ĐỀ BÀI 13: Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lý nhằm thực thi
tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp
MỤC LỤC
A.
MỞ
ĐẦU
...................................................................................................................
B.
NỘI
DUNG
...................................................................................................................
I. Lý luận chung về thuế thu nhập doanh nghiệp
...................................................................................................................
1. Khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp
...................................................................................................................
2.
Vai
trò
của
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp
...................................................................................................................
II. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp về đối tượng nộp thuế
...................................................................................................................
1. Đối tượng nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
...................................................................................................................
2. Bình luận về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
...................................................................................................................
III. Ý kiến pháp lí nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp
...................................................................................................................
1.
Về
mức
thuế
suất
...................................................................................................................
2.
Về
chính
sách
ưu
đãi
thuế
...................................................................................................................
3. Quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác
định
thu
nhập
chịu
thuế
...................................................................................................................
4. Hỗ trợ động viên doanh nghiệp lớn, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
nhiều
...................................................................................................................
C.
KẾT
LUẬN
...................................................................................................................
DANH
MỤC
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
...................................................................................................................
A. MỞ ĐẦU
Thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của
thuế. Hiện nay ở các nước phát triển, thuế thu nhập doanh nghiệp đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách Nhà nước
và thực hiện phân phối thu nhập. Ở Việt Nam, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hnafh từ ngày
01/01/1999 thay cho thuế lợi tức. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội thông qua
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi để thay thế cho Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần
sửa đổi, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng trở nên có hiệu quả và thu
được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm
còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày 3/6/2008, Quốc hội
nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm
2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay đổi quan trọng về đối
tượng nộp thuế, cụ thể là đảm bảo thống nhất việc áp dụng thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các thành phần kinh tế
với nhau... Đây là chủ trương quan trọng của Nhà nước, tạo bước tiến quan
trọng trong lộ trình xây dựng luật thuế thu nhập doanh nghiệp thống nhất, hoàn
chỉnh.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp
Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập ở Việt Nam, thuế thu nhập được
phân chia thành hai loại: thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu
nhập của cơ sở kinh doanh trong kỳ tính thuế sau khi đã trừ đi các chi phí liên
quan đến thu nhập đó.
Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính pháp lý
cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế thu nhập doanh
nghiệp còn có một số đặc điểm riêng là:
- Do là loại thuế trực thu nên đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp là một, không có sự chuyển giao gánh nặng thuế từ người
nộp thuế sang người chịu thuế.
- Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh nên
mức thu của ngân sách nhà nước đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu
quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có
thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, doanh nghiệp có thu nhập thấp
hoặc gặp khó khăn sẽ được nộp thuế ít, thậm chí được giảm thuế, miễn thuế.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi
đã trừ đi các chi phí liên quan để tạo ra thu nhập đó.
- Về nguyên tắc, giống như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh
nghiệp có tính lũy tiến. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể mà Việt Nam áp
dụng thuế suất thống nhất đối với thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại của thuế thu nhập doanh nghiệp là
tất yếu khách quan bởi những vai trò sau đây của nó:
- Thứ nhất, thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân
sách nhà nước. Điều này được thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế thu nhập
doanh nghiệp là rất rộng. Nó khai thác nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại thu nhập ở mọi lĩnh vực, trên
mọi địa bàn. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các
hoạt động kinh doanh này ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày
càng cao, tích lũy từ nội bộ doanh nghiệp ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về
thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách quốc gia ngày càng lớn.
- Thứ hai, thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng của Nhà nước
trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế
độ miễn, giảm góp phần định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh
vực mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý
theo ngành và theo địa bàn.
Thuế thu nhập doanh nghiệp còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển thông qua các hình thức hỗ trợ về thuế đối với các cơ sở mới thành lập
hoặc các cơ sở khó khăn trong kinh doanh.
II. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp về đối tượng nộp thuế
1. Đối tượng nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 quy định:
“1. Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này
(sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài
(sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ
sở thường trú tại Việt Nam;
c) Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã;
d) Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
đ) Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
2. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này
phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nộp
thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế
phát sinh ngoài Việt Nam;
b) Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối
với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh
ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó;
c) Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối
với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không
liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú;
d) Doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp
thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
3. Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh
doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần
hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập,
bao gồm:
a) Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận
tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác
tại Việt Nam;
b) Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp;
c) Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm
công hay một tổ chức, cá nhân khác;
d) Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài;
đ) Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết
hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm
quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên
thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.”
Như vậy, theo điều luật trên, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
được chia làm 2 nhóm lớn:
- Doanh nghiệp Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú
hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật
hợp tác xã; đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam; tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
- Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh
doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần
hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập,
bao gồm: chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện
vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên
khác tại Việt Nam; địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; cơ
sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay
một tổ chức, cá nhân khác; đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài; đại diện tại Việt
Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên
doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng
đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao
hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
2. Bình luận về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Kể từ ngày 01/01/2009, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi
hành. Chủ yếu các quy định về đối tượng nộp thuế trong Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp năm 2008 đã có những ưu điểm sau đây:
* Về ưu điểm:
Thứ nhất, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp không quy định đối tượng nộp
thuế là cá nhân. Vì trước đó, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá
nhân, trong đó các cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
được chuyển sang nộp thuế theo Luật Thuế thu nhập cá nhân. Do đó, đối tượng
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ bao
gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Quy định này hợp
lí hơn quy định trong luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp cũ:
+ Tên gọi của Luật mới đã phù hợp với nội dung của Luật. Trước đây, tên
gọi “Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003” không bao hàm được các cá
nhân, hộ cá thể kinh doanh. Đến nay, khi cá nhân, hộ gia đình đã chuyển sang là
đối tượng nộp thuế của thuế thu nhập cá nhân, thì tên gọi “Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp” đã hoàn toàn phù hợp với nội dung của Luật.
+ Việc loại trừ cá nhân hành nghề độc lập và hộ cá thể kinh doanh ra khỏi
đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là phù hợp với thông lệ quốc tế, vì
những đối tượng này theo tính chất thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân ở nước ta hay là thuế đối với người có thu nhập cao.
+ Quy định này đã đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế với
nhau và giữa các thành viên trong xã hội, khuyến khích lao động sáng tạo, nâng
cao năng suất lao động, phù hợp với nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ
chức quốc tế.
+ Quy định này còn tránh trường hợp một cá nhân vừa có thu nhập từ kinh
doanh và vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác mà bị điều
chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau, khắc phục được sự phức tạp và không phù
hợp với thông lệ quốc tế.
+ Mặt khác, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp không bao gồm các cá nhân có tài sản cho thuê, tài sản
chuyển nhượng. Điều này là hợp lý hơn.
Thứ hai, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đã thống nhất trong cơ chế
ưu đãi thuế, đáp ứng được yêu cầu không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một chủ trương lớn khi ban hành luật thu
nhập doanh nghiệp năm 2008, thể hiện sự rõ ràng, minh bạch trong chính sách,
tạo tiền đề thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Sự không phân biệt
đối xử thể hiện: đảm bảo tính thống nhất về thuế suất; đảm bảo tính thống nhất
về lĩnh vực ngành nghề, địa bàn khuyến khích đầu tư… Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp áp dụng cho mọi thành phần kinh tế (trừ đối tượng là cá nhân) nên
góp phần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là
thành phần kinh tế trong và ngoài nước, từng bước đảm bảo sự bình đẳng, công
bằng xã hội, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Thứ ba, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp tạo môi trường đầu tư và kinh
doanh về tổng thể là hấp dẫn, thuận lợi hơn góp phần khuyến khích đầu tư. Đối
với các nhà đầu tư trong nước, ưu đãi về thuế suất là hấp dẫn hơn nhiều.
Thứ tư, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với xu thế hội nhập quốc
tế, tạo điều kiện cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Cụ thể, các quy định
trong Luật này đã nâng cao hơn nữa quyền tự quyết, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư nước ngoài chủ động hơn trong việc sử dụng thu nhập từ hoạt động kinh
doanh do đầu tư vào Việt Nam mang lại; đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế
và các nước trong khu vực, đặc biệt là phù hợp với cam kết của Việt Nam với
Quỹ Tiền tệ Thế giới IMF. Thêm nữa, các quy định trong Luật này còn có tác
động tích cực đến chính sách khuyến khích đầu tư và đơn giản hóa công tác
quản lý, hành thu đối với cán bộ thuế. Vì trong điều kiện năng lực quản lý của
cán bộ thuế Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và quản lý
thuế nói riêng còn hạn chế thì vấn đề kiểm soát việc chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài là khó khăn.
Thứ năm, Các quy định mới về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy
các doanh nghiệp đổi mới và áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, hoạt động có lãi được
thực hiện khấu hao nhanh. Đây là điểm tiến bộ, hợp lý và đáp ứng được nguyện
vọng của các doanh nghiệp. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển, máy
móc, thiết bị rất nhanh chóng bị lạc hậu, việc cho phép các doanh nghiệp kê khai
thuế theo phương pháp khấu hao nhanh có tác động làm tăng tốc độ tái đầu tư
vào công nghệ từ đó phát triển khả năng cạnh tranh và khả năng tái sản xuất mở
rộng của doanh nghiệp. Đây là một biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp
tăng đầu tư vào kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tạo điều kiện tăng lợi nhuận và
nuôi dưỡng nguồn thu.
Thứ sáu, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp trao quyền tự chủ trong việc xác
định điều kiện và khả năng đáp ứng các điều kiện để hưởng ưu đãi về thuế cho
các nhà đầu tư. Quy định này đã tạo một bước tiến lớn trong cải cách quản lý
hành chính về đầu tư và thuế theo hướng phân biệt rõ ràng, minh bạch giữa
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư với trách nhiệm của Nhà nước; tạo được nhiều
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc giảm bớt thủ tục xin miễn giảm thuế.
* Về hạn chế:
Bên cạnh những điểm tác động tích cực của các quy định pháp luật về đối
tượng nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các quy định về đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng vẫn còn thể hiện một số điểm
hạn chế cần khắc phục như: những ưu đãi về miễn, giảm thuế vẫn còn kém hấp
dẫn, chưa rõ ràng và thiếu tính đồng bộ; danh mục ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn
khuyến khích đầu tư vẫn còn hạn hẹp; luật thuế chưa tính đến đặc thù trong thu
hút vốn đầu tư nước ngoài…
III. Ý kiến pháp lí nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Về mức thuế suất
Hiện nay, theo quy định của Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, mức thuế
suất phổ biến là 25%. Mức thuế suất này khi ra đời vào năm 2008 đã nhận được
sự hoan nghênh lớn vì đã tạo ra hành lang thuận lợi cho quá trình hội nhập, thu
hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, với tình hình phát triển như hiện nay, mức
thuế suất này không có tính cạnh tranh. Các quốc gia khác trong khu vực như
Singapore có mức Thuế thu nhập doanh nghiệp là 8,5% đối với lợi nhuận dưới
300.000 SGD và 17% cho mức lợi nhuận cao hơn. Chưa kể đến mức thuế thu
nhập cá nhân của quốc gia này cũng rất thấp, mức cao nhất là 20% đối với
những cá nhân có thu nhập từ 320.000 SGD trở lên (~ 5,12 tỉ đồng). Một quốc
gia láng giềng là Trung Quốc cũng đã có những động thái tích cực về chính sách
thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong tháng 8 vừa qua, Chính phủ Trung Quốc đã
quyết định tỷ lệ thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp nước ngoài sẽ là 15% ở
những vùng kinh tế đặc biệt, 24% ở các khu vực duyên hải và 33% ở các khu
vực khác.
Tất nhiên với Việt Nam, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước,
để ngay lập tức giảm mức thuế suất ta không thể làm được, điều này sẽ ảnh
hưởng lớn đến cán cân ngân sách và sự phát triển ổn định của kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, về lâu về dài, Việt Nam cần có lộ trình giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp. Cụ thể giảm mức thuế suất xuống còn 20% sẽ thu hút được lượng tiền
đầu tư vào doanh nghiệp lớn hơn. Nếu như có được chính sách giảm thuế, doanh
nghiệp sẽ có động lực lớn hơn về nguồn lực tài chính để đầu tư cũng như tăng
thêm sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó tuy tỉ lệ nộp thuế giảm nhưng số thuế
nhà nước thu được cũng nhiều hơn. Theo chương trình của Chính phủ, chúng ta
sẽ phải đợi đến năm 2020 mới có thể áp dụng được việc giảm thuế suất. Tuy
nhiên, với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một quốc gia công
nghiệp thì những biện pháp kinh tế này cần được thực hiện càng sớm càng tốt.
2. Về chính sách ưu đãi thuế
Thuế là một công cụ để nhà nước điều chỉnh hướng phát triển của xã hội.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng là một công cụ như thế. Hiện nay, luật này
quy định còn khá dàn trải. Vì thế, ta nên điều chỉnh theo hướng hẹp về lĩnh vực,
tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh
học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hóa, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Bởi lẽ, chỉ bằng cách này mới có thể kích thích sự phát triển ở những vùng
miền còn khó khăn trong đất nước. Chẳng hạn, theo luật thuế thu nhập doanh
nghiệp hiện hành thì mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất (thuế suất
10%, miễn 4 năm và giám thuế tối đa 9 năm tiếp theo) được áp dụng đối với các
doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập
mới từ dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của nhà nước,
sản xuất sản phẩm phần mềm; doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường. Tuy
nhiên, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê trong đó có các đối
tượng sinh viên trong các cơ sở đào tạo, công nhân làm việc tại khu công nghiệp
và người có thu nhập thấp có khó khăn về nhà ở nếu đầu tư tại các địa bàn khác
không thuộc danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư thì chưa được hưởng ưu đãi nên
không khuyến khích được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
3. Quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế
Hiện nay luật quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ
còn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn quy định về mức trần chi
phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết…
không được vượt quá 10% chi phí được trừ (15% đối với doanh nghiệp mới
thành lập trong 3 năm đầu). Quy định này khiến cho nhiều doan nghiệp rơi vào
tình trạng lỗ thật mà không được bù đắp, thêm nữa cũng tạo ra sự không công
bằng đối với các doanh nghiệp. Cụ thể, đối với những doanh nghiệp kinh doanh
những hàng hoá, dịch vụ không cần phải có hoạt động quảng cáo, tiếp thị nhiều;
thậm chí những mặt hàng còn bị cấm quảng cáo (rượu, bia, thuốc lá…) thì số chi
phí họ phải bỏ ra để quảng cáo rất ít. Nhưng đối với những doanh nghiệp kinh
doanh mặt hàng cần phải quảng cáo nhiều (đồ điện tử, mỹ phẩm, nước ngọt…)
mà chi phí cần thiết vẫn vượt quá 10% thì quy định này rất khó cho họ. Phải
chăng quy định như vậy là không khuyến khích phát triển những mặt hàng này
tồn tại trên thị trường? Vì vậy, riêng vấn đề này Chính phủ cần có nghị định
hướng dẫn chi tiết để đảm bảo quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp, nhằm
khuyến khích sự đầu tư phát triển hơn nữa của họ.
Thêm nữa, ta cũng cần phải bổ sung các quy định để bao quát được các
hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường hội nhập và phù hợp với
thông lệ quốc tế như: hoạt động bán hàng đa cấp, thương mại điện tử, sự phát
triển của các tập đoàn kinh tế, hiện tượng "vốn mỏng" khi xác định chi phí, đặc
biệt là chi phí lãi vay, điều chuyển hoặc đánh giá lại tài sản khi tái cơ cấu doanh
nghiệp, thỏa thuận trước về giá của các doanh nghiệp liên kết.
4. Hỗ trợ động viên doanh nghiệp lớn, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
nhiều
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang chờ đợi Chính phủ trình Quốc hội
điều chỉnh giảm mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp nhưng có lẽ điều này sẽ
không diễn ra sớm. Quyết định 21/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đã cho phép giãn thời hạn nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp trong thời gian một năm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chính phủ có Nghị quyết giao Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất trình Quốc hội
cho giảm một phần thuế TNDN phải nộp năm 2011 đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa (đang thuộc diện được giãn) như: doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động hoạt
động trong các lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thủy hải sản, dệt
may, da giày... Việc Chính phủ thực hiện giãn, và đề xuất giảm thuế cho doanh
nghiệp sẽ khiến nguồn thu ngân sách bị ảnh hưởng. Nhưng về lâu dài, chính
sách giảm thuế sẽ kích thích sản xuất và phát triển, tăng cường nguồn vốn cho
doanh nghiệp tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh và giúp bồi dưỡng nguồn thu.
Chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đang thực hiện tập trung ưu
tiên cho những doanh nghiệp nhỏ và vừa - những doanh nghiệp khó khăn nhất
và cần được tiếp sức sớm nhất, đã tạo ra những tác động tích cực trong việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp lớn, các
doanh nghiệp đang nộp thuế nhiều và liên tục thì Chính phủ vẫn chưa có chính
sách hỗ trợ, động viên nào. Cần khách quan mà nhìn nhận rằng, chính việc giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp lớn - các doanh nghiệp là đầu
tàu, là quả đấm thép, các doanh nghiệp tạo nên diện mạo của nền kinh tế Việt
Nam mới thực sự kích thích sản xuất và tăng trưởng.
Hiện tại, các doanh nghiệp nộp thuế nhiều mới chỉ được vinh danh trong
các chương trình như Bảng xếp hạng Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập
lớn nhất Việt Nam trong ba năm liên tục (V1000) do Công ty cổ phần Báo cáo
đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp với Báo VietNamNet công bố.
Nhìn vào sự xuất hiện ngày càng nhiều của các doanh nghiệp FDI (doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), đóng góp trên 20.000 tỉ vào ngân
sách nhà nước năm 2010, ta cũng thấy được sự đóng góp to lớn của những
doanh nghiệp này, cả trên phương diện đóng thuế cho ngân sách nhà nước và
vấn đề giải quyết các vấn đề xã hội (lao động, tiêu dùng…) ở nước ta. Vì thế
việc có những chính sách thoả đáng cho đối tượng này là cần thiết.
Trong khuôn khổ Chiến lược và Kế hoạch thực hiện Chiến lược cải cách hệ
thống thuế Việt Nam giai đoạn 2011-2020, chúng ta hi vọng Chính phủ và Bộ
Tài Chính sẽ sớm đưa ra lộ trình phù hợp, cụ thể để tạo điều kiện để các doanh
nghiệp lớn có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư, nâng
cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
C. KẾT LUẬN
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một sắc thuế đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong chính sách thuế trực thu nói riêng và hệ thống thuế nói chung. Trải
qua quá trình phát triển, hệ thống thuế của nước ta trong đó có thuế thu nhập
doanh nghiệp không ngừng được sửa đổi, bổ sung, cải cách và đổi mới để thích
nghi với sự vận động không ngừng của nền kinh tế. Đặc biệt vấn đề đối tượng
nộp thuế trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã có một bước tiến khá lớn về
tư duy lập pháp.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu của đông đảo
các doanh nghiệp là tạo ra một mặt bằng pháp lý chung về thuế thu nhập doanh
nghiệp cho mọi thành phần kinh tế (trừ cá nhân, hộ kinh doanh cá thể), không
phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài; thực sự tạo ra sự canh tranh bình đẳng; đáp ứng nguyên tắc không phân
biệt đối xử tạo điều kiện cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên
trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn những vướng mắc nhất định, đây là
điều không thể tránh khỏi. Nhưng khi đã nhận thức được bất cập, các nhà làm
luật cần có những động thái tích cực để làm cho hệ thống pháp luật ngày càng
hoàn thiện hơn, nhất là đối với những đạo luật trực tiếp ảnh hưởng lớn đến đời
sống xã hội như luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Những ý kiến đưa ra chỉ là ý
kiến cá nhân và có tính chất tham khảo, để những lợi ích thực sự đến với doanh
nghiệp - đối tuợng nộp thuế theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp - Quốc hội và
Chính phủ cần thực hiện những quyết định mang tính bước ngoặt và táo bạo hơn
nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Thuế và cải cách thuế ở nước ta, NXB Tài chính, Hà Nội, 2002.
3. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001- 2010 – Tổng cục thuế.
4. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2008.
5. Nghị định 124/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp.
6. Phạm Thị Giang Thu, “Một số ý kiến trao đổi về Dự thảo Luật thuế giá trị
gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp”, Tạp chí luật học, số
4/2008.
7. o