Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SỞ HỮU TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.38 KB, 16 trang )

A, LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN
I, KHÁI NIỆM SỞ HỮU
Sở hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những
thành quả lao động và những tư liệu sản xuất của xã hội loài người. Sở hữu là
một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan xuất hiện và phát triển song
song cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. tuy nhiên vào
thời kì bình minh của lịch sử xã hội loài người “ chưa có sự phân biệt rõ rệt
về khái niệm “ sở hữu” đối với tư liệu sản xuất và sức lao động.” Mặt khác,
con người muốn tồn tại phải thông qua các mối quan hệ xã hội. Mối quan hệ
giữa con người với con người trong quá trình chiếm hữu và sản xuất ra của
cải vật chất trong xã hội, là quan hệ sở hữu. Trên cơ sở phân tích các hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác đã chỉ ra rằng, bất cứ nền sản xuất nào cũng là việc
con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình
thái xã hội nhất định. Vì vậy, sở hữu là một phạm trù kinh tế.
Tùy thuộc vào bản chất của mỗi chế độ sẽ tồn tại những hình thức sở
hữu và những quan hệ sở hữu thích hợp, tương ứng với chế dộ đó.
Ví dụ : Trong thời kì xã hội nguyên thủy, con người sống trong những
tập thể, bộ lạc và con người chia sẻ với nhau tất cả những sản vật của tự
nhiên, sản phẩm của cây trồng và chăn nuôi. Vì vậy sở hữu trong thời kì này
là sở hữu công cộng. Tất cả mọi người cùng nhau sở hữu tài sản.
Qua quá trình lao động sản xuất, công cụ được cải tiến, trình dộ sản
xuất được nâng cao. Sản phẩm của nông nghiệp ngày càng nhiều. trong xã hội
có sự phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt trong xã
hội. Nhà nước ra đời. Giai cấp thống trị nắm giữ trong tay tư liệu sản xuất. Họ
có quyền quyết định vận mệnh của số đông người lao động; tổ chức sản xuất
và phân phối các lợi ích vật chất trong xã hội theo ý chí của mình, làm cho
các giai cấp khác phải phụ thuộc và giai cấp mình.
1


Trong lịch sử phát triền của nhân loại, các chế độ sở hữu đã lần lượt


thay thế nhau: từ chế độ công hữu nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa. Lịch sử phát triển của nhân loại cũng cho thấy, không có một chế
độ sở hữu nào là thuần nhất một hình thức sở hữu, mà nó là sự đan xen nhiều
loại hình, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong đó có một loại
hình sở hữu đóng vai trò chi phối, quy định bản chất của chế độ sở hữu trong
từng giai đoạn lịch sử. Xu hướng phát triển của nhân loại không phải đi đến
chỗ đơn nhất hoá mà ngược lại, ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Nếu như trong xã hội nguyên thuỷ chỉ mới có công hữu nguyên thuỷ thì ngày
nay, trong các nước đều đan xen rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Xu
hướng phát triển đó là tất yếu, phù hợp với quá trình xã hôi hoá của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất có tính xã hội đòi hỏi quan hệ sản xuất cung
phải có tính xã hội. Tính xã hội ở đây thể hiện trong tính đa dạng của nó,
chính tính đa dạng đó mới tạo ra sự kết hợp tối ưu các yếu tố của lực lượng
sản xuất.
II, SỞ HỮU TƯ NHÂN.
a. Khái niệm sở hữu tư nhân.
Sở hữu tư nhân là sở hữu của từng cá nhân công dân về tư liệu sinh
hoạt, tiêu dùng và nững tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất
và tinh thần của công dân.
Sở hữu tư nhân bắt nguồn từ cuối xã hội cộng sản nguyên thủy, đâu xã
hội chiếm hữu nô lệ. Bắt đầu từ đó, sở hữu tư nhân tồn tại phát triển song
song với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, ở nước ta cũng như nhiều nước
trên thế giới, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, không phải sở
hữu tư nhân lúc nào cũng được đối xử công bằng.
2


Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Tây Âu đã

khởi động quá trình tư hữu hóa. Vào thời điểm này, khu vực kinh tế nhà nước
hoạt động đã giảm hiệu quả. Các xí nghiệp nhà nước có tiếng là “thành trì cổ
xưa”, là “những con voi một ngà nặng cân và khan hiếm” cũng bị đình trệ về
mặt sản xuất do tập trung hóa cao độ và tệ nạn quan liêu. Tất cả điều này dù
muốn hay không cũng đã phá vỡ các quy luật thị trường và kìm hãm tinh thần
chủ động kinh doanh của các tập thể và cá nhân.
Bắt đầu từ chính phủ bảo thủ của M. Thatchez ở Anh và sau đó là các
chính phủ Pháp, Bỉ, Italia, Tây Đức, Hà Lan cũng như các chính phủ do
những người xã hội dân chủ lãnh đạo ở Tây Ban Nha, Áo và Thụy Điển đã
tuyên bố bắt tay vào tư hữu hóa một phần khu vực kinh tế nhà nước. Ở các
quốc gia Đông Âu và SNG, vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
cũng diễn ra quá trình cùng một ý nghĩa có tên gọi là phi nhà nước hóa và tư
nhân hóa với tất cả tính phức tạp của chúng.
Như vậy, những gì diễn ra ở Tây Âu vào những năm 70, 80 và ở Đông
Âu cùng các nước SNG vào những năm 90 của thế kỷ XX, tất cả cũng trong
khuôn khổ tái lập lại sự cảm nhận “ý thức về người chủ, người sở hữu” hay
nói cách khác đi là nhận thức lại sở hữu tư nhân và vận dụng kinh tế tư nhân
một cách hợp lý nhằm tạo động lực cho nền kinh tế. Một lần nữa lịch sử nhắc
nhở chúng ta rằng loại hình kinh tế mà ở đó lợi nhuận sau khi trừ đi thuế hoàn
toàn thuộc quyền chi phối của người chủ đầu tư là loại hình có động lực kinh
doanh mạnh mẽ nhất.
Trong những năm gần đây, cụ thể là từ những năm cuối thập kỷ
80, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện chính sách đổi mới trong mọi phuong
diện của đời sống xã hội. Nhất là từ những năm 90 Đảng và Nhà nước đã chủ
trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa :” Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, đươc bảo hộ
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp đan
3



kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp,
không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh
tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.” ( Văn kiện đại hội VII, phần II :
Về những định hướng lớn trong chính sách kinh tế). Từ sự định hướng trên
nên Điều 21 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận :” Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được tành lập doanh
nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi
cho quốc kế dân sinh”.
b, Chủ thể của sở hữu tư nhân.
Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân công dân. Nếu một tài sản
hoặc một tập hợp tài sản thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người thì chủ
sở hữu là từng người trong số họ; họ được gọi là đồng chủ sở hữu.
Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa trưởng thành, có hay không
có năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ đều có
“ Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản” thuộc
quyền sở hữu của mình. ( Khoản 2 Điều 15 BLDS).
Trong trường hợp công dân không có năng lực hành vi dân sự hoặc có
năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, khi thực hiện quyền sở hữu phải thông
qua hành vi của người giám hộ theo quy định từ Điêu 59 đến Điều 73 BLDS
khi định đoạt tài sản như bán, cho, trao đổi… phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật.
Như vậy muốn trở thành chủ thể của sở hữu tư nhân được toàn quyền
mình hành xử những quyền năng của chủ sở hữu phải có những điều kiện
nhất định theo quy định của pháp luật hiện hành.
c. Khách thể của sở hữu tư nhân.
Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của
cá nhân công dân. Tài sản đó có thể là những tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu
dùng.


4


Phạm vi khách thể sở hữu tư nhân của cá nhân, tiểu chủ, tư bản tư nhân
được xác định cụ thể tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 :” Công dân có quyền
sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành nhà ở, tư liệu sản sinh hoạt, tư
liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc các tổ chuacws
kinh tế khác”., không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành
nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, tài sản hợp pháp không bị hạn chế về số
lượng, giá trị. Tuy nhiên, cá nhân không được sở hữu đối với các tài sản
không thể thuộc sở hữu tư nhân. Đó là các tài sản được quy định tại Điều 212
BLDS.
d. Nội dung sở hữu tư nhân.
Nội dung quyền sở hữu của cá nhân công dân được thể hiện trong việc
làm chủ, chi phối tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản. Các quyền này được quy định rất rõ tại Điều 28 Hiến pháp
và Điều 165 BLDS.

B, SỞ HỮU TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
HIỆN NAY.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng và Chính phủ ta đã có đường lối và
nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân. Các đường lối chủ
trương chính sách đã được từng bước luật pháp hóa và cụ thể hóa, đã tạo ra
môi trường pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi cho các khu vực kinh tế
phát triển, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nhìn lại thời gian qua, kinh tế
tư nhân đã phát triển rất rực rỡ và có những đóng góp tích cực vào tiến trình
phát triển chung của đất nước.
I THỰC TRẠNG VÀ SỐ LIỆU VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.


5


Trước hết nói về hộ kinh doanh cá thể, loại hình này đã được phát triển rộng
khắp qua nhiều năm, tính đến năm 2000, cả nước có 9.793.878(1) hộ kinh
doanh cá thể, trong đó có 7.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã,
2.137.713 hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Trong số hộ kinh doanh cá thể thì
số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm 51,89%, số hộ sản xuất nông
nghiệp chiếm 30,21%, giao thông vận tải chiếm 11,63%, xây dựng 0,81%, các
hoạt động khác chiếm 5,46%.
Luật doanh nghiệp đã mang lại xung lực mới cho nền kinh tế. Khi luật này
được thực hiện, số lượng các doanh nghiệp tư nhân đã tăng rất nhanh.
Nếu năm 1991 có 132 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, thì năm 2001 cả
nước đã có 66.780 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Trong đó doanh nghiệp
tư nhân chiếm 58,75%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty
cổ phần chiếm 2,55%, công ty hợp doanh chiếm 0,01%.
Trong cái nhìn nghiêm túc của nhiều người thì đây thực sự là một bước phát
triển rực rỡ. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, Hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: “Hơn 10 năm
qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự
đồng tình và hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể và loại hình doanh nghiệp tư nhân đã phát triển rộng khắp trong
cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực
xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân
dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội
của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế
tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao
động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số

6


lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ
trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…”.
Lượng hóa vấn đề trên, ta thấy kinh tế tư nhân có những đóng góp tích cực
sau đây:
- Thứ nhất, đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là
tạo thêm được nhiều việc làm, góp phần quan trọng thu hút nhiều lao đ0ộng
trong xã hội, nhất là những người đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải
quyết số lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm
biên chế hay giải thể.
Năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân với gần 10 triệu hộ kinh doanh cá thể và
khoảng 40 ngàn doanh nghiệp đã tạo công việc làm cho trên 21 triệu người,
chiếm trên 56% lao động có việc làm trong cả nước.
- Thứ hai, huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản
xuất kinh doanh.
Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn đầu
tư phát triển của toàn xã hội. Vốn sử dụng, vốn đầu tư phát triển và vốn đăng
ký kinh doanh đều tăng. Năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
tư nhân tăng rất nhanh, đạt gần 14.000 tỷ đồng, gấp 4,5 lần so với năm 1996.
Kinh tế tư nhân đã đầu tư mua hơn 20% cổ phần của các doanh nghiệp nhà
nước khi cổ phần hóa. Trong các ngành phi nông nghiệp, năm 2000, kinh tế
tư nhân có tổng số vốn sử dụng gần 174.000 tỷ đồng, tăng gần 38,5% so với
năm 1999. Vốn đầu tư phát triển trong thời gian này của kinh tế tư nhân cũng
tăng nhanh và đạt mức gần 18.000 tỷ, tăng 16,5% so với năm 1999. Trong
ngành nông nghiệp, năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp
tư nhân đạt 1.036 tỷ đồng; vốn sản xuất kinh doanh của các trang trại đạt gần

7



5.250 tỷ đồng; vốn đầu tư phát triển của hộ đạt gần 17.640 tỷ đồng, tăng 11%
so với năm 1999.
- Thứ ba, đóng góp vào GDP với tỷ trọng khá lớn và ổn định.
Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn
vào sự ổn định trong GDP. Năm 2000, kinh tế tư nhân đạt gần 187.720 tỷ
đồng, chiếm hơn 42% GDP toàn quốc (khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm
39%). Nếu xem xét cụ thể, riêng hộ kinh doanh đóng góp trên 154.560 tỷ
đồng, chiếm gần 82,35%; doanh nghiệp đóng góp trên 33.150 tỷ đồng, chiếm
trên 17,60% GDP của kinh tế tư nhân.
- Thứ tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu,
thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần mở mang nhiều ngành
nghề và lưu thông hàng hóa, sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng vùng và trong cả nước. Một số sản
phẩm đã góp phần chặn đứng và đẩy lùi được sự xâm nhập của hàng ngoại
nhập. Kim ngạch xuất – nhập khẩu trực tiếp của kinh tế tư nhân ở khu vực phi
nông nghiệp tăng khá nhanh, năm 2001 nhập khẩu đạt trên 3,30 tỷ USD, xuất
khẩu đạt trên 2,85 tỷ USD. Đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh
hoạt động tốt, tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, sản phẩm hàng
hóa được người tiêu dùng tín nhiệm. Số lượng công nhân lao động trong lĩnh
vực phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân tăng lên nhanh. Năm 2000, số lao
động làm việc trong công nghiệp trên 2,1 triệu người, chiếm gần 45,70% lao
động trong khu vực phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân, tăng trên 18,70% so
với năm 1999. Đây là mức tăng khá cao.
Những con số trên nói lên một điều: nền kinh tế Việt Nam sẽ không phát triển
nếu vắng bóng kinh tế tư nhân và nó cũng khẳng định chủ trương phát triển
8



nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương của “ý Đảng, lòng
Dân”.
II. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC.
Bên cạnh những đóng góp tích cực cho sự phát triển, kinh tế tư nhân
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém, khó khăn.
- Phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, ít đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất.
Trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp, số doanh nghiệp có dưới 200 lao
động chiếm trên 97,70%. Số doanh nghiệp có vốn thực tế sử dụng dưới 10 tỷ
đồng chiếm trên 94,90%; bình quân vốn thực tế sử dụng của một doanh
nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Ở các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, quy mô
còn nhỏ hơn. Năm 2000 số lao động trung bình của một doanh nghiệp là 12,7
người; số vốn đăng ký là 248 triệu đồng. Trình độ quản lý của chủ doanh
nghiệp và tay nghề của người lao động còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo,
hiểu biết về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn ít,
khả năng tiếp thị trong và ngoài nước còn hạn chế.
Về công nghệ, nhìn tổng thể, máy móc thiết bị và công nghệ của kinh tế tư
nhân phần lớn còn lạc hậu, chắp vá, chậm đổi mới; nhiều doanh nghiệp thành
lập mới nhưng sử dụng công nghệ thải loại từ doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2000, qua đánh giá hiệu quả của 3.181 doanh nghiệp của tư nhân tại 10
địa phương có 14,6% doanh nghiệp bị lỗ, khoảng 20% doanh nghiệp có lãi
nhưng rất ít và được coi như hòa vốn, còn khoảng 75% doanh nghiệp có lãi.
Phần đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp tư nhân nói riêng còn rất nhỏ bé. Tính đến cuối năm 2001 có 53 dự án
với tổng vốn đăng ký là 33,6 triệu USD, nhưng vốn đầu tư thực hiện mới đạt

9



4,94 triệu USD, trong đó phần đầu tư của tư nhân chiếm khoảng gần một
phần tư.
- Kinh tế tư nhân cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc về vốn, về mặt bằng
sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội.
Hiện nay, bình quân vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh của một hộ nông
nghiệp mới chỉ đạt gần 29,80 triệu đồng, của một trang trại là 94 triệu đồng,
vốn đầu tư cho phát triển của một hộ nông nghiệp khoảng 1,4 triệu đồng; của
một doanh nghiệp phi nông nghiệp bình quân dưới 1 tỷ đồng, của doanh
nghiệp nông nghiệp bình quân 248 triệu đồng. Kinh tế tư nhân vay vốn từ các
ngân hàng thương mại và vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tại Quỹ hỗ
trợ phát triển còn ít và chiếm tỷ trọng thấp (vay từ ngân hàng thương mại
khoảng 29% trong tổng doanh số cho vay, khoảng 8% trong tổng số cho vay
của Quỹ hỗ trợ phát triển).
Mặt bằng sản xuất kinh doanh đang là một trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh
tế tư nhân. Hầu hết các hộ kinh doanh phi nông nghiệp phải sử dụng nhà ở,
đất ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, gây
nên những khiếu kiện về môi trường và cũng khó mở rộng sản xuất kinh
doanh.
Môi trường pháp lý tuy đã thuận lợi hơn trước rất nhiều, song cũng còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định pháp luật và
chính sách của nhà nước, do một số quy định chưa đồng bộ, thiếu nhất quán
hay thay đổi. Nhiều cơ sở doanh nghiệp tư nhân còn chưa đủ sức nên gặp
nhiều khó khăn trong tiếp nhận thông tin về chính sách xuất nhập khẩu, về
tiếp thị trong nước và nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp còn bị một số cơ quan
nhà nước thanh tra, kiểm tra chồng chéo và kéo dài.

10


Môi trường tâm lý xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng nhìn chung,

quan niệm xã hội về kinh tế tư nhân vẫn chưa tương xứng với chủ trương đổi
mới của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện
tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo
hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc cho người lao
động. Cũng không ít đơn vị kinh tế tư nhân vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế,
gian lận thương mại, kinh doanh trái phép. Theo Bộ thương mại, từ năm 1999
đến giữa năm 2001, số vụ bị xử lý về buôn bán hàng cấm, hàng giả và vi
phạm giấy phép kinh doanh là 185.239 vụ, trong đó 25% là buôn bán hàng
cấm, hàng nhập lậu, 4% số vụ là sản xuất và buôn bán hàng giả, 50% số vụ là
kinh doanh trái phép và 21% là các vi phạm khác (mà phần đáng kể là kinh tế
tư nhân)….
III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ
SỞ HỮU TƯ NHÂN ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC
TA.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, để phát huy mạnh mẽ tiềm năng
to lớn của khu vực kinh tế tư nhân cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
với cái nhìn thẳng thắn đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách
nhằm phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có mấy vấn đề cơ bản sau đây:
* Một là, thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân.
Thực ra, quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân đã được ghi trong Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng, thế nhưng có một số vấn đề cụ thể cần được làm
rõ để tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và trong hành động. Đó là cần
thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân: Kinh tế tư
11


nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài nhằm góp phần nâng cao nội lực

của đất nước. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, khuyến khích, hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành
phần kinh tế. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích đất nước và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
* Hai là, tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển
của kinh tế tư nhân. Để có môi trường thuận lợi về thể chế, cần sửa đổi bổ
sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản
pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân theo
hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; tiếp tục tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc trong pháp luật và thủ tục hành chính; Quy định rõ
những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh
hoặc kinh doanh có điều kiện; Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân;
Sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng tạo thuận lợi nhưng phải chặt
chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu “một cửa, một dấu”.
Để tạo môi trường thuận lợi về tâm lý xã hội, cần làm tốt công tác phổ biến,
tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
việc phát triển kinh tế tư nhân. Cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh
nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực vào sự phát
triển kinh tế xã hội đất nước.
* Ba là, sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều
kiện để phát triển.
12


- Đối với chính sách đất đai, sửa đổi, bổ sung Luật đất đai theo hướng: những
diện tích đất của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng, đang được dùng làm

mặt bằng sản xuất kinh doanh do được chuyển nhượng một cách hợp pháp
hoặc được nhà nước giao và đã nộp tiền sử dụng đất thì được tiếp tục sử dụng
mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho nhà nước khi dùng đất này vào sản
xuất kinh doanh.
Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng
cần thiết, cho các doanh nghiệp thuê với giá cả phù hợp làm mặt bằng sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất
để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp
trong và ngoài nước.
Đẩy nhanh tiến trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
nhà ở cho nhân dân.
- Đối với chính sách tài chính, tín dụng. Thực hiện chính sách tài chính, tín
dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; bảo
đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của nhà nước cho
kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư vào các mục tiêu mà nhà
nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng như giao
thông, điện, nước, thông tin liên lạc…, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư
nhân phát triển.
Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó có kinh tế tư nhân, Nhà nước sớm
ban hành những quy định về chế tài, sớm triển khai hoạt động các quỹ bảo
lãnh tín dụng, sớm sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán. Tiếp tục đổi mới chế độ
kê khai và nộp thuế cho phù hợp với đặc điểm của các hộ kinh doanh, chống
thất thu thuế. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động kinh tế tư nhân,
khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ với sự hỗ trợ của
Nhà nước. Ban hành quy định và đăng ký sở hữu tài sản, tạo cơ sở pháp lý
13


cho hoạt động kinh doanh. Kinh tế tư nhân được dùng tài sản hình thành từ
vốn vay để thế chấp ngân hàng.

- Đối với chính sách lao động tiền lương. Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng
quy định của Bộ luật lao động về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương,
thời gian làm việc, bảo đảm các điều kiện vệ sinh an toàn lao động; bổ sung
chế tài cần thiết để xử lý vi phạm.
Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động
trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân đều được tham gia.
Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người sử
dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ một phần của
nhà nước.
- Đối với chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ. Nhà nước trợ
giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật cho
chủ doanh nghiệp và người lao động. Phát triển các trung tâm dạy nghề của
nhà nước, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi; khuyến khích các tổ chức
và cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý, cán bộ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Xây dựng hệ thống thị
trường thông tin lao động.
Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh
và doanh nghiệp; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin,
thuê, mua trả góp các thiết bị để đổi mới công nghệ.
* Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước. Xác định rõ
chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân là: xây dựng và hoàn
thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị
sản xuất kinh doanh; xây dựng, quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý;
14


thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, quy định của nhà nước
tại doanh nghiệp, nắm cho được tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động
của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối
với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố từ khi thành lập,
quá trình hoạt động đến khi chấm dứt hoạt động kinh doanh.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp tư nhân
có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương
trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp, thông báo trước cho
doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận thanh tra,
kiểm tra của mình.
* Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng qua việc bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng thông qua luật pháp, chính sách đối với kinh tế tư nhân; xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp của
khu vực kinh tế tư nhân. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của
tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Thanh
niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát
triển kinh tế tư nhân

C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất
mới mẻ về lý luận và thực tiễn. Phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội theo đúng
nghĩa của nó, mà đó là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới.
15


Trong quá trình đó, phải từng bước xác lập chủ nghĩa xã hội, phải tạo ra
những điều kiện, những tiền đề để phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa
xã hội, tránh nguy cơ chệch hướng. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế
với mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường nhằm thực hiện "Dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

16



×