3/ Phân tích quy định PL về hoạt động cho vay của tch tín dụng và thực
tiễn áp dụng
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Việt Nam buộc phải nâng cao tính
cạnh tranh trong mọi lĩnh vực. Một trong những giải pháp giải quyết vấn
đề đó là phải có vốn để doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, trình độ tay nghề cho người lao động. Thực tế cho thấy có
nhiều nguồn vốn đáp ứng như cầu của doanh nghiệp nói riêng cũng như
người dân nói chung đó là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn được
huy động từ nhiều hình thức khác nhau ( phát hành trái phiếu, vay vốn bạn
hàng…) và đặc biệt là vốn vay từ các TCTD. Đây chính là nguồn vốn hiệu
quả và nhanh nhất, phổ biến nhất được doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân lựa
chọn. Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các TCTD
cho vay nhưng cũng mang nhiều rủi ro nhất. Để tìm hiểu pháp luật đã điều
chỉnh lĩnh vực cho vay của tôt chức tín dụng như thế nào, em xin trình bày
nội dung “quy định pháp luật về hoạt động cho vay của TCTD và thực tiễn
áp dụng” trong bài tập lớn của mình.
NỘI DUNG
Trước hết, ta đi tìm hiểu khái quát vầ hoạt động cho vay của TCTD:
I. Khái niệm và phân loại cho vay của TCTD:
một. Khái niệm:
Cho vay theo nghĩa chung là việc một người thỏa thuận để cho
người khác được quyền sử dụng tài sản của mình trong một thời gian nhất
định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối
với người đó. Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng được quy
định tại Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số một67/ 2001/
QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho
vay của TCTD đối với khách hàng.
Hoạt động cho vay gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau:
•
Về chủ thể, gồm 2 bên tham gia: bên vay và bên cho vay.
•
Hình thức pháp lý của việc cho vay là HĐTD tài sản.
•
Sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi cơ bản là hành vi ứng
trước và hành vi hoàn trả một số tiền nhất định là các vật cùng loại.
•
Việc cho vay dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với
người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay.
Ngoài những dấu hiệu chung trên, hoạt động cho vay của TCTD còn có
những tính đặc thù sau:
•
Là hoạt động nghề nghiệp mang tính chức năng.
•
Hoạt động cho vay của TCTD ko chỉ là một nghề kinh doanh mà
hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện.
•
Ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng,
hợp đồng cho vay của TCTD còn chịu sự điều chỉnh của đạo luật về ngân
hàng, và các tập quán thương mại về NH.
2.Phân loại:
Hoạt động cho vay của TCTD có thể phân loại dựa vào nhiều tiêu
chí khác nhau. Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay, ta có thể chia làm
hai loại: cho vay ngắn hạn; cho vay trung hạn và dài hạn.
- Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay, ta chia làm hai
loại: cho vay có bảo đảm bằng tài sản; cho vay ko có bảo đảm bằng tài sản.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn cũng có hai loại là cho vay kinh
doanh; cho vay tiêu dùng.
- Căn cứ vào phương thức cho vay, hoạt động cho vay của TCTD
được chia làm tám loại: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng,
cho vay theo hạn mức đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay
theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng và cho vay theo hạn mức thấu chi.
Ngày nay trong điều kiện quốc tế hóa cao độ hoạt động ngân hàng,
việc phân loại trên đây chỉ có tính chất tương đối. Để nâng tính cạnh tranh
trên thị trường các TCTD đang có xu hướng mở rộng các dịch vụ tài chính,
bao gồm cả việc đa dạng hóa mạnh mẽ các hình thức cho vay đối với
khách hàng.
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD
1.Chủ thể tham gia giao dịch cho vay giữa TCTD với khách hàng:
Trong giao dịch cho vay giữa TCTD và khách hàng, chủ thể tham
gia bao gồm bên cho vay ( TCTD) và bên đi vay ( tổ chức, cá nhân có đủ
những điều kiện do luật định). Việc quy định các điều kiện chủ thể đối với
bên vay và bên cho vay không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho sự đánh giá hiệu
lực của HĐTD mà còn góp phần nâng cao kĩ năng giao kết HĐTD, củng
cố kỉ luật hợp đồng đối với các chủ thể tham gia giao dịch cho vay.
1.1.Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một số TCTD muốn trở
a.
b.
c.
d.
thành chủ thể cho vay phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cung cấp.
Có điều lệ do ngân hàng nhà nước chuẩn y.
Có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh hợp pháp.
Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết HĐTD với khách
hàng.
Riêng với các TCTD không phải là TCTD, muốn trở thành chủ thể
cho vay thì chỉ cần thỏa mãn các điều kiện như có giấy phép hoạt động
ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh và có người đại diện
hợp pháp.
Việc pháp luật quy định những điều này đối với bên cho vay không
chỉ góp phần hạn chế, loại trừ những TCTD không đủ tiêu chuẩn kinh
doanh trên thương trường, nhờ đó góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín
dụng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, Bên cạnh đó,
những quy định này còn là căn cứ để các luật gia hay các thẩm phán, trọng
tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan vấn đề hiệu
lực pháp lí của HĐTD.
1.2.Bên vay:
Bên vay là tổ chức cá nhân thỏa mãn các điều kiện vay vốn do pháp
luật quy định và những điều kiện khác do các bên thỏa thuận. Đa số những
điều kiện chung do pháp luận quy định còn những điều kiện riêng do các
bên tự thỏa thuận và được ghi rõ trong HĐTD như điều kiện đê giao kết
hợp đồng.
Theo quy định của pháp luật, mọi khách hàng vay vốn của TCTD
phải đáp ứng đủ những yêu cầu sau:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Ngoài ra người vay còn có thể phải thỏa mãn những điều kiện khác
do TCTD yêu cầu trong từng trường hợp HĐTD cụ thể, bao gồm:
- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam
kết;
- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi hiệu quả;
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản
của người thứ ba…
2. Khái niệm và đặc điểm của HĐTD
- Khái niệm: HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên
cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên
vay), theo đó TCTD thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng
trong một thời gian nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa
trên sự tín nhiệm.
- Đặc điểm:
Về chủ thể: một bên là TCTD có đủ các điều kiện luật định, với tư
cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp
luật và TCTD quy định.
Về đối tượng của HĐTD: Về nguyên tắc, đối tượng của HĐTD bao
giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, gi
rõ trong văn bản hợp đồng.
Đặc điểm thứ ba là HĐTD luôn chứa những nguy cơ rủi ro lớn cho
quyền lợi của bên cho vay. Có điều này là do bên cho vay chỉ có thể đòi
tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Thời hạn này càng kéo dài thì
rủi rõ của bên cho vay càng lớn. Vì vậy TCTD phải quan tâm đến việc áp
dụng các biện pháp quản trị rủi ro và quy định lãi suất cho vay cao hơn
nhằm thu hồi đủ chi phí bỏ ra cho việc quản lí các khoản cho vay dài hạn
vốn có mức độ rủi ro cao hơn.
Đặc điểm thứ ba là cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: trong hoạt
động tín dụng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay bao giờ
cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở tiền đề cho việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của bên vay. Vì vậy mà chỉ khi nào bên cho vay chứng minh
họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng HĐTD thì bên cho vay mới có quyền
được yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ với mình ( sử dụng tiền
vay đúng mục đích, hoàn trả tiền vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi…).
2.1.Hình thức của HĐTD
Theo quy định tại Điều 5một Luật các tổ chức tín dụn, mọi HĐTD
đều phải kí kết bằng văn bản mới có giá trị pháp lý. Quy định này của pháp
luật đã mang lại rất nhiều ưu điểm:
Thứ nhất là HĐTD được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh
từ HĐTD.
Thứ hai, ký bằng văn bản thực chất là sự công bố công khai, chính
thức về một quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người
thứ 3 biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự
hợp lí, an toàn trong trường hợp cần thiết. Ưu điểm thứ ba của hình
thức kí kết bằng văn bản đó là khiến cho các cơ quan có trách nhiệm
của chính quyền thi hành công vụ tốt hơn. Chẳng hạn như việc thu
thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính,kiểm soát hoạt động thương
mại của các chủ thể kinh doanh trên thương trường.
Theo quy định hiện hành, văn bản HĐTD được hiểu bao gồm văn
bản viết và văn bản điện tử. HĐTD được xác nhận thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là
giao dịch văn bản. Các văn bản hợp đồng điện tử được coi là giá trị
pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá
trình giao dịch.
Việc pháp luật quy định mọi HĐTD phải được kí kết bằng văn bản
cùng với sự chấp nhận hai hình thái vật chất nói trên của văn bản
HĐTD có thể xem là những nỗ lực rất đáng kể cho các nhà lập pháp
nhằm đảm bảo sự an toàn pháp lí cho các bên tham gia HĐTD.
2.2.Giao kết HĐTD
Theo quy định của pháp luật, việc giao kết HĐTD được thực
hiện theo trình tự sau:
- Đề nghị giao kết HĐTD.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD.
- Đàm phán các điều khoản của HĐTD. Đây là gia đoạn cuối cùng cũng là
giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết HĐTD, được coi là kết thúc khi
các bên đã chính thức kí tên vào văn bản HĐTD.
2.3.Hiệu lực của HĐTD:
a.Các điều kiện có hiệu lực của HĐTD:
Dự trên các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự, HĐTD với tư cách là loại hình giao dịch dân sự đặc thù,
chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
- Chủ thể tham gia hợp đồng phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự. Đối với chủ thể của HĐTD là tổ chức thì người đại diện
cho tổ chức đó cũng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Tính hợp pháp khi tham gia giao dịch thể hiện ở chỗ, mục đích đi vay và
mục đích cho vay của các bên chủ thể hợp đồng nhất thiết phải được thể
hiện rõ ràng trong nội dung của hợp đồng và các mục đích này không trái
pháp luật, đạo đức xã hội. Tính hợp pháp của HĐTD thể hiện ở chỗ không
vi phạm điều cấm pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
- Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí. Một HĐTD được coi là không có sự đồng thuận
khi thỏa thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự
lường gạt, ép buộc khi giao kết hợp đồng. Pháp luật quy định chặt chẽ điều
này để bảo vệ tính tự do thỏa thuận trong giao kết HĐTD nói riêng và giao
dịch dân sự nói chung.
- Hình thức HĐTD được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng ( Điều 5một Luật TCTD và quy chế cho vay của TCTD đối với
khách hàng). Tính hợp pháp về hình thức HĐTD thể hiện ở chỗ HĐTD
phải được ký kết bằng văn bản hay tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị
chứng minh nội dung cam kết của các bên. Quy định hiệu lực của hợp
đồng gắn liền với hình thức của hợp đồng là rất hợp lí vì HĐTD có rủi ro
rất cao cho quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, quy
định chặt chẽ hình thức của HĐTD sẽ phần nào ngăn chặn những tranh
chấp và rủi ro không đáng có trong quan hệ giao dịch đặc thù này.
b. thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã
thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã kí tên ,
đóng dấu vào văn bản HĐTD. Quy định này xuất phát từ quan điểm của
nhà làm luật Việt Nam đó là HĐTD thuộc loại hợp đồng ưng thuận. Cũng
theo quy định này, việc chuyển giao tiền vay ( giải ngân ) là nghĩa vụ hợp
đồng của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này mà
gây thiệt hại tính được thành tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách
nhiệm nộp phạt vi phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
c. Sự vô hiệu của HĐTD và các hậu quả pháp lí của sự vô hiệu.
HĐTD bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình
thức của HĐ vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xh và
phương hại đến lợi ích chung. Hậu quả pháp lý: HĐ ko phát sinh hiệu lực
kể từ thời điểm kí kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước
khi kí kết HĐ.
- HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối: Khi chủ thể tham gia HĐ ko
có năng lực hành vi dân sự hoặc HĐ kí kết ko có sự tự nguyện và đồng
thuận giữa các bên kí kết. Hậu quả pháp lý: giống với HĐTD vô hiệu tuyệt
đối.
3.Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia HĐTD:
a. Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu ko hợp lí của TCTD khi kí kết, thực
hiện và thanh lí HĐTD. Quyền này được pháp luật quy định nhằm tạo cho
khách hàng vay khả năng chống lại các yêu cầu rõ ràng là không hợp lí của
TCTD,có thể gây ra bất lợi cho bên vay nếu phải thỏa mãn các yêu cầu
này. Ví dụ khách hàng có quyền từ chối tiết lộ bí mật kinh doanh không
liên quan tới việc sử dụng vốn và hoanftrar vốn vay…
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay ko có căn cứ hoặc
các vi phạm HĐTD của TCTD. Đây là quyền năng nhằm bảo vệ lợi ích của
người vay. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh khác, quy định này có những hạn
chế nhất định. Pháp luật cho phép người vay có thể đệ đơn khiếu nại với tổ
chức vay vốn vì họ đã từ chối cho vay với căn cứ không rõ ràng thì vô hình
chung quyền tự định đoạt cho vay hay không ( quyền tự do kinh doanh )
với khách hàng. Như vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, cách tốt nhất là
TCTD hãy tìm và đưa ra các căn cứ chính đáng mỗi khi từ chối cho vay
với một khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận
trong HĐTD. Do vậy, bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay bồi thường
thiệt hại trong trường hợp bên cho vay không thực hiện nghĩa vụ giải ngân
đúng hạn và gây thiệt hại với bên vay.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả, đúng mục đích đã thỏa thuận trong
HĐTD. Hậu quả pháp lý của việc bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ
này là họ sẽ bị bên cho vay đình chỉ việc sử dụng vốn hoặc bị thu hồi vốn
vay trước thời hạn, sau khi được bên cho vay nhắc nhở bằng văn bản. Quy
định này nhằm đưa hoạt động sử dụng vốn vay của bên vay một phần nằm
trong sự kiểm soát của bên cho vay, giảm tải rủi ro cho bên cho vay.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi pham HĐTD và
tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay ( nếu có). Đây chính là nghĩa vụ
chính của bên vay , phát sinh trên cơ sở HĐTD hoặc phán quyết đã có hiệu
lực pháp luật của cơ quan tài phán có thẩm quyền. Về nguyên tắc, các
nghĩa vụ này của bên cho vay sẽ chấm dứt khi nào chúng đã được bên vay
thực hiện xong trên thực tế.
b. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn và địa điểm
cho khách hàng vay sử dụng. Với hiện trạng pháp luật Việt Nam, trong
trường hợp bên vay không chịu giải ngân theo HĐTD đã có hiệu lực, họ sẽ
phải bồi thường thiệt hại vật chất đã xảy ra cho bên vay. Ngoài ra bên cho
vay phải tiếp tục nghĩa vụ của mình như trường hợp đã cam kết, trừ trường
hợp hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của
khách hàng. Đứng trước yêu cầu đề cao trách nhiệm pháp lí của bên cho
vay trong quá trình cung cấp tín dụng, Khoản 3 Điều 53 Luật các TCTD
được sửa đổi năm 2004 đã quy định việc kiểm tra, giám sát quá trình cho
vay, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng là nghĩa vụ pháp lí của
TCTD chứ không còn là quyền năng pháp lí nữa. Với quy định này, bên
cho vay có trách nhiệm phải kiểm tra quá trình sử dụng vốn và hoàn trả
vốn vay của khách hàng nhằm nâng cao chấp lượng quản trị các khoản tín
dụng. Mặt khác, khách hàng vay cũng buộc phải chấp nhận sự kiểm tra,
giám sát từ phía bên cho vay nhằm tạo điều kiện để bên cho vay tiến hành
các biện pháp quản trị tín dụng hiệu quả.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả
tiền phạt, tiền BTTH nếu có. Quyền năng này mặc dù cũng phát sinh
4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD và việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐTD.
a. Trách nhiệm pháp lý do VP HĐTD
- Khái niệm: là hành vi của một bên hoặc cả hai bên tham gia HĐ,
cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD. Một hành
vi được coi là vi phạm HĐTD khi hành vi đó thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
+ Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
+ Bên thực hiện hvi có một lỗi xác định là cô ý hay vô ý.
+ Hành vi đó nhằm xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên
đối ước, hoặc xâm hại tới các lợi ích chung của toàn xã hội, lợi ích của các
tổ chức và cá nhân khác.
•
Trách nhiệm pháp lý do VP HĐTD:
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm HĐTD đều phải chịu trách
nhiệm pháp lý dù mức độ, tính chất và loại trách nhiệm pháp lý có thể
khác nhau, tùy hậu quả xảy ra bởi hành vi đó. Có hai loại trách nhiệm pháp
lý phát sinh do việc vi phạm HĐTD, tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế
xảy ra:
+ Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: loại trách nhiệm này áp
dụng theo thỏa thuận của các bên trong HĐ, nêu sko có thỏa thuận thì áp
dụng theo quy định của pháp luật.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do VP HĐTD: áp dụng đối với
bên vi phạm khi bên bị vi phạm chứng minh được rằng bên vi phạm đã gây
ra một thiệt hại vật chất thực tế và xác định cho mình, do hành vi có lỗi
của họ trong khi thực hiện HĐTD.
b. Tranh chấp phát sinh từ HĐTD và cơ chế giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình trạng pháp lý của quan hệ
HĐTD, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau
về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế thương lượng hoặc hòa
giải qua trung gian. Trong trường hợp việc thương lượng của các bên
không đạt kết quả, các bên có thể lựa chọn giải pháp hòa giải với nhau qua
trung gian hòa giải. Việc quy định này đã tạo điều kiện cho các bên tránh
được những chi phí không cần thiết do phải theo kiện tòa. Tuy vậy nếu các
bên không thể tự giải quyết được tranh chấp cho mình bằng con đường
thương lượng, hòa giải thì theo luật định họ có quyền đưa tranh chấp ra xét
xử tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán. Việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐTD bằng con đường tài phán được xem như giải pháp
cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các bên theo quy định của luật tố
tụng.
Ở Việt Nam theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,
các tranh chấp về kinh doanh, thương mại trong đó có tranh chấp về
HĐTD sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo thủ tục tố tụng dân
sự. Ngoài ra, theo Pháp lệnh trọng tài thương mại, nếu HĐTD có thỏa
thuận của các bên về việc lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương
mại thì tranh chấp này sẽ được giả quyết tại trọng tài thương mại theo thủ
tục tố tụng trọng tài.
5.Các loại HĐTD thông dụng giữa TCTD với khách hàng
a. HĐTD có bảo đảm bằng tài sản
Trong HĐTD có bảo đảm luôn tồn tại những điều khoản về bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Các điều khoản này có thể ghi ngay trong HĐTD
hoặc tác biệt thành hợp đồng riêng đính kèm theo HĐTD. Thực tiễn cho
thấy giải pháp lý kết hợp đồng bảo đảm tách biệt với HĐTD vẫn thường
được các bên lựa chọn vì những ưu điểm vốn có của nó trong việc đảm bảo
an toàn pháp lí cho cả hai bên tham gia HĐTD.
Thứ hai, TCTD cho vay luôn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ cho mình, bất luận tài sản bảo đảm nằm ở đâu và trong
sự quản lí của ai. Với tư cách là chủ nợ có bảo đảm, TCTD cho vay có
quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản bảo đảm trước các chủ nợ
có bảo đảm đăng kí sau hoặc trước chủ nợ không được đảm bảo bằng tài
sản đó.
+ Thủ tục kí kết và thực hiện HĐ phức tạp hơn HĐTD ko có bảo
đảm bằng tài sản, vì các bên phải thỏa thuận thêm về điều khoản bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ tiền vay, ngoài những điều khoản thông thường khác của
HĐTD. Quy định này của pháp luật là đương nhiên vì trong HĐTD có bảo
đảm tài sản, các bên phải thỏa thuận thêm về điều khoản bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ tiền vay. Thực tế cho thấy việc ký kết hợp đồng bảo đảm càng chặt
chẽ
•
Ký kết HĐTD có bảo đảm bằng tài sản
Để phòng ngừa các rủi ro, cần quan tâm đến các vấn đề sau:
+ Cần lựa chọn hình thức bảo đảm nghĩa vụ dân sự phù hợp với nhu
cầu, hoàn cảnh và lợi ích của các bên.
+ Cần đảm bảo giá trị pháp lý cho giao dịch bảo đảm đã được các
bên xác lập, bằng cách tuân thủ đúng và đầy đủ các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch bảo đảm.
+ Cần quan tâm đến mối quan hệ về hiệu lực pháp lý giữa giao dịch
bảo đảm và HĐTD, vì mqh này đã từng chứng minh là có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc xác định và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia HĐTD có
bảo đảm.
Dựa vào những quy định trên của pháp luật về cho vay có tài sản bảo đảm,
ta có thể thấy rằng:
Các biện pháp bảo đảm tiền vay tạo thêm cơ hội cho tổ chức tín dụng để
thu nợ, đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Như đã phân
tích ở trên, nguồn thu nợ chính của ngân hàng không phải ở tài sản bảo
đẩm mà phải nằm ở chính dự án sử dụng vốn được triển khai trên thực tế
và thu lợi nhuận. Tuy nhiên khi những nguồn thu nợ hợp pháp trên không
có hoặc không đủ thì tài sản bảo đảm là nguồn thu nợ hết sức quan trọng.
Nếu pháp luật có thể tạo ra một cơ chế hữu hiệu giúp cho việc chuyển
những tài sản bảo đảm thành giá trị một cách nhanh chóng thì việc thu nợ
từ tài sản bảo đảm của tổ chức tài chính sẽ thực sự hiệu quả, tránh đọng
vốn cho TCTD và đồng thời tránh cho bên vay chịu lãi suất quá hạn không
cần thiết trong thời gian chờ xử lý tài sản bảo đảm.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay còn giúp tổ chức tín dụng mở rộng tín
dụng với những nhóm khách hàng còn nhiều rủi ro. Thông thường, trong
quá trình thẩm định cho vay, TCTD phải xem xét kĩ càng những rủi ro của
người đi vay. Nếu các rủi ro này được khẳng định và khó có biện pháp
phòng ngừa trên thực tế thì các ngân hàng phải từ chối cho vay. Tuy nhiên,
nếu bên vay có tài sản bảo đảm phù hợp, đảm bảo tính pháp lý chặt chẽ thì
TCTD có thể xem xét cho vay trên cơ sở có TSBĐ. Nếu mở rộng tín dụng
ăn toàn và hiệu quả dựa trên những quy định này của pháp luật sẽ mang lại
nhiều lợi nhuận cho TCTD, trong khi đó vẫn đảm bảo được như cầu vay
vốn của bên vay. Do đó, ý nghĩa thực tế của việc bảo đảm tiền vay là vô
cùng to lớn.
b. HĐTD không có bảo đảm bằng tài sản
Chế độ cho vay ko có bảo đảm bằng tài sản gồm những nội dung
chủ yếu sau:
•
Những quy định về điều kiện vay vốn :
•
Pháp luật của các nước đều quy định rằng TCTD chỉ được cho vay
đối với những khách hàng có đủ năng lực chủ thể, nghĩa là có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi.
Uy tín của người vay cũng là một điều kiện để được vay vốn và là
•
điều kiện quan trọng nhất đối với một chủ thể là bên vay trong quan hệ tín
dụng ko có bảo đảm.
Người vay phải có tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng trả
•
nợ.
Những quy định về ký kết và thực hiện HĐ vay ko có bảo đảm.
•
Đối với loại HĐ này thủ tục đơn giản hơn nhiều so với thủ tục giao
kết và thực hiện một HĐTD có bảo đảm.
•
Trong trường hợp bên vay ko thanh toán được các khoản nợ đến hạn
và quá hạn, nếu ko thương lượng và hòa giải được thì các TCTD có thể
khởi kiện tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo quy định của pl.
•
Nếu DN bị giải thể hoặc lầm vào tình trạng phá sản thì TCTD với tư
cách là chủ nợ ko có bảo đảm có quyền gửi đơn đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để yêu cầu giải quyết việc thanh toán nợ trên số tài sản còn lại
của DN vay nợ.
Như vậy rõ ràng là khi cho vay không có tài sản bảo đảm, TCTD có
nguy cơ chịu rủi ro cao, và thường trên thực tế việc hco vay không
có tài sản bảo đảm là không nhiều và phải dựa trên sự tin tưởng
tuyệt đối và những điều kiện khắt khe đi kèm.
III.Thực tiễn áp dụng hoạt động cho vay của TCTD:
1.Chưa có cơ chế mạnh mẽ để bảo vệ quyền của người nhận tài
sản bảo đảm khi người có tài sản không thiện chí hợp tác:
Hiện tại có rất nhiều văn bản pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm,
theo đó việc TCTD được quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm
đã được quy định khá cụ thể, chi tiết. Song việc thực hiện các
quyền của TCTD trong việc xử lý tài sản bảo đảm chưa được
thực thi trên thực tế. Pháp luật vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu
để buộc bên vay vốn chuyển giao tài sản cho TCTD xử lý khi bên
vay vốn không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Mặc dù Thông tư
03 hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay có quy định việc các
cơ quan nhà nước hỗ trợ TCTD buộc bên có tài sản bảo đảm
chuyển giao để xử lý song lại quy định sự phối hợp của nhiều
nhành khác nhau nên việc xử lý tài sản bảo đảm là rất khó khăn
và rườm rà nhiều công đoạn.
Trường hợp sau được dẫn chứng như một ví dụ cho những rủi ro
của TCTD khi xử lý tài sản bảo đảm:
Ngày 10/ 12/ 1997, Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh Cà Mau
và công ty Tân Phú ký kết hợp đồng thế chấp và cầm cố tài sản.
Tài sản thế chấp là 20.000 mét vuông đất tại phương 6 thành phố
Cà Mau và hai bên đã đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong trường
hợp bên vay là công ty Tân Phú không trả được số nợ 6 tỷ đồng,
ngân hàng ngoại thương có toàn quyền phát mại tài sản bảo đảm
là 20.000 mét vuông đất kể trên. Đến hạn phải trả nợ, công ty
Tân Phú không trả được nợ nên ngân hàng Ngoại thương đang
trong quá trình làm thủ tục để phát mại tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên trong thời điểm đó, ngày 20/2/2003, chủ tịch UBND
tỉnh Cà Mau ra quyết định chuyển giao toàn bộ tài sản trên đất
của công ty Tân Phú cho một doanh nghiệp khác cũng của địa
phương. Quyền sử dụng đất đã được thu hồi lại để giao cho
doanh nghiệp khác cho thuê mà không có đền bù. Như vậy Ngân
hàng Ngoại thương đã hoàn toàn mất đi quyền thu nợ từ tài sản
bảo đảm vốn lẽ ra phải được hưởng theo quy định của pháp luật.
2.Cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm chưa nhất quán, đồng bộ do
vậy chưa phát huy hiệu quả.
Ưu điểm của giao dịch bảo đảm chưa phát huy được hiệu quả do
các quy định về đăng ký cầm cố, thế chấp còn nhiều hạn chế:
- Việc đăng kí tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật nên khó áp
-
dụng thống nhất.
Việc đăng ký thuộc thẩm quyền nhiều cơ quan khác nhau với
trình tự thủ tục không thống nhất nên đã hạn chế việc cập nhật
thông tin cho bên thứ ba, mang nguy cơ rủi ro rất cao cho các
-
bên.
Các cơ quan đăng ký quốc gia về giao dịch bao đảm chưa
triển khai đồng bộ ở các địa phương trong khi quy định của
pháp luật về giao dịch bảo đảm bắt buộc phải thực hiện đăng
ký với một số giao dịch bảo đảm đã có hiệu lực. Điều này gây
khó khăn không nhỏ cho các bên trong quan hệ bảo đảm khi
ký kết hợp đồng bảo đảm.
Những điểm mạnh cũng như điểm còn hạn chế của pháp luật điều
chỉnh hoạt động cho vay của TCTD có ý nghĩa lý luận to lớn
trong việc xây dựng một hệ thống các quy phạm pháp luật chặt
chẽ và hợp lý hơn nữa và mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn
áp dụng. Khắc phục được những hạn chế này là đòi hỏi bức thiết
cho sự phát triển của các TCTD nói riêng và lĩnh vực tài chính
ngân hàng nói chung.