MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:………………………………………………………………..2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:…………………………………………………….2
1. Khái niệm chung về di chúc và những quy định chung về di chúc:…………..2
2. Những quy định của pháp luật về việc lập di chúc chung của vợ - chồng:……4
3. Một số vấn đề về việc lập di chúc chung của vợ-chồng:……………………...6
3.1. Những ưu điểm của việc lập di chúc chung của vợ chồng:…………………6
3.2. Những bất cập trong những quy định về việc lập di chúc chung của vợchông:…………………………………………………………………………….6
a. Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong
việc lập di chúc:………………………………………………………………….7
b. Nội dung, mục đích của việc lập di chúc chung của vợ - chồng:……………...7
c. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng:…………………………………8
d. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ - chồng:…...10
e. Vấn đề về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng:………………………….....12
4. Những biện pháp sửa đổi nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc
lập di chúc chung của vợ - chồng:………………………………………………16
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:…………………………………………………….17
1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Pháp luật của nước ta trên cơ sở bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công
dân đã bảo đảm để công dân thực hiện những quyền này trong nội dung quyền sở
hữu một cách triệt để. Vì vậy việc tôn trọng quyền lập di chúc là một yếu tố để
tôn trọng và khẳng định quyền sở hữu về tài sản của người lập di chúc. Bởi vậy,
điều 634 đã khẳng định: " cá nhân có quyền lập di chúc đề định đoạt tài sản của
mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật". Đối với khối tài sản chung của vợ, chồng thì hai vợ chồng có quyền
cùng lập di chúc chung được thừa nhận trong pháp luật hiện hành Việt Nam.
Việc thừa nhận quyền này thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết
trong gia đình, mặt khác cũng gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di
chúc làm nảy sinh nhiều bất cập.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Khái niệm chung về di chúc và những quy định chung về việc lập di chúc:
Theo điều 646 Bộ luật dân sự quy định: " Di chúc là sự thể hiện ý chí của
cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết". Di chúc là
sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết cho những người khác còn sống
theo sự định đoạt ý chí của người lập di chúc. Đây là một giao dịch dân sự thể
hiện hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc. Do vậy di chúc là giao
dịch dân sự một bên. Sự giao dịch này được thực hiện hoặc bằng giấy tờ hoặc
bằng lời nói miệng. Di chúc có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết.
Điều 647 Bộ luật dân sự quy định về người lập di chúc như sau:
" 1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó
bị bênh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thúc và làm chủ được
hành vi của mình.
2. Người từ dủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý."
2
Vậy người lập di chúc trước tiên phải là chủ sở hữu tài sản (người sử
dụng tài sản) và phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng thể hiện rõ
ý chí của mình trong việc định đoạt tài sản. Đối với người từ đủ mười lăm tuổi
đến mười tám tuổi cũng có thể lập di chúc nhưng phải thông qua sự đồng ý của
cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó trong việc lập di chúc. Tuy nhiên việc
đồng ý này không can thiệp đến nội dung của di chúc.
Về hình thức của di chúc theo điều 649 Bộ luật dân sự: "Di chúc phải
được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể
di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc
tiếng nói của dân tộc mình." Và di chúc theo những hình thức này chỉ được coi
là hợp pháp khi thỏa mãn các điều kiện được quy định tại điều 652 Bộ luật hình
sự: " 1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn
3
năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì người di
chúc phải được công chứng hoặc chứng thực."
Khi người còn sống lập di chúc sẽ không bị ràng buộc bởi di chúc đã lập
và có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc đã lập bằng một di chúc lập ra sau
đó hoặc có quyền hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào. Trong trường hợp người lập di
chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật
như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì
chỉ có phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp người lập di chúc
thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ (Điều 662 Bộ luật
dân sự ). Và nội dung, hình thức của di chúc được sửa đổi, bổ sung, thay thế phải
phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về di chúc hợp pháp (Điều 649, Điều
652 Bộ luật dân sự năm 2005).
2. Những quy định của pháp luật về việc lập di chúc chung của vợ, chồng:
Quyền lập di chúc chung của vợ và chồng được quy định tại điều 663,
điều 664, điều 668 Bộ luật dân sự Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, việc lập di chúc
chung của vợ và chồng không những củng cố tình yêu thương và đoàn kết trong
gia đình, mà việc quy định về di chúc chung của vợ và chồng là điều đúng pháp
luật về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng tạo ra sự đồng thuận nhất trí
cao của đồng sở hữu.
Điều 663 Bộ luật dân sự 2005 quy định: " Vợ chồng có thể lập di chúc
chung để định đoạt tài sản chung."
Thông thường, di chúc do một cá nhân lập để định đoạt tài sản của bản
thân mình sau khi chết, đây là hành vi pháp lý đơn phương và được thực hiện
theo quyết định của từng cá nhân. Tuy nhiên pháp luật hiện hành có quy định
một số trường hợp ngoại lệ, vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài
sản chung của vợ chồng.
4
Trên cơ sở điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về khối
tài sản chung của vợ chồng thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
phải dựa trên sự nhất trí của vợ chồng. Do đó, vợ - chồng có thể lập di chúc
chung để định đoạt tài sản chung. Và việc lập di chúc này về ý chí cả hai người
phải dưa trên cơ sở tự nguyện, nhất trí.
Điều 664 Bộ luật dân sự quy định: " 1. Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung,
thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì
người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình."
Vậy, vợ - chồng khi đã thống nhất ý chí lập di chúc để định đoạt tài sản
chung thì họ cũng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ
lúc nào. Nếu một bên vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung của vợ chồng thì phải được sự đồng ý của bên kia.
Nếu một người chết trước thì người vợ hoặc chồng còn sống chỉ cỏ thể sửa
đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản
chung hợp nhất giưa vợ và chồng. Khi đó, di chúc đã có giá trị thực hiện đối với
phần tài sản của người vợ hoặc người chồng chết trước trong khối tài sản chung
của vợ chồng. Người còn sống không thể sửa đổi, bổ sung phần di chúc của
người đã chết mà chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản
của bản thân người đó.
Di chúc chung của vợ - chồng là một trường hợp đặc biệt của việc lập di
chúc nên chúng ta cầm xem xét đến hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợchồng. Điều 668 Bộ luật dân sự quy định: " Di chúc chung của vợ, chồng có
hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thồi điểm vợ, chồng cùng
chết." Trước đây theo quy định tại điều 671 Bộ luật dân sự năm 1995, thời điểm
5
có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng được xác định theo phần. Theo đó,
khi người vợ hoặc chồng chết trước thì phần di chúc liên quan đến di sản bằng
1/2 khối tài sản chung và phần tài sản riêng của người đó có hiệu lực thi hành.
Còn lại phần di chúc liên quan đến 1/2 khối tài sản chung và phần tài sản riêng
của người còn sống vẫn thuộc sở hữu của người chồng, người vợ còn sống, chưa
có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên thì quy định này khá phức tạp và làm mất đi ý
nghĩa của việc lập di chúc chung của vợ - chồng. Chính vì thế, Bộ luật dân sự
năm 2005 quy định di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực vào thời điểm người
sau cùng chết hoặc thời điểm mà cả hai vợ chồng cùng chết.
3. Một số vấn đề về việc lập di chúc chung của vợ - chồng:
3.1. Những ưu điểm của việc lập di chúc chung của vợ chồng:
Điều 663 BLDS quy định vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt
tài sản chung. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho vợ, chồng cùng thể hiện
được ý chí thống nhất trong việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng và nó đã
góp phần vào thúc đẩy các quan hệ dân sự cũng như vấn đề tôn trọng và bảo vệ
các quyền dân sự của chủ sở hữu tài sản. Hai vợ chồng thay vì phải phân chia di
sản chung để lập di chúc riêng để định đoạt phần tài sản của mình thì có thể
thống nhất trong một di chúc chung của cả hai.
Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực
từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải
pháp này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di
chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995.
Nhưng việc lập di chúc chung của vợ - chồng bên cạnh sự thể hiện nguyên tắc
thương yêu, đoàn kết còn gây ra nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật.
3.2. Những bất cập trong những quy định của pháp luật về di chúc chung của
vợ-chồng:
6
a. Quyền lập di chúc chung của vợ chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân
trong việc lập di chúc.
Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi
chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Và việc lập di chúc được xem là hành vi
pháp lý đơn phương của người lập di chúc. Nhưng theo điều 663 quy định: " Vợ,
chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung". Như vậy hai điều
luật này đã có sự mâu thuẫn với nhau. Và ở điều 663 thì hành vi pháp lý đơn
phương đã trở thành hành vi pháp lý song phương vì người lập di chúc không
phải là một cá nhân mà là hai cá nhân.
b. Nội dung, mục đích của di chúc chung của vợ - chồng:
* Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để
định đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là
để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Vậy vấn đề đặt ra đó là việc quyết dịnh
tài sản riêng của mỗi người. Nếu hai vợ chồng lập một di chúc chung trong đó
bao gồm cả phần tài sản chung của hai người và tài sản riêng của mỗi người thì
sẽ gây ra không ít rắc rối, cụ thể như trong việc xác định hiệu lực của di chúc
chung. Sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên quan tới tài sản
riêng của họ có hiệu lực hay chưa ?... Đây là những vấn đề pháp lý phức tạp mà
BLDS 2005 chưa tiên liệu được. Do những bất cập như vậy, có thể dẫn tới
những hệ quả sau: Một là, hai vợ chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó
chỉ để định đoạt tài sản chung, còn đối với phần tài sản riêng của mỗi người thì
mỗi bên vợ hoặc chồng tự lập di chúc riêng, không phụ thuộc vào ý chí của
người còn lại. Việc này sẽ dẫn đến nhiều khó khăn vì sự xuất hiện của nhiều di
7
chúc. Hai là, nếu trong di chúc chung lại định đoạt cả phần tài sản chung và phần
tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng thì sẽ dẫn đến việc di chúc đó sẽ phát sinh
hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Từ đây xuất hiện những vấn đề pháp lý
không dễ dàng giải quyết.
* Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng
Bộ luật dân sự 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi
lập di chúc chung. Và việc này có thể dẫn đến nhiều hậu quả mà chúng ta không
lường trước được: như lập di chúc nhằm che đậy các hành vi trái pháp luật, các
hành vi lừa đảo, bất chính nhằm chiếm đoạt di sản của nhau. Điều này khiến cho
ý nghĩa của việc lập di chúc chung của vợ - chồng bị mất đi.
c. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng:
Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di chúc
viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Nhưng các hình thức và thủ tục để lập di
chúc cá nhân không phải lúc nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung
của vợ, chồng. Thực tế cho thấy rằng có rất nhiều vướng mắc trong việc lựa
chọn hình thức của di chúc chung của vợ-chồng. Ví dụ: Khi còn sống, ông A, bà
B có cùng lập di chúc chia tài sản chung cho các con. Nay ông A đã mất, hai con
muốn đề nghị bà B thực hiện di chúc thì có được không? Di chúc không có công
chứng thì có được coi là hợp pháp không?
* Di chúc chung của vợ-chồng dưới hình thức di chúc miệng:
Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong
trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên
nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do
đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng, vì các lý do:
8
Một là, khi lập di chúc chung hai vợ chồng phải có sự thống nhất chung
đối với việc định đoạt khối tài sản chung đó. Nhưng trong trường hợp lập di chúc
miệng khi mà một bên vợ hoặc chồng đang bị bệnh tật đe dọa đến tính mạng
hoặc đang ở trong tình trạng nguy cấp thì không có khả năng bàn bạc, thống nhất
giữa hai vợ chồng, do vậy di chúc không thể phản ánh ý chí của mỗi bên vợ
chồng và còn làm cho bản di chúc mang ý chí chủ quan của cá nhân
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng,
không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát
biểu. Vậy, sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng
người trình bày riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn
nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì
cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc
lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt do cái chết đe dọa cả
hai, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý,
là không thực tế.
Ba là, có vướng mắc trong vấn đề hiệu lực của di chúc miệng. Theo khoản
2 điều 651 quy định: “Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di
chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”.
Vậy sẽ giải quyết như thế nào khi một bên vợ hoặc chồng chết còn người kia vẫn
còn sống? Và như vậy thì giá trị của di chúc có còn hay không trong khi di chúc
chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.
Bốn là, khi lập di chúc miệng thì những ý nguyện của cả hai người rất khó
để có thể ghi lại đầy đủ, chính xác và rất dễ bị sửa đổi. Đặc biệt là trước cảnh
sống chết của cả hai vợ chồng. Hơn nữa như thế sẽ không có chứng cứ xác thực
được rằng di chúc miệng ấy là thể hiện ý chí chung, sự đồng thuận. tự nguyện
của hai vợ chồng và không bảo đảm được tính trung thuwch, khách quan.
9
Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở
nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của
chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
* Vợ, chồng lập di chúc chung dưới hình thức văn bản:
Điều 655 BLDS qui định về lập di chúc viết tay của cá nhân khi không có
người làm chứng: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc…”.
Như vậy nghĩa là mỗi cá nhân khi lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di
chúc để lấy đó làm căn cứ trong việc xác định một di chúc là do chính người để
lại di sản lập ra hay là giả mạo. Căn cứ theo điều luật này để áp dụng cho trường
hợp hai vợ chồng lập di chúc chung sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề khó giải quyết.
Vì luật yêu cầu người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc đó nên
hai vợ chồng đều phải tự tay viết di chúc và kí tên. Nhưng trên thực tế thì cả hai
người không thể cùng viết một bản di chúc, cũng không thể một người viết rồi
cùng ký tên hay mỗi người viết một đoạn trong di chúc, như vậy không đảm bảo
thủ tục lập di chúc viết tay. Còn nếu mỗi người viết một bản di chúc thì đấy đã
trở thành di chúc riêng của mỗi vợ, chồng. Như vậy nếu muốn lập di chúc chung
của vợ - chồng thì ít nhất phải có hai người đủ điều kiện làm chứng để chứng
kiến việc lập di chúc chung đó.
Tóm lại, pháp luật cần phải qui định hình thức riêng cho di chúc chung
của vợ chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS
2005 chưa qui định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục. Tốt
nhất, chỉ nên thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn bản có
người làm chứng hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.
d. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung:
10
Khoản 2 Điều 664 BLDS 2005 qui định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa
đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người
kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên
quan đến phần tài sản của mình". Quy định này thể hiện sự thống nhất ý chí giữ
hai vợ chồng. Nhưng nó cũng tạo ra không ít mâu thuẫn với những điều luật
khác.
- Thứ nhất, qui định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, vi phạm nguyên tắc tự nguyện
trong việc lập di chúc và vi phạm quyền của người lập di chúc. Nếu một bên vợ
hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ
di chúc chung đã lập, nhưng không được sự đồng ý của người kia, thì việc sửa
đổi, bổ sung đó sẽ không được luật chấp nhận. Việc này ngăn cản một bên vợ
hoặc chồng thể hiện ý chí của họ trong việc đưa ra những quyết định cá nhân,
nhằm bảo đảm lợi ích cho mình. Điều đó cũng không công bằng đối với bên
muốn được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung.
- Thứ hai, qui định này cũng có nhiều mâu thuẫn vì không cho phép một
bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ - chồng còn sống, nhưng lại cho
phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến
phần tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Việc sửa đổi, bổ sung
di chúc chung của vợ, chồng cần phải bảo đảm nguyên tắc nhất trí giữa vợ,
chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của tài sản chung nhưng sự nguyên tắc
này chỉ được bảo đảm khi cả hai vợ, chồng còn sống, còn nếu một trong hai bên
đã chết nguyên tắc này không được coi trọng nữa. Do đó, nếu đã cho phép một
bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã chết, thì cũng cần
phải công nhận quyền của một bên được tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ
11
bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản của mình, khi không có sự đồng
thuận của bên kia.
Thứ ba, vợ chồng cùng lập di chúc chung nhưng sau đó tự vợ hoặc chồng
lại lập di chúc riêng mà không thỏa thuân hủy đi di chúc lập chung thì bản di
chúc riêng kia có giá trị pháp lý không? Và nếu bản di chúc chung trái pháp luật
mà bản di chúc riêng của vợ hoặc chồng có gí trị pháp lý thì nó có được thi hành
sau khi người vợ hoặc chồng chết không?
Mặc dù lập di chúc chung là sự thể hiện tập trung của nguyên tắc củng cố
tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình. Nhưng việc buộc các bên vợ chồng
phải nhất trí với nhau khi họ không còn thống nhất về ý chí theo các điều luật
quy định không phải là một biện pháp củng cố tình yêu thương đoàn kết hiệu quả
mà ngược lại còn khiến nảy sinh mâu thuẫn trong quan hệ vợ, chồng.
e. Vấn đề về hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng:
* Một số trường hợp xảy ra trên thực tế:
Trường hợp 1: Ông Bình và bà Ban có lập di chúc chung để lại tài sản
chung của hai vợ chồng cho hai con trai. Sau khi ông Bình chết, vài năm sau, bà
Ban đã làm lại di chúc mới là phần của ông chia làm 2 phần còn phần của bà
chia đều cho cả 5 người con. Vậy vấn đề đặt ra trong trường hợp này là di chúc
nào có hiệu lực?
Trường hợp 2: Anh Nguyễn Sơn có thắc mắc: “Trước đây, bố mẹ có viết
một bản di chúc chung với nội dung cho cháu nội (con trai tôi) toàn bộ ngôi nhà.
Sau đó bố tôi lại thay đổi ý định và đã làm thủ tục chia đôi ngôi nhà để bố tôi
bán phần của mình cho người khác lấy tiền sử dụng riêng.
12
Tôi xin hỏi bản di chúc mà mẹ tôi viết chung với bố tôi có hiệu lực thi
hành hay không? Bố tôi có được hưởng tài sản thừa kế của mẹ tôi hay không?
Con tôi còn nhỏ có quyền nhận tài sản thừa kế hay không?”
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều
tranh cãi giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS
2005. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
không trùng với thời điểm mở thừa kế. Và việc xác định di chúc chung của vợ
chồng phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết phát sinh những vấn đề phức
tạp khác sau đây:
- Thứ nhất, chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng
chết trước:
Thực tế cho thấy, tài sản của một cá nhân có thể bao gồm tài sản riêng của
cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng. Vì theo điều 668 thì di chúc
chung chỉ có hiệu lực dựa vào “cái chết sau cùng”, do vậy sẽ có ít nhất hai lần
“chia thừa kế” đối với di sản của bên chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa kế đối
với phần di sản là tài sản không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời
điểm mở thừa kế. Lần thứ hai là chia thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc
chung của vợ, chồng, khi diễn ra “cái chết sau cùng”. việc phải chia thừa kế
nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước, sẽ gây khó khăn cho
các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Thứ hai, vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của
người vợ hay chồng chết trước:
Thời điểm mở thừa kế cũng là thời điểm làm phát sinh quyền thừa kế đối
với di sản của người chết, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu
lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể thực hiện được
13
quyền này cuả mình. Nếu trong trường hợp những người thừa kế hợp pháp của
người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng
chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh...) không may chết trước
một bên vợ hoặc chồng còn sống thì sẽ dẫn đến hệ quả là những người này mất
quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp
của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ.
- Thứ ba, việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của
người được thừa hưởng di sản:
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người
được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết
trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa
không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người
trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách
thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng
tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau...), thì họ có được thừa kế bắt
buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc
những được chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu
lực, nhưng chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì
họ có thuộc thừa kế theo di chúc chung hay không... là những vấn đề chưa được
qui định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư
cách người thừa kế và các qui định khác có liên quan.
- Thứ tư,thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước:
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu
hết 10 năm đó mà di chúc chung vẫn chưa có hiệu lực, thì thời hiệu khởi kiện xin
chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Như vậy,
nếu sau khi hết hiệu lực khởi kiện thừa kế ta mới phát hiện ra những sai sót trong
14
bản di chúc chung thì chúng ta cũng không thể khởi kiện để khắc phục, đòi đảm
bảo lợi ích cho mình được.
- Thứ năm, xác định di sản chung và những biến động của nó khi một
trong hai bên chết trước:
Khi tài sản chung không còn nguyên vẹn thì việc xác định giá trị của tài
sản chung và phân chia chúng rất khó khăn, có thể gây ra nhiều tranh chấp. Việc
chia thừa kế theo di chúc sẽ trở nên rất khó khăn, phức tạp. Và theo quy định tại
điều 668 BLDS, chia di sản chỉ được tiến hành sau khi người sau cùng chết.
Như vậy, khi người quản lý di sản còn sống thì những người thừa kế theo di chúc
không thể yêu cầu xác định khối tài sản của vợ chồng người lập di chúc chung,
đặc biệt là khối di sản của người chồng hoặc người vợ chết trước có bao nhiêu
trong khối tài sản chung đó? Và nếu bên còn sống lợi dụng quy định này của
pháp luật để thực hiện những mục đích xấu như tẩu tán tài sản, lạm dụng tài sản
khiến cho khối tài sản chung bị hao tán dần, đến khi xảy ra “cái chết sau cùng”
thì khối tài sản còn lại rất ít, không đáng kể hoặc không còn. Điều này gây ảnh
hưởng lớn đến quyền lợi của những người được quyền hưởng thừa kế.
- Thứ sáu, sự mâu thuẫn giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống
pháp luật.
Giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế so với
thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là khác nhau, dẫn tới sự bất cập và thiếu
nhất quán trong việc thực hiện các quyền này. Như với qui định người thừa kế
chỉ có thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày mở
thừa kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn luật định thì được coi
là đã nhận di sản. Nhưng trước khi xảy ra “ cái chết sau cùng” thì bản di chúc
15
chung không được công bố, do vậy người thừa kế hợp pháp của người chết trước
không thể biết được mình có được chia thừa kế hay không để chấp nhận hoặc từ
chối. Và khi di chúc được công bố sau khi hết thời hạn để một người từ chối
quyền hưởng di sản thì người đó vẫn phải nhận di sản do người chết để lại.
4. Những biện pháp sửa đổi nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
việc lập di chúc chung của vợ-chồng:
Từ những bất cập đã được đề cập đến ở trên, ta có thể thấy được những hạn
chế của các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề lập di chúc chung của vợ chồng. Đó là sự mâu thuẫn trong khoản 1 và khoản 2 của điều 664, những vướng
mắc trong điều 668 về hiệu lực của di chúc chung, về hình thức của di chúc
chung,…
Vậy để bảo đảm quyền của người lập di chúc chung của vợ chồng, Bộ luật
dân sự 2005 nên xem xét sửa đổi các điều luật để phù hợp hơn với thực tiễn. Từ
đó có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thế một cách tốt nhất.
* Một số kiến nghị:
Điều chỉnh khoản 2 Điều 664 theo hướng cho phép một bên vợ hoặc
chồng có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc trong phạm vi phần tài
sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng (đã được định đoạt bởi di
chúc chung) bất cứ lúc nào kể cả khi không có sự đồng ý của bên còn lại.
Bộ luật dân sự 2005 cần có thêm các điều luật cụ thể quy định riêng về
hình thức của di chúc chung của vợ-chồng. Trong đó không cho phép vợ, chồng
lập di chúc miệng ( điều 651) và lập di chúc bằng văn bản theo kiểu không có
16
người làm chứng như đối với di chúc riêng của cá nhân được quy định tại điều
665 Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước thì nên quy định phần
di sản của người đó có thể được chia cho những người được thừa kế khi có yêu
cầu và được sự chấp thuận của người chồng hay vợ còn sống (sửa đổi Điều 668BLDS về hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng). Quy định như vật sẽ thuận
lợi cho việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến việc hưởng di sản của
những người được hưởng thừa kế theo di chúc.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Việc pháp luật thừa nhận và có những quy định riêng về di chúc chung của
vợ - chồng bên cạnh việc củng cố nguyên tắc đoàn kết, thương yêu giữa hai vợ,
chồng nó còn nhiều vấn đề chưa thật sự phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay. Vì
vậy các nhà làm luật cần dựa trên thực tiễn hành nghề để có những sự bổ sung,
sửa đổi các điều luật liên quan đến vấn đề này ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần
củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trên đây là những tìm hiểu của em về một số vấn đề về di chúc chung
của vợ, chồng. Do giới hạn trong nhận thức nên có thể bài viết trên còn
nhiều sai sót, mong các thầy, cô xem xét và góp ý để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009
2. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập II, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
3. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009.
4. Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb. Thống kê.
5. Ts. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội.
6. Lê Minh Hùng, “Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc của
vợ-chồng”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4/2006.
7. Nguyễn Hồng Nam, Di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự, Tạp chí
tào án số 22/2005.
8. Phạm Văn Tuyết, “Di chúc và vấn đề hiệu lực của di chúc”, Tạp chí luật học,
sô 6/1995.
9. PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Tập
II, Nxb. Chình trị quốc gia.
18