các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội
khác không có chức năng này, trừ gia đình. Việc thực hiện chức năng này không
chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu, mong ước của người vợ, người chồng mà còn là vấn
đề xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội.
- Chức năng xã hội hoá, giáo dục con cái: Có thể nói, giáo dục gia đình có ý nghĩa
to lớn để giúp trẻ thành người. Ngôn ngữ mẹ đẻ, thói quen sinh hoạt gia đình, cách
ăn mặc, giao tiếp, cách quan sát, các nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu
đều được gia đình hướng dẫn, hướng trẻ theo một nếp sống, truyền thống ổn định.
Đây chính là cơ sở đầu tiên và quan trọng bậc nhất để hình thành nhân cách trẻ sau
này.
- Chức năng kinh tế: Chức năng kinh tế biểu hiện trên cả hai phương diện sản xuất
và tiêu dùng. Trong điều kiện hiện nay, nhiều gia đình có thành viên làm ở các
công ty, nhà nước... chính vì vậy, chức năng kinh tế của gia đình được giảm nhẹ ở
khâu tổ chức, sản xuất, nhưng với tư cách là đơn vị tiêu dùng thì tính toán thu chi
hàng tháng, hàng năm vẫn là nỗi lo của các chủ gia đình.
- Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong gia đình. Đây là
chức năng đặc biệt quan trọng trong việc chia sẻ trách nhiệm, tình yêu thương gắn
bó giữa các thành viên trong gia đình. Gia đình là một cộng đồng đặc biệt, không
3
một cộng đồng hay tổ chức nào có thể đem lại tình cảm ấm áp, sâu sắc và thiêng
liêng như gia đình. Gia đình vừa là nơi nuôi dưỡng cho con người trưởng thành,
đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió
của cuộc đời.
- Chức năng chăm sóc sức khỏe: Mặc dù hiện nay các dịch vụ y tế công cộng đã
phát triển tốt, nhưng việc gia đình có trách nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho các thành
viên trong gia đình vẫn hết sức quan trọng, nhất là với người ốm, người già. Chăm
sóc sức khoẻ ở đây không chỉ đơn thuần sức khoẻ về thể chất mà còn cả sức khoẻ
tinh thần.
Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, sự tăng trưởng nhanh về kinh
tế nhưng không chú ý phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến những
khủng hoảng và đổ vỡ các quan hệ gia đình. Sự thay đổi về điều kiện làm việc và
sinh hoạt của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng là nguyên nhân làm ảnh hưởng
tới cấu trúc và sự ổn định của các gia đình ở nhiều nơi. Để khắc phục tình trạng
trên, nhiều nước đã hình thành các cơ quan quản lý nhà nước phụ trách vấn đề gia
đình với các chính sách và sự đầu tư thỏa đáng giúp cho gia đình có đủ năng lực
thực hiện các chức năng của mình và thích nghi được với những biến đổi của kinh
tế - xã hội. Một trong những nguyên tắc quan trọng được các nước thừa nhận làm
căn cứ cho Liên hợp quốc công bố năm 1994 là Năm Quốc tế về Gia đình: "Gia
đình là đơn vị cơ sở của xã hội, và vì vậy xứng đáng được quan tâm đặc biệt".
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em và Công uớc quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ đều coi gia đình như một nhân tố quan trọng để thực
hiện và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em. Việt Nam đã gia nhập và Công uớc
quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ vào năm 1982 và
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em năm 1990.
Cho tới nay, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình ngày
càng phát triển, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phong trào xây
dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, góp phần gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho
hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với
4
cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế
hoạch hoá gia đình, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc và xã hội ngày
càng ổn định, phát triển. Cụ thể là:
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã có những thi hành thay đổi lớn so với
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn
nhân gia đình đã được bổ sung theo chiều hướng bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và
trẻ em (Khoản 5, 6 Điều 2. “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối
xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và
con ngoài giá thú.”; “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ,
trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.”). Luật
đã có những quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với
hôn nhân và gia đình, cơ chế bảo vệ quan hệ hôn nhân-gia đình không bị xâm
phạm (Điều 3, 4). Những quan hệ gia đình được luật điều chỉnh cũng đã mở rộng
ra ngoài phạm vi quan hệ vợ-chồng, cha mẹ-con cái (quan hệ giữa các thành viên
khác trong gia đình, quan hệ cấp dưỡng, quan hệ giám hộ). Từ năm 2001, ngày
28/6 trở thành Ngày Gia đình Việt Nam càng khẳng định vai trò của gia đình đối
với xã hội và xã hội đối với gia đình.
Bên cạnh Luật Hôn nhân và Gia đình, Nhà nước đã đưa ra nhiều bộ luật khác điều
chỉnh những quan hệ liên quan tới hôn nhân gia đình nhằm hỗ trợ cho việc bảo
đảm các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình lành mạnh và bình đẳng
được bảo vệ. Đó là Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Luật Bình
đẳng giới 2006, Luật Phòng chống Bạo lực gia đình 2007, v.v.
Trong số những nhiệm vụ quan trọng của gia đình, việc bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em – 2 đối tượng dễ bị tổn thương trong quan hệ hôn nhân - được ưu tiên
lên hàng đầu, và những vấn đề nào có thể trở thành mối đe dọa đối với nghĩa vụ
này của gia đình đều được xã hội quan tâm. Thậm chí ngay cả khi hôn nhân chấm
dứt, nghĩa vụ bảo vệ phụ nữ và trẻ em của gia đình vẫn không vì thế mà mất đi;
đặc biệt là trong trường hợp của trẻ em, kết quả của cuộc hôn nhân giữa cha mẹ và
cũng là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất khi gia đình tan vỡ. Vì lẽ đó, tệ nạn bạo
lực gia đình và vấn đề bảo vệ quyền lợi của trẻ em sau khi ly hôn đang là những
vấn đề thời sự nhất của xã hội.
5
II. Bạo lực gia đình
Ngày 25-11 hàng năm được Liên Hợp quốc lấy làm Ngày quốc tế phòng, chống
bạo lực gia đình. Mỗi gia đình có một hoàn cảnh khác nhau và nguyên nhân đẫn
đến việc bạo hành cũng không giống nhau.
1. Bạo lực gia đình là gì?
1.1 Khái niệm: Khoản 2 Điều 1 của Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007
quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình”.
Hành vi cố ý là người gây ra bạo lực gia đình nhận thức được hành vi của mình
gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó mặc dù là mong
muốn hay không mong muốn hành vi ấy xảy ra. Qua khái niệm có thể thấy được
bạo lực gia đình không chỉ đơn thuần là những hành vi làm tổn hại về sức khỏe mà
còn làm tổn hại đến cả kinh tế. Nạn nhân của bạo lực gia đình chủ yếu là người
phụ nữ và con cái. Tuy nhiên trong cuộc sống hiện nay cũng có không ít trường
hợp người chồng cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Ngày 25-11 hàng năm
được Liên Hợp quốc lấy làm Ngày quốc tế phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi gia
đình có một hoàn cảnh khác nhau và nguyên nhân đẫn đến việc bạo hành cũng
không giống nhau.
1.2. Các hành vi bạo lực gia đình
Bao gồm:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ,
tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
6
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia
đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
2. Nguyên nhân:
- Thiếu hiểu biết về pháp luật: Những người đánh vợ vì nghĩ vợ mình mình đánh
đó là chuyện riêng của gia đình không liên quan tới ai, không ai có quyền can
thiệp.
- Tức giận: Những người có tính nóng nảy thường thích giải quyết dất đòng bằng
vũ lực. Có thể lúc nhỏ người ta bị lạm dụng, không được trang bị các kĩ năng sống
cần thiết để kiềm chế các hành vi bạo lực, những lúc quá giận giữ họ thể hiện
quyền của mình bằng nắm đấm.
Người chồng nóng nảy khi cãi nhau với vợ anh ta chọn bạo lực để giải quết vấn đề
chứ không phải là lời lẽ. Những người chồng gia trưởng khi cãi nhau với vợ, phản
ứng đầu tiên của anh ta là bác bỏ những gì vợ nói bằng bạo lực.
- Nghiện ngập: Nghiện rựu hay ma túy rất dễ khiến người ta di đến hành vi bạo lực
bởi nó làm thi hành ány đổi suy nghĩ của con người, mõi lần say xỉn con người mất
7
đi khả năng tự chủ làm cho con người thô bạo hơn và không cần suy nghĩ. Khi say
xỉn người ta sẽ làm khuyếch đại tình hình lên và biến mâu thuẫn thành bạo lực.
- Căng thẳng: Khi mà con người ta căng thẳng thì rất dễ bùng nổ thành bạo lực, lúc
đó họ sẽ không kiểm soát được hành vi của mình dẫn đến bạo lực.
- Kinh tế, cờ bạc: Do khó khăn về kinh tế nên các cặp vợ chồng rất dễ xung đột,
cãi cọ người này đổ lỗi cho người khác làm nảy sinh bạo lực. Đánh bài thua về nhà
bán đồ đạc trong nhà đi để trả nợ, sinh ra vợ chồng cãi cọ , đánh nhau. Ngoài ra
còn rất nhiều nguyên nhân khác dấn đến bạo lực gia đình.
=> nguyên nhân gốc rễ của nạn bạo lực là sự bất bình đẳng giới, bất bình đẳng về
quyền lực; sự thiếu hiểu biết về pháp luật và nhận thức của người dân (người gây
ra bạo lực và bị bạo lực) về bạo lực gia đình còn hạn chế, các thành viên thiếu các
kỹ năng ứng xử, cách giải quyết phù hợp trong khi gia đình xung đột.
3.Hậu quả:
Bạo lực gia đình đem đến nhiều hậu quả nặng nề về cả thể xác và tinh thần đối với
con người.
Thứ nhất, bạo lực gia đình cho dù ở bất kì hình thức nào cũng gây nguy hại đến
sức khỏe và tinh thần đối với người khác. Làm tác động tiêu cực đến lực lượng lao
động của xã hội đặc biệt là lao động nữ, từ đó làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình
cũng như xã hội.
Thứ hai, bạo lực gia đình làm gia tăng số người bị bệnh tật, từ đó đặt áp lực lên
ngành y tế của đất nước. Làm sa sút việc học hành của con người, ảnh hưởng đến
chất lượng giáo dục.
Theo khảo sát của Hội Liên Hiệp phụ nữ năm 2008, có 23% số gia đình được
hỏi có hành vi bạo hành về thể chất; 30% bạo lực về tình dục; 25% số gia đình có
hành vi bạo lực về tinh thần trong đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Bạo lực gia
đình tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng tới hạnh phúc gia đình. Làm cho nhiều
gia đình tan nát, ly dị, ly thân…Theo điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Giới và
8
Phát triển, thì bạo lực gia đình đã làm cho gia đình tan nát chiếm 49,7%. Thống kê
của TAND tối cao: năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn, trong đó 32.164 vụ bạo lực,
chiếm 62%; trung bình trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có 352.000 vụ ly
hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm 53,1%).
Tại Việt Nam, theo thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao, trung bình mỗi năm
cả nước có hơn 8.000 vụ ly hôn với nguyên nhân là bạo lực gia đình. Theo các nhà
nghiên cứu trong các gia đình Việt Nam có 25% gia đình xảy ra hành vi bạo lực
tinh thần, 23% gia đình có bạo lực về thể chất, 30% cặp vợ chồng xảy ra hiện
tượng ép buộc quan hệ tình dục. Nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ và con cái
trong gia đình.
Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả xấu về sức khỏe và tâm lí của phụ
nữ và trẻ em. Đối với phụ nữ, bạo hành gia đình gây ra những thương tật, tàn tật
vĩnh viễn và ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe sinh sản như viêm nhiễm đường sinh
sản, HIV/AIDS, rối loạn phụ khoa, sảy thai,… Ngoài những ảnh hưởng về thể chất,
bạo lực gia đình còn gây ra nhiều hậu quả xấu về tinh thần cho người phụ nữ như
stress sau chấn thương, rối loạn/hoảng loạn, mất trí nhớ,… Còn trẻ em làm nhân
chứng hoặc nạn nhân của bạo lực sẽ có thể đi đến niềm tin rằng: Bạo lực là phương
thức hữu lý để giải quyết xung đột giữa con người với nhau. Số liệu khảo sát điều
tra xã hội học cho biết: Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của
trẻ chiếm 91,0%, gây tổn hại về sức khỏe, thể chất: 87,5%, gây tổn thương về tâm
lý, tinh thần: 89,4%, gây tan vỡ gia đình: 89,7% và làm rối loạn trật tự, an toàn xã
hội: 89%.
4. Các biện pháp phòng ngừa :
Hiện tại, việc phòng chống và hạn chế bạo lực vẫn gặp nhiều thách thức. Vấn
đề phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, quan niệm gia trưởng vẫn còn tồn tại
trong xã hội của chúng ta, rất khó để xóa bỏ dược tình trạng này. Nhận thức về
pháp luật của một bộ phận người dân đang còn hạn chế. Một số xã vùng sâu vùng
9
xa thì chính sách của nhà nước chưa kịp tời đến với nhân dân. Bạo lực gia đình
đem đến nhiều hậu quả nặng nề như vậy, cần phải có các biện pháp để hạn chế và
phòng chống.
4.1 Biện pháp chung
- Để hạn chế được nạn bạo lực thì cả cộng động cần phải chung tay giải quyết,
xem và nhận thức được rằng đây là vấn đề xã hội cần được quan tâm, sự vào cuộc
của các cơ quan chưc năng, hội phụ nữ. Tuyên truyền sâu rộng Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới tới cộng đồng và từng gia đình nhằm thi
hành ány đổi nhận thức, hành vi của con người đối với bạo lực, nói không với bạo
lực gia đình.
-Đồng thời hoàn thành tốt chương trình toàn dân tích cực xây dựng đời sống văn
hóa. Giáo dục tác nhân bạo lực giúp họ đi đến nhận thức được rằng nạn bạo hành
gia đình là vấn đề mang tính xã hộichứ không phải của riêng ai, rằng đó là hành vi
sai trái.
-Huy động sức mạnh trong dư luận xã hội, định hướng dư luận trong phòng
chống bạo lực gia đình
-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống bạo lực gia đình, phổ biến
luật cho người dân.
-Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Chính quyền và sự hỗ trợ của các cơ quan
chức năng trong việc xây dựng luật và tuyên truyền cho nhân dân về luật phòng
chống bạo lực gia đình. Từng cá nhân trong gia đình phai có trách nhiệm phòng
chống và hạn chế bạo lực.
4.2 Biện pháp cụ thể:
Được quy định từ điều 9-17 Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007 bao gồm:
a, Biện pháp thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình: theo
đó mục đích và yêu cầu của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia
đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá
10
bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người,
gia đình Việt Nam.
Biện pháp này phải đảm bảo các yêu cầu chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực;
phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản
sắc dân tộc, tôn giáo; không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình.
- Nội dung thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
Chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và
nghĩa vụ của các thành viên gia đình; Truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình
Việt Nam; Tác hại của bạo lực gia đình; Biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong
phòng, chống bạo lực gia đình; Kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng
xử, xây dựng gia đình văn hoá; Các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống
bạo lực gia đình.
- Hình thức thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
+ Thực hiện trực tiếp.
+ Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân.
+ Thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại
hình văn hoá quần chúng khác.
b. Biện pháp hòa giải mâu thuẫn: tranh chấp giữa các thành viên gia đình cần
phải .được giải quyết bằng hòa giải theo các nguyên tắc: kịp thời, chủ động, kiên
trì; Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; Tôn
trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên; Khách quan, công minh, có lý,
có tình; Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên; Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
11
-Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình quy định tại
Điều 14 và Điều 15 của Luật này trong những trường hợp sau đây:
+ Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử
lý theo quy định của pháp luật hình sự;
+ Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính.
- Về hình thức hòa giải, luật quy định có ba hình thức là:
+ Hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp do gia đình, dòng họ tiến hành
+ Hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp do cơ quan, tổ chức tiến hành
+ Hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp do tổ chức hòa giải ở cơ sở tiến hành
c. Biện pháp tư vấn , góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư:
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt
động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư để
phòng ngừa bạo lực gia đình.Tư vấn về gia đình ở cơ sở bao gồm các nội dung sau
đây:
- Cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống
bạo lực gia đình;
- Hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn,
tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
*) Đối tượng được tư vấn về gia đình bao gồm: Người có hành vi bạo lực gia đình;
Nạn nhân bạo lực gia đình; Người nghiện rượu, ma tuý, đánh bạc;Người chuẩn bị
kết hôn.
*) Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư được áp dụng đối với người từ đủ
16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hoà giải mà
tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình.
Trưởng thôn, làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố hoặc người đứng đầu
đơn vị tương đương (sau đây gọi chung là người đứng đầu cộng đồng dân cư)
quyết định và tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư. Thành phần thi
12
hành ánm gia góp ý, phê bình bao gồm đại diện gia đình, hộ gia đình liền kề và các
thành phần khác do người đứng đầu cộng đồng dân cư mời.
Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng
đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với
người có hành vi bạo lực gia đình.
=> Như vậy các quy định nói trên của Luật phòng chống bạo lực gia đình đã thể
hiện quan điểm coi trọng việc ngăn ngừa bạo lực gia đình và chú trọng đến các giải
pháp tại cộng đồng, phát huy vai trò của gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư ở cơ
sở nhằm phát hiện, xử lý sớm những mâu thuẫn, xích mích nhỏ , không để phát
sinh thành mâu thuẫn lớn, gây bạo lực gia đình.
5. Các biện pháp xử phạt hành vi bạo lực gia đình :
Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
5.1.Áp dụng bằng biện pháp xử lý hành chính:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi bạo
lực gia đình và các các hành vi khác do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực
gia đình mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực
gia đình, cá nhân, tổ chức vi phạm bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt
chính sau:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền.
13
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình có thể
bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Cụ thể:
a.Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với các hành vi sau:
-Không cho thành viên gia đình thi hành ánm gia các hoạt động xã hội hợp pháp,
lành mạnh.
- Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp
dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
- Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy
hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác.
- Đe dọa người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn
nhân bạo lực gia đình.
b. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với các hành vi sau:
- Thường xuyên đe dọa bằng bạo lực để buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp
pháp của họ;
- Sử dụng, truyền bá thông tin , hình ảnh, âm thi hành ánnh nhằm kích động hành
vi bạo lực gia đình
- Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài sản
chung gia đình
- Buộc thành viên gia đình phải chứng kiến cảnh sinh hoạt tình dục
- Hành hung người ngăn chặn, phát hiện , báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ
nạn nhân bạo lực gia đình.
Ngoài ra còn có các mức phạt khác cao hơn tương ứng với các hành vi bạo lực
gia đình được quy định trong Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình.
5.2 Áp dụng các chế tài trong luật hình sự
14
Khi hành vi bạo lực trở thành nguy hiểm cho xã hội có thể gây hậu quả nghiêm
trọng và hành vi đó được quy định trong Luật Hình sự thì người thực hiện hành vi
bạo lực đó sẽ bị xử lý về hình sự. Khung hình phạt đối với các tội này có thể là
phạt tù thậm chí là tù chung thân. Đó là các tội phạm thuộc nhóm tội:
-Xâm phạm tính mạng và sức khỏe , nhân phẩm, danh dự con người.
-Tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
5.3 Áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở
giáo dục, trường giáo dưỡng
Người thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình đã được góp ý, phê bình trong
cộng đồng dân cư mà trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày áp dụng biện pháp này vẫn
có hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thì có thể bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Người có hành vi bạo lực gia đình đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn mà tiếp tục thực hiện hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục; đối với người dưới 18 tuổi thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng.
III. Quyền lợi của trẻ em sau khi cha mẹ ly hôn:
1. Khái quát về những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của trẻ
em sau khi cha mẹ ly hôn:
Khi ly hôn, vợ chồng thoát khỏi cuộc sống không hạnh phúc, căng thẳng kéo
dài nhưng thiệt thòi nhất là những đứa con do rơi vào cảnh thiếu tình yêu thương,
sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của cả cha và mẹ, gia đình xa cách. Thực tế có
nhiều trường hợp khi cha mẹ ly hôn nhiều đứa trẻ đã trở nên thay đổi tính nết, trở
15
nên trầm lặng, lầm lỳ vì mặc cảm với bạn bè hoặc thù ghét cha mẹ, rất dễ hư hỏng.
Một phần lớn những đứa trẻ hư hỏng là những em có gia đình không hạnh phúc,
cha mẹ ly hôn, con cái không được quan tâm và phạm pháp khi chúng còn vị thành
niên. Suy cho cùng, sự phát triển và trưởng thành của những đứa trẻ luôn cần có
bàn tay của cả mẹ lẫn cha, nếu thiếu đi một người thì sự phát triển về tính cách, lối
sống, suy nghĩ của đứa trẻ sẽ không đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, sự can thiệp của
xã hội, của pháp luật để cha mẹ chúng thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình sau khi ly hôn là rất cần thiết.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của trẻ sau khi cha mẹ ly hôn được quy định trong
"chương VI - Cấp dưỡng" của Luật HN&GĐ năm 2000.
1.1.Đối tượng: là người con, kết quả của cuộc hôn nhân giữa cha mẹ
Để bảo đảm quyền lợi của trẻ, Luật HN&GĐ còn đặc biệt nhấn mạnh trường
hợp con chưa thành niên hoặc không có hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khi ấy
cha mẹ có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con mà không
được có bất kì sự phân biệt nào.
‘‘Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi
dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình’’. (Khoản 1 Điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000)
1.2.Nguyên tắc: người nuôi con phải đáp ứng quyền lợi mọi mặt của con
Giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục là một vấn đề hết sức quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đối với cuộc sống, với tương lai của các con bởi vì người trực
tiếp nuôi con là người cùng sống với con trong một mái nhà, là người có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, thể chất của người con. Việc
16
giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp là sự thoả thuận của cha mẹ hay
quyết định của Toà án thì đều phải được xem xét một cách toàn diện và cẩn thận,
dựa trên quyền lợi của con. Việc này được xác định theo nguyên tắc giao con cho
bên nào có thể nuôi dưỡng, giáo dục đáp ứng đủ quyền lợi mọi mặt của con. Khi
xác định người trực tiếp nuôi con là phải dựa vào quyền lợi của những đứa trẻ vô
tội này mà không dựa trên những toan tính hay quyền lợi của cha mẹ chúng:
‘‘Vợ, chồng thoả thuận người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con ; nếu
con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con’’.
(Khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000)
Quyền lợi về mọi mặt của con không chỉ là đáp ứng những nhu cầu tối thiểu mà
còn bao gồm những điều kiện cần thiết cho sự phát triển về thể chất và trí tuệ của
con. (Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ:‘‘các điều
kiện cho sự phát triển thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự
phát triển tốt về tinh thần ’’). Để bảo đảm quyền của người con, Tòa án thường
xem xét nhiều điều kiện khi xác định ai là người được quyền nuôi con:
1. Lối sống của người trực tiếp nuôi con được đặt lên hàng đầu, vì nếu người
trực tiếp nuôi con có lối sống không tốt, không quan tâm đến cuộc sống và nhu cầu
hàng ngày của con thì dù họ có điều kiện kinh tế tốt đến đâu, quyền lợi của người
con vẫn không được đảm bảo; hơn nữa, khi phải sống với người cha hoặc mẹ có
đạo đức không tốt thì không những ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của con
mà vấn đề vật chất cũng khó mà đảm bảo.
17
2. Khả năng kinh tế của người trực tiếp nuôi con cũng là một vấn đề hết sức
quan trọng, vì người trực tiếp nuôi con là người có trách nhiệm đảm bảo cuộc sống
mọi mặt cho con, họ nuôi con theo khả năng của mình, nguồn thu nhập mà họ có
được thường là nguồn chủ yếu và ổn định để nuôi con. Xét khả năng nuôi con theo
điều kiện kinh tế khá phức tạp, vì mức thu nhập và sự ổn định của thu nhập có thể
không đi cùng nhau.
3.
Môi trường sống mới cũng là một yếu tố được xem xét, vì môi trường sống
là yếu tố có tác động trực tiếp đến nhân cách cũng như tính cách của đứa trẻ. Sau
khi ly hôn, môi trường sống của vợ chồng ắt sẽ phải thi hành ány đổi so với những
gì mà người con từng trải qua: có thể là do chuyển chỗ ở, thuyên chuyển công tác,
vợ hay chồng có thể đi bước nữa, người con phải theo cha hay mẹ nên cũng phải
chuyển trường, sống cùng hàng xóm mới, v.v. Những thi hành ány đổi như vậy có
ảnh hưởng không ít tới tâm sinh lý trẻ.
Xuất phát từ lợi ích của con, pháp luật còn quy định : ‘‘Nếu con từ đủ chín
tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con’’ (Điều 92 Luật HN&GĐ năm
2000), nói cách khác là giành cho những đứa con từ đủ chín tuổi quyền lựa chọn sẽ
ở với cha hay với mẹ. Quy định này phù hợp vì ở độ tuổi này, đứa con đã có thể
nhận thức được cha hay mẹ là người quan tâm, chăm sóc mình nhiều hơn, ở với ai
thì tốt hơn cho chúng. Trong một vụ án ly hôn, việc xem xét ý kiến, nguyện vọng
của con và coi đó là một trong những cơ sở để Toà án quyết định giao con cho ai
nuôi là cần thiết xét cả góc độ lý luận và thực tiễn. Dù không có quyền quyết định,
nhưng việc được bày tỏ ý chí của mình đã thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối
với ý kiến, với nhận thức của các em, sự cố gắng đem đến cho các em một cuộc
sống tốt đẹp hơn.
18
Khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định một trường hợp đặc
biệt : ‘‘Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi,
nếu các bên không có thoả thuận khác’’. Sở dĩ có quy định này là bởi ở độ tuổi
này, người gần gũi và chăm bẵm cho trẻ thường là mẹ, mẹ cũng là người khéo léo
chu đáo hơn trong việc nuôi con. Vì vậy, nếu không có lý do gì khác thì việc để
cho người mẹ quyền trực tiếp nuôi con dưới 3 tuổi là vì lợi ích mọi mặt của đứa
trẻ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người mẹ cũng chăm sóc con tốt hơn người cha
hoặc những người trong gia đình người cha, nên nhà làm luật cũng đã nhấn mạnh
cụm từ : ‘‘Về nguyên tắc’’ để khi Toà án xem xét mà có trường hợp ngoại lệ thì
Toà án cũng phải xem xét cẩn thận vấn đề bằng thực tế.
Việc ai trong cha mẹ được quyền nuôi con thường được quyết định bằng
thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế, không phải sự thoả thuận nào cũng là hợp lý và
vì quyền lợi của con: có những trường hợp người không đủ điều kiện đảm bảo
cuộc sống cho con lại nhận nuôi con, còn người có đầy đủ khả năng lại trốn tránh
trách nhiệm nuôi con, thoả thuận về mức cấp dưỡng là không hợp lý, hay sống với
người trực tiếp nuôi con thì đứa con sẽ không có cơ hội để học hành và phát triển
trí tuệ... Cũng có nhiều vụ ly hôn cha mẹ không thoả thuận được về người trực
tiếp nuôi con vì như cha mẹ nào cũng thương con và muốn trực tiếp nuôi, đây là xu
hướng tích cực thể hiện tinh thần trách nhiệm của cha mẹ. Theo quy định của pháp
luật, khi các bên không thoả thuận được thì Toà án sẽ là người đưa ra quyết định,
căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con.
1.3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn :
Sau khi ly hôn, cuộc sống chung của vợ chồng chấm dứt, mối quan hệ pháp lý
giữa họ mất đi. Tuy nhiên, những nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con vẫn
không thi hành ány đổi, chỉ là việc thực hiện những nghĩa vụ và quyền ấy có những
19
điểm khác so với trước đây. Bên cạnh đó vì nuôi dưỡng con là quyền và nghĩa vụ
của cả cha và mẹ nhưng sau khi ly hôn con chỉ được sống với một người nên người
không trực tiếp nuôi con có một số quyền và nghĩa vụ rất đặc thù. Những vấn đề
này được quy định trong luật theo chiều hướng bù đắp cho người con những thiệt
thòi về tinh thần và vật chất khi phải sống trong cảnh cha mẹ ly hôn, đảm bảo
quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng tàn tật, mất năng
lực hành vi dân sự.
a. Người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con:
Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con là người cùng sống
với con trong một ngôi nhà, vì vậy họ không bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với
con. Họ là người có thể theo dõi con hàng ngày, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình một cách thường xuyên, liên tục. Hơn nữa, họ là người đã được xác định
là người có thể nuôi dưỡng, giáo dục con tốt hơn người kia, nên những nghĩa vụ và
quyền mà hai vợ chồng đã từng thực hiện trước đây vẫn được giao cho họ. Đó là
những nghĩa vụ và quyền như trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ con, đại diện cho con
trước pháp luật, quản lý tài sản của con.
- Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con (Điều 12 Luật BVCS&GDTE,
Khoản 1 Điều 36 Luật HN&GĐ năm 2000)
- Nghĩa vụ và quyền giáo dục con (khoản 1 Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2000,
khoản 1 Điều 16 và khoản 1 Điều 28 Luật BVCS&GDTE)
- Quyền đại diện cho con (Điều 39 Luật HN&GĐ năm 2000): Để đảm bảo
quyền lợi của con, pháp luật còn quy định những trường hợp mà cha mẹ không
được đại diện cho con tại Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2000. Hoặc nếu cha mẹ bị
mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, khi ấy nếu người không trực tiếp nuôi
20
con có yêu cầu và có đủ điều kiện để nuôi con thì có thể thi hành ány đổi người
trực tiếp nuôi con. Hoặc khi cha mẹ ly hôn mà người trực tiếp nuôi con lại không
thể đại diện cho con nhưng cũng không có sự thayđổi người nuôi con thì tuỳ
trường hợp người đại diện cho con sẽ là người không trực tiếp nuôi con hoặc
những người trong gia đình người trực tiếp nuôi con.
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra trong những trường hợp pháp
luật quy định (Điều 40 Luật HN&GĐ năm và điều 621 BLDS năm 2005
- Quyền quản lý tài sản riêng của con (Điều 44 Luật HN&GĐ năm 2000
Như vậy, sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con thực hiện những quyền và
nghĩa vụ của mình giống như họ đã thực hiện nghĩa vụ này trước khi ly hôn. Vai
trò của người này là rất quan trọng vì sự chăm sóc, giáo dục của họ đối với con có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của con. Bên cạnh
đó, họ cũng cần sự hỗ trợ từ người không trực tiếp nuôi con nhằm bảo đảm ổn định
cho con.
b. Nghĩa vụ và quyền của người (cha, mẹ) không trực tiếp nuôi dưỡng,
giáo dục con
Sau khi ly hôn, theo quy định của pháp luật, người con không thể đồng thời
sống cùng với cả cha và mẹ, tuy nhiên để bảo đảm quyền lợi cho con và cũng để
người không trực tiếp nuôi con được thực hiện hiện trách nhiệm của mình, pháp
luật đã quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ rất đặc thù:
- Quyền thăm nom, chăm sóc con (Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2000): đây là
một quyền cơ bản đối với người không trực tiếp nuôi con, nhằm tạo điều kiện cho
con cái được hưởng tình yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ, tạo cơ hội cho
21
con cái được thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với người cha hoặc người mẹ không
sống bên cạnh mình.
-
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000): Nếu như
thăm nom con là sự bù đắp cho con những thiếu thốn về mặt tình cảm thì cấp
dưỡng nuôi con là sự đóng góp để đảm bảo cho con sự đầy đủ tối thiểu về mặt vật
chất. Khi ly hôn, việc chăm sóc con sẽ dồn lên vai một người, việc nuôi dưỡng con
sẽ gặp nhiều khó khăn so với trước đây, cho nên sự đóng góp vật chất để nuôi con
là rất cần thiết. Khác với việc thăm nom con là quyền, luật quy định cấp dưỡng là
một nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con
dù muốn hay không đều phải thực hiện trách nhiệm của mình. Ta có thể hiểu cấp
dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn là việc người không trực tiếp nuôi con đóng góp
tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình.
Những quy định khác về phương thức cấp dưỡng, mức độ cấp dưỡng,.. được
quy định cụ thể trong Luật HN&GĐ 2000. Trên thực tế vẫn có rất nhiều người sau
khi ly hôn không thực hiện nghĩa vụ của mình, gây ra khó khăn rất lớn cho người
trực tiếp nuôi con và thiệt thòi cho những đứa con, bởi việc không thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống vật chất của con. Nếu như việc thăm
nom con, pháp luật không can thiệp được bằng các quy định, các biện pháp cưỡng
chế thì ngược lại, pháp luật đưa ra nhiều biện pháp để đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng
được thi hành nghiêm túc trên thực tế. Dù người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự
nguyện nhưng số tiền cấp dưỡng không phân biệt là do tự nguyện hay do cưỡng
chế mà có đều nhằm phục vụ nhu cầu không thể thiếu của con, giúp con ổn định
cuộc sống. Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định trong trường hợp người
có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật HN&GĐ mà không tự nguyện thực
22
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Toà án ra quyết định buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Điều
55 Luật HN&GĐ năm 2000 thì những người có quyền yêu cầu yêu cầu Toà án
hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng là: người trực tiếp nuôi con, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội
liên hiệp phụ nữ.
- Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con (Điều 93
Luật HN&GĐ 2000): Sau khi vợ chồng ly hôn, việc giao con cho ai nuôi phải dựa
trên nguyên tắc vì quyền lợi mọi mặt của con. Nếu quyền lợi của con không được
đảm bảo thì vấn đề thi hành ány đổi người trực tiếp nuôi con sẽ được đặt ra nếu các
bên có yêu cầu. Điều kiện đầu tiên để có thể yêu cầu Toà án thay đổi người trực
tiếp nuôi con là phải vì lợi ích của con; nếu người con từ đủ chín tuổi trở lên sẽ
được thể hiện nguyện vọng của mình, dựa trên cơ sở đánh giá của người con thời
gian sống cùng người trực tiếp nuôi con. Điều kiện thứ hai để Toà án thay đổi
người trực tiếp nuôi con là phải có yêu cầu của một hoặc cả hai bên cha mẹ. Nghĩa
vụ và quyền của cha mẹ sau khi thi hành ány đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo
dục con: quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên có sự hoán đổi, nhưng Toà án có
thể thay đổi một số nội dung cụ thể trong quyền và nghĩa vụ của người không trực
tiếp nuôi con như mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, vấn đề thăm nom con
(thường là thay đổi theo hướng hạn chế hơn quyền này đối với người không trực
tiếp nuôi con). Sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, các bên có trách nhiệm
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Trong thực tế, nhiều cặp vợ chồng ly hôn tự dàn xếp với nhau về việc chăm sóc,
nuôi dạy con cái. Sự thỏa thuận này phải được thông báo cho thẩm phán của chủ
tọa phiên tòa. Nhưng khi hai bên cha mẹ ly hôn không thỏa thuận được với nhau về
23
trách nhiệm của mỗi bên, về nơi ở, về cách thức đi lại thăm con, tiền nuôi dưỡng
của bên không trực tiếp nuôi con thì họ phải tuân theo phán quyết của tòa án.
1.4. Thực tiễn áp dụng quy định bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly
hôn trong hoạt động xét xử của Toà án
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tình trạng ly hôn giữa các cặp vợ chồng
ngày càng cao. Theo báo cáo tổng kết của ngành Toà án tại tỉnh Nghệ An, năm
2004 có 1.053 vụ ly hôn thì năm 2006 tăng lên 1.263 vụ. Tại các thành phố lớn, số
vụ ly hôn càng cao hơn. Theo thống kê, tại nội thành thành phố Hồ Chí Minh, năm
1995 có 15.918 cặp kết hôn thì trong năm cũng có 5.941 vụ ly hôn, như vậy cứ 5
cặp kết hôn thì có 2 cặp ly hôn. Từ năm 2001 đến nay, trung bình cứ 2 cặp kết hôn
thì có 1 cặp ly hôn, nhiều nhất là trong độ tuổi 30-50. Đây cũng là độ tuổi cha mẹ
có con là trẻ vị thành niên chiếm tỉ lệ khá cao.
Việc ly hôn ngày càng tăng kéo theo nhiều hậu quả nặng nề đối với con cái nên
nó đã trở thành một vấn đề mà xã hội rất quan tâm. Trên thực tế, việc trông nom,
chăm sóc, giáo dục con không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ, trách nhiệm của
các bậc cha mẹ, không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ còn tồn tại hay
không. Do đã ý thức được vấn đề trên nên đa số các vụ án HN&GĐ khi ra Toà án
các cấp giải quyết, các bậc cha mẹ đều đã thoả thuận được người trực tiếp nuôi con
(chiếm 73% – 75%). Tuy thế, cũng có những trường hợp cả hai bên đều có nguyện
vọng thi hành án thiết được nuôi con, kể cả khi chỉ có một con chung (chiếm 20%24%). Đặc biệt, có những cặp vợ chồng vì những lý do này khác, cả cha và mẹ đều
dứt khoát không muốn nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi con (chiếm 0,3% - 0,5%).
Thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 về vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi
cha mẹ ly hôn trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Quyền lợi
của người con luôn được Toà án coi trọng. Việc giải quyết các mối quan hệ giữa
24
vợ với chồng, cha mẹ với con luôn được các Toà án xem xét kỹ lưỡng, cân nhắc
từng vấn đề để không ảnh hưởng xấu đến con cái, nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho những người con. Nhìn chung, kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời,
việc giải quyết các vụ ly hôn nói chung và việc đảm bảo quyền lợi của con cái khi
cha mẹ ly hôn nói riêng đã được các Toà giải quyết hợp lý và chính xác. Quyền lợi
của những đứa con đã được đảm bảo trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn có những trường
hợp Toà án đã tỏ ra bối rối, không có hướng giải quyết thích hợp trong một số tình
huống, vì vậy không áp dụng đúng tinh thần của các điều trong Luật HN&GĐ năm
2000.
Bên cạnh đó Luật HN&GĐ năm 2000 cũng còn tồn tại một số bất cập, một
số quy định chưa được giải thích rõ. Do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật tại
các Toà án, tình trạng thiếu thống nhất vẫn còn tồn tại. Ví dụ, về việc xác định thời
điểm người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng: pháp luật
chưa quy định một căn cứ chung nào để dựa vào đó Toà án xác định thời điểm thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con, do đó các Toà án có
những quan điểm khác nhau trong việc xác định mốc thời gian nghĩa vụ cấp dưỡng
bắt đầu. Một số Toà án xác định thời điểm đó bắt đầu từ khi con sống dưới sự trực
tiếp nuôi dưỡng của một người mà người kia không có sự đóng góp nào vào việc
nuôi con mặc dù họ có điều kiện, một số Toà khác lại xác định thời điểm đó là lúc
bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, quy định về mức cấp dưỡng tối
thiểu, thay đổi người trực tiếp nuôi con,.. cũng chưa được làm rõ. Việc quy định
thăm nom con là quyền chứ không phải nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi
con còn tạo điều kiện cho 1 số trường hợp cha/mẹ từ bỏ hoàn toàn việc tới thăm
nom con.
Mặc dù những tồn tại như trên chỉ chiếm một tỉ lệ ít nhưng để đảm bảo quyền
lợi của mọi trẻ có cha mẹ ly hôn, các Toà án cần áp dụng chính xác tinh thần của
25