Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hợp đồng vay tiền và lãi suất trong hợp đồng vay tiền – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.46 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội
loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Nhất là trong một nền
kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay thì vay tiền trở thành một hình thức
rất phổ biến được lựa chọn để giải quyết những khó khăn, thiếu thốn tạm thời trong
cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy mà hợp đồng vay tiền trở
thành một vấn đề giành được nhiều sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều người, nhiều
doanh nghiệp, tổ chức…
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển
một cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Nhà nước đã
tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ
nông dân nghèo có thể phát triển được sản xuất, kinh doanh… Tuy nhiên, hiện nay
những quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và đặc biệt là hợp đồng vay
tiền và lãi suất có những bất cập nhất định và bộc lộ nhiều khiếm khuyết khi những
quy định này được áp dụng trong cuộc sống. Những hạn chế đó cộng với tình hình
phức tạp của nền kinh tế hiện nay là điều kiện để xảy ra rất nhiều tranh chấp.
Tiều luận sau xin được đề cập đến vấn đề Hợp đồng vay tiền và lãi suất
trong hợp đồng vay tiền – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn với mong muốn
góp một phần công sức nhỏ bé trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra
một số phương hướng nhằm hoàn thiện và phát triển pháp luật về hợp đồng vay
tiền và lãi suất trong hợp đồng vay tiền nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói
chung.

2


NỘI DUNG


1. Một số vấn đề lý luận về Hợp đồng vay tiền và Lãi suất trong
hợp đồng vay tiền
1.1. Hợp đồng vay tiền
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng vay tiền
Điều 471 Bộ Luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) định nghĩa về hợp đồng vay tài
sản: “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài
sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận
hoặc pháp luật đã quy định”.
Hợp đồng vay tiền là một loại hợp đồng vay tài sản, dựa trên định nghĩa về
Hợp đồng (Điều 388 BLDS 2005) và Hợp đồng vay tài sản (Điều 471 BLDS 2005)
có thể định nghĩa về hợp đồng vay tiền như sau: Hợp đồng vay tiền là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tiền cho bên vay; khi đến hạn trả bên
vay phải hoàn trả cho bên cho vay đúng số lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả
thuận hoặc pháp luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm

+ Thứ nhất, hợp đồng vay tiền là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với số
tiền vay, khi bên vay nhận tiền. Bên vay có toàn quyền đối với tiền vay trừ trường
hợp vay tiền có điều kiện sử dụng. Ví dụ: A thoả thuận với B không được sử dụng
khoản tiền mà A cho B vay để chi tiêu vào việc kinh doanh, chỉ được mua sắm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày…
+ Thứ hai, hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng song vụ, nghĩa là các
bên chủ thể trong hợp đồng (bên cho vay và bên vay) đều có nghĩa vụ đối với nhau
(theo Khoản 1 Điều 406 – BLDS 2005), hay nói cách khác mỗi bên chủ thể trong
hợp đồng vay tiền có lãi suất là người vừa có quyền vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong
nội dung của hợp đồng, quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ
bên kia và ngược lại. Tức là bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn,
bên vay có nghĩa vụ nhận tiền và phải trả cả gốc và lãi đúng thời hạn theo thoả
3



thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi các bên vi phạm nghĩa vụ nêu trên thì
sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự.
+ Thứ ba, hợp đồng vay tiền là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, vấn đề mà chúng ta đề cập tới là lãi suất
trong hợp đồng vay tiền nên hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có đền bù.
Các bên chủ thể sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia
một lợi ích tương ứng. Chúng ta biết rằng bản chất của các giao dịch dân sự mang
tính đền bù tương đương và đặc điểm cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân
sự là sự trao đổi ngang giá. Khi cho vay một khoản tiền nhất định thì trong một thời
hạn có thể do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định phải có một khoản
tiền phát sinh để đền bù cho sự đầu tư cho vay tiền của bên cho vay nhằm thoả mãn
nhu cầu của bên cho vay.
1.1.3. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng vay tiền là một khoản tiền nhất định. Thể hiện ba
chức năng cơ bản sau:
+

Phương tiện trao đổi: Trong hầu hết các giao dịch, tiền đóng vai trò

phương tiện trao đổi – thực chất là thực hiện giá trị của hàng hoá, có nghĩa là nó
được sử dụng mua bán, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Chức năng trao đổi của
tiền tệ khắc phục được những hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp, nhờ đó mà
tiết kiệm các chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm, chờ đợi tác nhân có khả
năng thoã mãn nhu cầu trao đổi.
+ Đơn vị tính toán giá trị: Các hàng hoá khi trao đổi với nhau cần có sự so
sánh để hình thành tỉ lệ trao đổi. Chức năng này của tiền tệ biểu hiện giá trị hàng
hoá thành tiền, nhờ đó mà các hàng hoá có thể so sánh với nhau về mặt lượng. Điều
này có tầm quan trọng rất lớn do tiết kiệm được các chi phí giao dịch bởi số lần

hình thành giá trung gian trong trao đổi trực tiếp.
+ Phương tiện tích luỹ giá trị: Chức năng này của tiền tệ giúp để tích luỹ sức
mua trong thời gian nhận thu nhập cho đến khi sử dụng chúng bởi thu nhập của con
người thường không được sử dụng ngay một lúc.
4


Tiền là đối tượng của hợp đồng vay có thể là Việt Nam đồng (VND) hay
ngoại tệ tuỳ theo sự thoả thuận của các bên hoặc pháp luật quy định. Đối tượng của
hợp đồng vay tiền được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay
có quyền định đoạt số tiền vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tiền, bên vay có
nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền đã vay. Có hợp đồng vay tiền không thoả thuận thời
hạn thì bên vay phải trả số tiền vay bất kỳ lúc nào khi có yêu cầu của bên cho vay.
1.1.4. Kỳ hạn
Hợp đồng vay tiền có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định hoặc không xác
định). Nếu hợp đồng vay tiền không thoả thuận về kỳ hạn thì hợp đồng vay tiền
được coi là không có kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện
hợp đồng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị tiền, bên
cho vay phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lí để thực hiện hợp đồng.
Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 447 BLDS
2005). Nếu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên vay có thể thực hiện hợp đồng bất cứ
lúc nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên
vay. Xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng vay tiền có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu khởi kiện yêu vầu giải
quyết tranh chấp về hợp đồng.
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả nợ được thì phải chịu
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
1.1.5. Hình thức
Hình thức của hợp đồng vay tiền có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình
thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp như số lượng tiền cho

vay không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho vay
bằng miệng nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh được là
mình đã cho vay một số tiền nhất định. Trong thực tế nếu hình thức của hợp đồng
bằng miệng có tranh chấp thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để
làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết hợp đồng vay tiền, các bên cần phải ký kết
hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.
5


1.1.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên
• Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay tiền không có kỳ hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên
vay trả lại tiền và lãi bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay một
thời hạn hợp lí. Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và bên vay không trả nợ là
vi phạm nghĩa vụ trả tiền.
Đối với hợp đồng vay tiền có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay
có quyền yêu cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền tương ứng với số tiền đã
vay cộng với một khoản lãi tính theo lãi suất thời hạn và theo thoả thuận. Nếu hợp
đồng cho vay tiền có áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay
không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó
hoặc bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ.
Bên cho vay có nghĩa vụ giao tiền đúng số lượng như thoả thuận cho bên
vay. Nếu bên cho vay có ý lừa dối bên vay mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải
bồi thường.
• Bên vay
Là người cần đến sự giúp đỡ vật chất của bên cho vay, do vậy khi hết thời
hạn của hợp đồng, bên vay phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình
phát sinh từ hợp đồng đã ký kết; phải trả đủ tiền gốc và tiền lãi theo thoả thuận
hoặc theo pháp luật quy định. Nếu hợp đồng cho vay không kỳ hạn, khi bên cho

vay yêu cầu trả nợ thì bên vay phải thực hiện hợp đồng trong thời gian thoả thuận.
Bên vay cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời gian nào. Thời điểm này được
coi là thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay tiền không kỳ hạn. Trường hợp các
bên có thoả thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng
tiền của bên vay có đúng mục đích như thoả thuận hay không. Nếu sử dụng tiền
không đúng mục đích như đã thoả thuận, bên cho vay có quyền huỷ hợp đồng
(Khoản 2 Điều 478 BLDS 2005).
1.1.7.

Họ, hụi, biêu, phường

Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là họ) là một loại giao dịch dân sự về tài
sản. Giao dịch này được nhân dân ta sử dụng từ lâu và nó đã trở thành tập quán.
6


Dưới hình thức góp vốn, lĩnh vốn theo phường, hội trên cơ sở thoả thuận của một
nhóm người về thời gian, số tiền, thể thức góp vốn, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của
các thành viên.
Nguyên tắc chung của chơi họ là nhiều người (nhà con) cùng tham gia một
dây họ bầu ra nhà cái (người thu tiền của các nhà con và chuyển cho người bốc
(bát) họ). Hàng tháng, mỗi nhà con phải góp một số tiền nhất định cho nhà cái. Lần
lượt theo thứ tự bốc thăm hoặc theo thoả thuận đến kỳ hạn bốc họ, một nhà con sẽ
nhận về số tiền từ nhà cái, số tiền này do các nhà con khác góp họ. Theo thứ tự bốc
họ, khi người cuối cùng bốc họ thì dây họ chấm dứt.
Bản chất truyền thống của góp họ là những người chơi họ tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau. Dưới hình thức góp họ, thành viên góp họ có được số vốn tập trung để có
điều kiện kinh doanh hoặc sử dụng vào những công việc cần chi tiêu lớn. Những
hình thức chơi họ có tính chất lành mạnh được Nhà nước khuyến khích. Ngược lại
Nhà nước cấm hình thức “chơi họ” để nhằm mục đích cho vay nặng lãi giữa nhà

cái với các nhà con, các hình thức chơi họ nhằm lừa đảo hoặc biến tướng của chơi
họ là đánh bạc… Những trường hợp này, tuỳ theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà bị
xử lí hành chính, chịu trách nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngày 27/11/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2006/NĐ-CP quy
định về hình thức họ, hụi, biêu, phường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của những
người tham gia họ. Theo nội dung Nghị định, Nhà nước nghiêm cấm việc tổ chức
họ để cho vay nặng lãi, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật
khác để chiếm đoạt tài sản của người khác. Nghị định nêu rõ, quyền và lợi ích hợp
pháp của những người tham gia họ là nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân. Có
hai hình thức họ là họ không lãi và họ có lãi, trong đó họ có lãi gồm họ đầu thảo và
họ hưởng hoa hồng. Chủ họ phải trả lãi đối với các phần họ giao chậm theo mức lãi
do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì áp
dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian
giao chậm tại thời điểm giao các phần họ. Trong trường hợp họ có lãi thì lãi suất
đối với phần họ được thực hiện theo quy định tại Điều 476 của BLDS 2005.
7


Trong trường hợp có tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ thì tranh chấp đó
được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải hoặc theo yêu cầu của một hoặc nhiều
người tham gia họ, tranh chấp đó được giải quyết tại Tòa án theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự.

1.2. Lãi suất trong Hợp đồng vay tiền
1.2.1. Định nghĩa lãi suất
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm
một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm
này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất.
Có thể định nghĩa về lãi suất như sau: Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ
lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian.

Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc
do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất số tiền vay và thời gian vay mà bên vay
phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và
thời gian vay.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay
tiền sẽ không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt
quá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho
vay tương ứng” (Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005). Như vậy, nếu các bên thoả thuận
về lãi suất gấp hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố thì
khi tranh chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án chấp nhận không vượt quá
“150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”.
1.2.2. Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh
thần của cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản:
Qua nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho
thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất
chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay
8


chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác
định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác
như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như
chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ
yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
+ Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh
do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi
suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay

gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không
tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
+ Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian
vay): Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do
đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có
thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
1.2.3. Phân loại lãi suất

Có nhiều tiêu chí để phân loại lãi suất, có thể là lãi suất do các bên thoả
thuận hoặc lãi suất do pháp luật quy định; có thể là lãi suất đúng hạn hay lãi suất
quá hạn… Dựa vào mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân loại lãi suất khác
nhau.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam Hợp đồng vay tiền và lãi
suất trong hợp đồng vay tiền – Thực tiễn áp dụng
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam
Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan
hệ pháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng kiểm
soát của pháp luật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật của nước
ta còn thiếu cụ thể, tính khả thi không cao. Vấn đề hợp đồng vay tiền và lãi suất
trong hợp đồng vay cũng rơi vào tình trạng này. Pháp luật không hề có một quy
định cụ thể nào về hợp đồng vay tiền mà chỉ là những quy định chung về hợp đồng
9


và hợp đồng vay tài sản. Trong BLDS 2005 chỉ quy định duy nhất một điều về lãi
suất một cách trực tiếp:
“Điều 476: Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”.
Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá
khái quát sẽ tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi và
lợi dụng nó để kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành mạnh.
Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “thoả thuận giữa các bên”
tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp đồng vay tiền
có lãi suất bằng cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho
vay tương ứng”. Nhưng khi không có chế tài áp dụng thì việc đưa ra các quy định
này cũng không mang lại kết quả như ý muốn, nếu có chế tài áp dụng đối với việc
quy định lãi suất cũng chỉ là chế tài hành chính, trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại một khoản tiền mà bên vay chứng minh được việc vay với lãi suất vượt
qua mức quy định của pháp luật của bên cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa,
nhu cầu đi vay của người vay thường trong những trường hợp cấp bách và cần
thiết, việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công
việc của người đi vay. Cần phải có những quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình
hình trên.
Việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều sẽ không mang lại hiệu quả:
+ Nếu quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế
mà còn ảnh hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ
khiến các doanh nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng tiền
bị đọng lại và không phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp vay tiền là
để đầu tư nhưng với mức lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có lãi nên các
10


doanh nghiệp không vay là đương nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền cũng có thể để
đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một công việc nào đó hay để đảm bảo cho

cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những người này không có khả năng trả
cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy nguồn tiền trong các Ngân
hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những không đem lại hiệu quả mà
còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá nhân… muốn vay.
+ Nếu quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối
tượng ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay
chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽ làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm sự
phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách quan,
lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt không phải
là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.
Như vậy, Nhà nước phải tính toán sao cho pháp luật có những quy định hợp
lý không làm giảm hiệu quả của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng
đến quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững
và lâu dài cho nền kinh tế.
Sau một vài năm tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam Việt Nam (sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Thì đến năm 2010, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.
Một trong những điểm mới mà Luật đưa ra là “Tổ chức tín dụng và khách
hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” (Khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ
chức tín dụng). Theo đó, mức lãi suất không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật
Dân sự nữa, vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của tổ chức tín dụng khác
về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Đặc biệt,
việc áp dụng trần lãi suất có thể làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
11



không phản ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó đã
vô hiệu hóa một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ…

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất
trong hợp đồng vay tiền
Hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển rất mạnh mẽ và có tầm quan trọng
lớn đối với nền kinh tế đất nước cho nên Nhà nước cũng đã có những biện pháp
quản lý chặt chẽ nhằm hạn chế thấp nhất xảy ra các tranh chấp. Có thể thấy hầu hết
các ngân hàng đều áp dụng đúng các quy định của pháp luật về lãi suất. Trong nhân
dân, các chủ thể cũng đã có nhận thức đúng đắn hơn quy định của pháp luật về lãi
suất. Thực trạng này chứng tỏ, hành lang pháp lý của nước ta đang dần hoàn thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên, các tranh chấp về lãi suất trong
hợp đồng vay tiền ngày càng có quy mô lớn và tinh vi hơn nhất là các hình thức
cho vay trong nhân dân nhưng không loại trừ các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng.
Lấy ví dụ như vào năm 2008, trong lúc các ngân hàng thương mại đồng
thuận thực hiện lãi suất huy động 11%/năm thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn (SCB) phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ phiếu, lãi suất huy động 12%/năm chưa
tính giá trị khuyến mãi. “Chỉ cần 10 triệu đồng, khách hàng có cơ hội trúng 2 kg
vàng SJC”. Đó là lời mời khá hấp dẫn của SCB khi tung ra sản phẩm: Kỳ phiếu ghi
danh bằng đồng Việt Nam có dự thưởng “Lãi suất cao – Trúng thưởng lớn”, kéo
dài từ 7/4 – 4/6/2008. Khách hàng được trả lãi trước ngay khi mua kỳ phiếu. Thêm
nữa: trong thời gian chờ nộp tiền khách hàng cũng được tính lãi suất và được tham
gia quay số dự thưởng với tổng trị giá khoảng 2 tỷ đồng. Lãi suất 1%/tháng, cộng
với khuyến mãi thì lãi suất huy động kỳ phiếu vượt 13%. SCB đã vi phạm công
điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/2/2008 của Ngân hàng Nhà nước khống chế ở mức
12%.
Vì tình hình hiện nay nay dù Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên mức lãi
suất cơ bản đồng Việt Nam là 8%/năm nhưng nhiều ngân hàng thương mại lại cho
vay tiêu dùng cá nhân với lãi suất quá cao, có ngân hàng nâng lên 26%/năm (bằng

371,4% so với lãi suất cơ bản); bên cạnh đó các điểm cầm đồ cũng nâng lãi suất
12


cho vay lên 60%/năm. Nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn về mặt tài chính tạm
thời buộc phải vay tiền ngân hàng với lãi suất “cắt cổ”, chỉ thua tín dụng đen, tiệm
cầm đồ chút ít. Thực trạng là như vậy, các cơ quan chức năng cần bắt tay ngay để
khắc phục tình hình này. Có thể áp dụng chế tài hành chính (phạt tiền, cảnh cáo, kỷ
luật…), trách nhiệm dân sự hoặc chế tài hình sự về tội cho vay nặng lãi.
Điều 163 Bộ luật Hình sự 1999 qui định:
“1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền
từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm
đến năm năm”.
Các tranh chấp xảy ra hiện nay về lãi suất trong các hợp đồng vay tiền đều
do những lí do khách quan và chủ quan nhất định nhưng chủ yếu là do lãi suất cho
vay cao, không phù hợp với pháp luật. Và hơn nữa các tranh chấp không chỉ xảy ra
đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng mà còn xảy ra rất phổ biến trong nhân
dân. Ví dụ:
“Ngày 4 tháng 1 năm 2009, cơ quan Cảnh sát điều Quận Hà Đông, Thành Phố
Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu Hưng
(sinh năm 1982) và Trịnh Lê Hoài Nam (sinh năm 1989), cùng có hộ khẩu thường
trú tại Quận Hà Đông về hành vi cho vay nặng lãi, xiết nợ và bắt giữ người trái
pháp luật.
Nguyễn Văn An và em trai là Nguyễn Văn Ninh, hộ khẩu thường trú tại Quận
Hà Đông, một tay chơi sành điệu thường xuyên chơi game online và lô đề. Để có
tiền tiêu sài, An và Ninh đã tìm đến những người quen và bạn bè để vay.

Vào khoảng tháng 4 năm 2008, tình cờ trong một lần giao lưu với bạn bè,
Nguyễn Văn An đã gặp Trịnh Lê Hoài Nam (sinh năm 1989) hộ khẩu thường trú tại
phường Nguyễn Trãi, Quận Hà Đông. Nam cho biết mình quen một ông chủ cho
vay lãi nhưng phải trả đúng hạn và trả lãi theo thoả thuận. Đang túng tiền, An đã
13


bảo Nam môi giới gặp ông chủ đó là ông Nguyễn Hữu Hưng (sinh năm 1982) hộ
khẩu thường trú tại phường Nguyễn Trãi, Quận Hà Đông. Sau khi vay tiền, Nguyễn
Văn An đã nướng hết vào lô, đề, cờ bạc, càng gỡ gạc càng thua. Không chỉ là chủ
nợ của Nguyễn Văn An, ngày 31/8/2008, Nguyễn Hữu Hưng cũn cho anh Hoàng
Văn Minh (sinh năm 1991) và anh Vu Văn Xuân (sinh năm 1991), cùng có hộ khẩu
thường trú tại phường Nguyễn Trãi, Quận Hà Đông vay tiền. Cũng như An, vì quá
cần tiền nên anh Minh và Xuân phải ký giấy biên nhận vay nợ với số tiền cao hơn
so với tiền mà Hưng cho vay và phải tuân theo các điều kiện hết sức phi lý. Các đối
tượng cho vay nặng lãi dùng nhiều thủ đoạn để ép con nợ và gia đình họ phải trả
nợ, dùng dao kiếm đe dọa, đánh đập con nợ, thậm chí bắt người trái pháp luật…
Sau khi thu thập đầy đủ các chứng cứ, sáng 16/12/2008, dưới sự chỉ đạo của
Thượng tá Nguyễn Quyết Thắng – Trưởng Công an Quận, các mũi trinh sát đã
đồng loạt bắt khẩn cấp 2 đối tượng: Nguyễn Hữu Hưng và Trịnh Lê Hoài Nam.
Trước cơ quan công an, với những chứng cứ không thể chối cãi, các đối tượng đã
nhận tội. Trong một thời gian ngắn các đối tượng đã cho nhiều thanh thiếu niên trên
địa bàn Quận Hà Đông vay gần 1 tỷ đồng với mức lãi suất “cắt cổ” và ép họ phải
viết giấy biên nhận vay nợ cao hơn số tiền đã cho vay. Đến kỳ hạn, các đối tượng
thúc ép con nợ phải trả tiền bằng được, nếu con nợ nào không trả chúng đe dọa,
đánh đập và bắt giữ con nợ buộc gia đình họ phải trả tiền để chuộc con. Như trường
hợp bố mẹ của Nguyễn Văn An và Nguyễn Văn Ninh đã phải bán đất lấy tiền trả
nợ cho con nhưng do lãi suất quá cao, nên vẫn không trả hết. Để thúc ép gia đình
trả tiền, các đối tượng đã bắt Ninh và dọa sẽ gây thương tích cho Ninh, buộc bố mẹ
Nguyễn Văn Ninh phải đi vay tiền để trả cho chúng”.

Các đối tượng trong vụ án trên không chỉ cho vay nặng lãi mà còn có những
hành vi vi phạm pháp luật khác. Việc “cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi
suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc
lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm” (Khoản 1 Điều 163 BLHS 1999), tức Nguyễn Hữu Hưng
và Trịnh Lê Hoài Nam phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này cho thấy pháp luật
Việt Nam đã nghiêm khắc trong việc xử lí các đối tượng cho vay nặng lãi.
14


Cũng có thể thấy trên thực tế có nhiều các tranh chấp chỉ ở mức độ trách
nhiệm dân sự. Ví dụ:
“Vụ án giữa Ông Nguyễn Văn Sự và Ông Lê Văn Hoàng thường trú tại huyện
Giồng Trôm, Tình Bến Tre. Vào ngày 2/3/2005 Ông Sự cùng vợ và Ông Hoàng kí
hợp đồng có ghi là “tờ giao ước” có nội dung Ông Hoàng cho Ông sự vay
700.000.000 đồng, thời hạn 3 năm, lãi suất 3%/tháng. Ông sự có thế chấp Quyền sử
dụng đất. Hai bên đến Uỷ ban nhân dân xã Giồng Trôm chứng thực. Ông Sự cho
rằng sau đó ông chỉ nhận được số tiền mà ông Hoàng cho vay là 280.000.000 đồng.
Ông Hoàng thì cho rằng: Ông đã đưa đủ 700.000.000 đồng cho Ông Sự, một lần là
280.000.000 đồng, một lần là 420.000.000 đồng. Tranh chấp về hợp đồng vay tiền
xảy ra. Về lãi suất 3%/tháng, mức lãi suất này là quá cao (tức 36%/năm) không phù
hợp với quy định về lãi suất của BLDS 1995 (thời gian này BLDS 2005 chưa có
hiệu lực)”.
Dù ở góc độ nào đi nữa các chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự đều nhận lấy những hậu quả bất
lợi cho chính mình, không những thế còn gây thiệt hại cho người khác, cho xã hội.
Bên cạnh việc cho vay thông thường, việc chơi họ, hụi, biêu, phường ngày
càng diễn ra phổ biến. Nhà nước và pháp luật rất khuyến khích hình thức này với
mục đích lành mạnh, nhưng thực trạng lại cho thấy đằng sau danh nghĩa tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân là các “lò hụi ma” với lãi suất rất cao. Các tranh

chấp về họ, hụi, biêu, phường cũng ngày càng gia tăng. Hình thức vi phạm ngày
càng tinh vi hơn nên việc dập tắt chơi họ, hụi, biêu, phường không lành mạnh rất
khó. Các hình thức này như cho vay nặng lãi, biến thái thành đánh bạc… Đáng lưu
ý hoạt động chơi họ, hụi, biêu, phường thường không có căn cứ để chứng minh nên
dẫn đến hậu quả nhiều người vô tội mất tiền, mất của, dốc hết tài sản để góp hụi…
nay khi vỡ hụi thì “trắng tay”. Đối với các tranh chấp xảy ra trước ngày
22/12/2006, chúng ta chưa có một văn bản pháp luật điều chỉnh một cách cụ thể, rõ
ràng nên trong quá trình điều tra, xác minh vụ việc còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến
tình trạng không đảm bảo đầy đủ lợi ích cho nhân dân. Khi có Nghị định
144/2006/NĐ-CP quy định về hình thức họ, hụi, biêu, phường; quyền, nghia vụ và
15


trách nhiệm của những người tham gia “họ” ra đời, tuy đã khắc phục được một
phần các tranh chấp nhưng trong chơi họ vẫn để tình trạng cho vay nặng lãi diễn ra
một cách công khai và tinh vi hơn.
Trước thực trạng nêu trên các cơ quan có thẩm quyền cần vào cuộc ngay để
không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng vay tiền mà
còn đảm bảo cho nền kinh tế đất nước phát triển bền vững. Hậu quả việc coi
thường pháp luật của những hành vi vi phạm cần được xử lý nghiêm minh. Nguyên
nhân tranh chấp điển hình đối với các hình thức vay họ, hụi, biêu, phường chủ yếu
không được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ và không có chứng cứ để chứng minh
giữa các chủ thể chơi họ, hụi, biêu, phường có hợp đồng vay.

3. Nhận xét và kiến nghị
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay
tiền, dựa vào thực trạng nêu trên, xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau đây:
+ Thứ nhất, trong Bộ luật dân sự cần có quy định rõ về khái niệm lãi suất và
các loại lãi suất:
Việc quy định của pháp luật còn bất cập ở chỗ vô tình đồng nhất lãi suất

đúng hạn và lãi suất quá hạn, cần có một sự điều chỉnh. Như đã biết lãi suất không
được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhưng khi
tính lãi suất quá hạn thì được tính như thế nào? Nếu vẫn áp dụng lãi suất quá hạn
nhỏ hơn hoặc bằng 150% lãi suất cơ bản thì chẳng khác nào khẳng định hai loại lãi
suất này không có gì khác nhau.
Do vậy, BLDS cần bổ sung khái niệm lãi suất và các loại lãi suất như sau:
- Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm
vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian.
- Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính
trên số tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
- Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên
cho vay tương ứng với thời gian chậm trả.
16


Để không gây mâu thuẫn trong các quy định, các văn bản quy phạm pháp
luật nhất thiết phải chỉ rõ:
- Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng;
- Lãi suất đúng hạn mà các Ngân hàng thương mại, các TCTD hoặc các hình
thức chơi họ, hụi, biêu, phường chọn không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản;
- Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất đúng hạn.
+ Thứ hai, về việc xử lí hậu quả của hợp đồng vay tiền vi phạm quy định về
lãi suất:
Đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất
vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố
hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên Toà án
sẽ áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ trong hợp
đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng cần phải cân
nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những trường hợp khác do
pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính Bộ luật dân sự.

+ Thứ ba, về vấn đề hụi, họ, biêu, phường:
Có thể thấy việc quy định lãi suất trong hợp đồng vay là rất cần thiết, nó
càng hiện thực hơn nữa trong nền kinh tế hiện nay khi trị giá của đồng tiền luôn có
những biến đổi không ngừng. Làm sao để quy định mức lãi suất có thể đem lại lợi
nhuận cho người cho vay nhưng cũng đem lại khả năng đầu tư có hiệu quả trong
việc vay lãi của người vay để họ có khả năng trả nợ, trả lãi và có thể đem lại lợi
nhuận.
Trên thực tế, không phải lúc nào các hợp đồng vay tiền cũng đảm bảo đầy đủ
các giá trị pháp lí. Hơn nữa các hình thức cho vay có thể biến thái thành các hình
thức tiêu cực. Trong nhân dân, các hình thức họ, hụi, biêu, phường diễn ra phổ biến
mang tích chất là giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt… là chính.
Tuy nhiên không phải lúc nào các hình thức cho vay này cũng lành mạnh nhất là
trong xã hội ngày nay, các tệ nạn xã hội diễn ra ngày càng phức tạp. Hơn nữa để
định nghĩa một cách rõ ràng thế nào là họ, là hụi, là biêu, là phường rất khó. Trên
thực tế có nhiều trường hợp chơi hụi với hình thức cho vay lãi cao: 200%, 300%…
17


thậm chí còn cao hơn thế nữa. Vì thế nhà nước cần quản lý hụi, không thể cứ không
quản được thì cấm, biến hụi trở thành cái gì đó xấu xa.
Thiết nghĩ, đối với các hình thức cho vay trong nhân dân: họ, hụi, biêu,
phường cần phải được kiểm soát sát sao. Các chủ họ, hụi, biêu, phường (nhà cái)
cần phải được đăng kí và được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền mới được
phép hoạt động. Làm như vậy để kiểm soát được sự hoạt động của các hình thức
này. Thông thường việc quy định lãi suất của các hình thức cho vay này rất khó
kiểm soát và hầu hết là trái với quy định tại Điều 476 BLDS 2005. Các hình thức
cho vay này thường quy định mức lãi suất rất cao, nếu như cho vay với mục đích
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và áp dụng mức lãi suất phù hợp với pháp luật thì Đảng
và Nhà nước ta rất khuyến khích, bởi trong tình hình hiện nay với sự khan hiếm của
đồng tiền các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đôi khi không xoay sở kịp cần phải

có những hình thức cho vay khác để đảm bảo được nhu cầu của người dân. Tuy
nhiên trên thực tế các nhà cái lại lợi dụng tình hình này để hoạt động cho vay nặng
lãi. Hơn nữa có một số các chủ hụi cũng huy động góp vốn với lãi suất cao rồi sau
đó ôm tiền bỏ chạy để những người góp vốn không biết tìm đâu để thấy tiền của
mình. Việc chơi họ, hụi, biêu, phường có thể coi là một hình thức kinh doanh vậy
nên việc đăng kí hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là rất cần thiết,
không chỉ giúp Nhà nước quản lý được các giao dịch dân sự mà còn đảm bảo
quyền lợi cho nhân dân.
+ Thứ tư, về chính sách lãi suất:
Có thể nói khi lãi suất của ngân hàng Nhà nước tăng cao hoặc việc cho vay
tiền của các cá nhân có quy định mức lãi suất quá cao sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư.
Nhu cầu đầu tư là lượng tiền được nắm giữ nhằm quản lý tài sản một cách linh hoạt
và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá lợi nhuận và an toàn. Việc đầu tư vừa
phải mang lại lợi nhuận, vừa phải an toàn. Với mức lãi suất cao, người đi vay khó
có khả năng cáng đáng được được cả gốc lẫn lãi. Hệ quả xảy ra là ít người, ít công
ty… vay hoặc vay nhiều để đầu tư có quy mô. Ngược lại, với lãi suất quá thấp,
người dân sẽ không gửi tiền và dẫn đến hoạt động của các Ngân hàng kém hiệu
quả, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, ban hành một chính
18


sách lãi suất phù hợp kích thích được các hoạt động cho vay tài sản nói chung và
vay tền nói riêng sẽ có tác động không nhot tới sự phát triển ổn định của kinh tế –
xã hội.
+ Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán
bộ ngân hàng nói riêng và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung:
Sự biến đổi của đồng tiền và sự khan hiếm của chính nó tại một số thời điểm
trong thời gian qua đã tạo cơ hội cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần
so với sự quy định của Nhà nước. Trên thực tế, các Ngân hàng có những lúc không
có đủ tiền để cho vay hay chỉ là đưa ra những lí do để tạo khó khăn cho người đi

vay? Chính phủ đưa ra các gói giải pháp để hỗ trợ cho những người nghèo nhưng
việc tiếp cận của các gói giải pháp này tới người dân còn rất khó khăn. Người dân
không chạm tới được những sự hỗ trợ của Nhà nước, may chăng được tiếp cận nó
nhưng cơ chế cho vay tiền của các Ngân hàng đặc biệt là các tổ chức tín dụng ở
vùng sâu, vùng xa đã gây khó khăn cho người đi vay. Từ những nguyên nhân trên,
những người có nhu cầu đi vay, để tránh “phiền phức”, họ không vay ở các Ngân
hàng hay các tổ chức tín dụng mà vay của những người “dư dật” của cải và có nhu
cầu cho vay để thoả mãn nhu cầu vật chất của chính mình, nhưng sự biến đổi bất
thường của giá trị đồng tiền và việc vay khó khăn tại các Ngân hàng khiến cho
những người cho vay đã cố tình nâng lãi suất. Một đòi hỏi bức thiết là Nhà nước
cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ cán bộ Ngân hàng và tăng cường kiểm soát các hợp đồng vay
tiền.
+ Thứ sáu, có thể sửa đổi Điều 474 và Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo 2
phương án:
- Phương án 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 474 và Điều 476 Bộ
Luật dân sự theo hướng Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, quy định này
không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng
hoạt động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng.
19


- Phương án 2: Chỉnh sửa Điều 474 và Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo hướng
quy định này không áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Với phương án này,
chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để sửa đổi luật. Trong tình hình kinh tế hiện nay
với một nền kinh tế đa dạng, năng động và nhiều thách thức, nếu chậm ngày nào sẽ
gây ách tắc và sự cứng nhắc trong hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được
những yêu cầu đa dạng của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn đang suy thoái do

cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu mang lại. Vậy nên điều chỉnh theo
phương án 1 là phương án tối ưu. Về lâu dài, để hợp lý hơn chúng ta có thể quy
định điều 476 không áp dụng đối với hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm giảm bớt
khó khăn cho các ngân hàng thương mại và đảm bảo phù hợp với chủ trương tự do
hoá lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu.
+ Thứ bảy, về vấn đề tranh cãi có nên nâng trần lãi suất?
Quy định của pháp luật hiện hành tại điều 476 BLDS 2005 nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội về vay, cho vay vốn và các giao dịch dân sự, nhằm ngăn chặn
cho vay nặng lãi, mang tính bóc lột không phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.
Trong bối cảnh lạm phát hiện nay, chúng ta cần tính đến các nhà sản xuất bởi khi
không có vốn họ đi vay nhưng vay với lãi cao không đủ sức trả nợ thì phá sản, lại
ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Tác giả cho rằng, tạm thời Nhà nước nên giữ
nguyên quy định của Điều 476 bởi việc thay đổi lãi suất cần phải cân đối giữa các
lợi ích nhằm chống cho vay nặng lãi, suy giảm kinh tế… và đặc biệt cần phải phù
hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Đồng thời kết hợp hài hoà với việc giải thích luật
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về vấn đề điều 476 BLDS 2005 không điều chỉnh
các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt động theo quy
định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Khi nền kinh tế
đi vào ổn định, lạm phát phi mã chấm dứt, kinh tế phát triển… chúng ta sẽ nghĩ đến
việc nâng trần lãi suất.

20


KẾT LUẬN
Với những ý nghĩa quan trọng, hình thức của hợp đồng vay tài sản nói chung
và hợp đồng vay tiền nói riêng đã trở thành một công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng (đặc biệt là hợp đồng dưới hình thức văn
bản). Do đó, cần tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân về ý
nghĩa thiết thực của hợp đồng và cho họ thấy rằng việc lập một hợp đồng vay tiền

bằng văn bản sẽ đảm bảo quyền lợi sát sườn cho chính mình. Đồng thời những
người tham gia giao dịch dân sự nói chung và tham gia kí kết hợp đồng nói riêng
cũng nên ý thức được điều này để góp phần làm giảm những vụ án tranh chấp về
hợp đồng vay tiền đặc biệt là lãi suất trong hợp đồng vay. Mặt khác, một đòi hỏi
bức thiết đặt ra là phải có quy định của pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay
tiền một cách cụ thể, rõ ràng. Bởi lãi suất có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh
tế và một quốc gia vững mạnh cần có một nền kinh tế phát triển bền vững, lâu dài.
Quan tâm hơn nữa đến lãi suất sẽ là cơ sở để kinh tế nước nhà phát triển.
Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay tiền không chỉ liên quan đến Luật Dân sự,
Luật Ngân hàng mà còn liên quan đến lĩnh vực tiền tệ nên khá phức tạp cộng với
rất nhiều bất cập của lãi suất. Do kiến thức hiểu biết còn hạn chế và cách trình bày
còn nhiều điểm chưa hợp lý nên bài làm không tránh khỏi những sai sót nhất định.
Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009
3. Trần Văn Biên, “Về chế định hợp đồng vay tài sản”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 9/2004
4. Bộ luật dân sự năm 2005
5. Bộ luật hình sự năm 1999
6. Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010
7. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
8. Nghị định 144/2006/NĐ-CP của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường

9.
10.
11.

22


PHỤ LỤC: Mẫu hợp đồng cho vay tiền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------HỢP ĐỒNG CHO VAY TIỀN
Hôm nay ngày …. tháng …. năm …..
Tại địa điểm: …………………………………………………………………………
(Nếu vay Ngân hàng và hợp tác xã tín dụng, thì có thêm yếu tố xét đơn xin của
đương sự).
Chúng tôi gồm có:
Bên A: (bên cho vay)
- Địa chỉ: ………………………………………………………………………..
- Điện thoại: ………………………..
- Đại diện là: ……………………………………………………………………
Bên B: (bên vay)
- Ông (bà): ……………………………………………………………………...
- Địa chỉ: ………………………………………………………………………..
- Điện thoại: ………………………..
Sau khi thỏa thuận cùng nhau ký hợp đồng vay tiền với các điều khoản sau:
Điều 1: Về số lượng tiền vay
Bên A đồng ý cho bên B vay số tiền:
- Bằng số: ………………………………………………………………………
- Bằng chữ: ……………………………………………………………………..
23



Điều 2: Thời hạn và phương thức vay
1. Thời hạn vay là ………… tháng
- Kể từ ngày … tháng … năm ….
- Đến ngày … tháng … năm ….
2. Phương thức vay (có thể chọn các phương thức sau):
- Chuyển khoản qua tài khoản: …………………………………………………
- Mở tại ngân hàng: …………………………………………………………….
- Cho vay bằng tiền mặt
Chuyển giao thành ……… đợt
+ Đợt 1: …………………………………………………………………………..
+ Đợt 2: …………………………………………………………………………..
Điều 3: Lãi suất
1- Bên B đồng ý vay số tiền trên với lãi suất ……….. % một tháng tính từ ngày
nhận tiền vay.
2- Tiền lãi được trả hàng tháng đúng vào ngày thứ 30 tính từ ngày vay, lãi trả
chậm bị phạt …….. % tháng.
3- Trước khi hợp đồng này đáo hạn ….. ngày; nếu bên B muốn tiếp tục gia hạn
phải được sự thỏa thuận trước tại địa điểm …………………………………...
4- Trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực không thay đổi mức lãi suất cho vay đã
thỏa thuận trong hợp đồng này.
5- Khi nợ đáo hạn, bên B không trả đủ vốn và lãi cho bên A, tổng số vốn và lãi
còn thiếu sẽ chuyển sang nợ quá hạn, và chịu lãi suất tính theo nợ quá hạn là
…… % một tháng.
6- Thời hạn thanh toán nợ quá không quá …. Ngày nếu không có sự thỏa thuận
nào khác của hai bên.
Điều 4: Biện pháp bảo đảm hợp đồng
1. Bên B bằng lòng thế chấp (hoặc cầm cố) tài sản thuộc sở hữu của mình là
…… và giao toàn bộ bản chính giấy chủ quyền tài sản cho bên A giữ (có thể

nhờ người khác có tài sản đưa giấy tờ sở hữu đến bảo lãnh cho bên B vay).
24


Việc đưa tài sản ra bảo đảm đã được hai bên lập biên bản đính kèm sau khi
có xác nhận của phòng Công chứng Nhà nước tỉnh (thành)…
2. Khi đáo hạn, bên B đã thanh toán tất cả vốn và lãi cho bên A, thì bên này sẽ
làm các thủ tục giải tỏa thế chấp (hoặc cầm cố, bảo lãnh) và trao lại bản
chính giấy chủ quyền tài sản đã đưa ra bảo đảm cho bên B.
3. Bên B thỏa thuận rằng, nếu không trả đúng thời hạn đã cam kết trong hợp
đồng này sau …. Ngày thì bên A có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền
phát mại tài sản đưa ra bảo đảm để thu hồi khoản nợ quá hạn từ bên B.
Điều 5: Trách nhiệm chi trả những phí tổn có liên quan đến hợp đồng.
Những chi phí có liên quan đến việc vay nợ như: tiền lưu kho tài sản bảo đảm,
phí bảo hiểm, lệ phí tố tụng, v.v… bên B có trách nhiệm thanh toán.
Điều 6: Những cam kết chung
1- Hai bên cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng này, nếu
những nội dung khác đã quy định trong pháp luật Nhà nước không ghi trong
hợp đồng này, hai bên cần tôn trọng chấp hành.
2- Nếu có tranh chấp xảy ra, hai bên sẽ giải quyết bằng thương lượng.
3- Nếu tự giải quyết không thỏa mãn, hai bên sẽ chuyển vụ việc tới Tòa án nhân
dân… nơi hai bên vay cư trú.
Điều 7: Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày … tháng … năm … đến ngày … tháng …
năm …
Hợp đồng này được lập thành … bản. Mỗi bên giữ … bản.
ĐẠI DIỆN BÊN A

ĐẠI DIỆN BÊN B


Chức vụ

Chức vụ

(Ký tên, đóng dấu)

(Ký tên, đóng dấu)

25


×