Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam với truyền thống uống nước nhớ nguồn, hiếu thảo kính
trọng bậc bề trên có công nuôi dưỡng sinh thành, cùng với tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên, dòng họ. Đã tạo nên một nền văn hoá đặc biệt có tính chất đặc trưng của
văn hoá phương Đông, nhất là quan niệm tâm linh ăn sâu vào máu thịt từng
người dân sống trong nó trong đó có văn hoá phụng tự người quá cố. Pháp luật
dân sự đã có quy định về di sản dùng cho việc thờ cúng để thoả mãn nhu cầu
tâm linh cũng như phát huy truyền thống dân tộc, phát huy dân chủ, tôn trọng ý
chí của người có di sản để lại. Với đề tài số 10: “Di sản dùng vào việc thờ
cúng”, em mong rằng sẽ tìm hiểu rõ ràng vấn đề thông qua nội dung bài tiểu
luận bằng việc tìm hiểu các quy định của pháp luật, những điểm phù hợp cũng
như bất cập nhằm đưa ra ý kiến pháp lý đề xuất thích hợp trong phạm vi đề tài.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm di sản theo quy định tại BLDS năm 2005
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định về di sản: “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”. Tài sản theo quy định tại Điều 163 BLDS gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản”.
Như vậy, di sản là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người
đã chết, quyền về tài sản của người đó. Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác và quyền về tài
sản do người chết để lại.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 1
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
- Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập
hợp pháp, tài sản được tặng cho, được thừa kế, tư liệu sinh hoạt riêng, nhà ở, tư
liệu sản xuất, vốn dùng để sản xuất kinh doanh… như:
+ Tiền, vàng bạc, của cải để dành;
+ Nhà ở;
+ Vốn, cổ phần, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá thể, hoặc
của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp;
+ Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu;
+ Cây vối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung của người khác là
phần tài sản thuộc sở hữu của họ khi sống đã đóng góp trong khối tài sản chung.
- Quyền về tài sản do người chết để lại là các quyền dân sự được phát sinh
từ các quan hệ hợp đồng hoặc do việc bồi thường thiệt hại mà trước khi chết họ
đã tham gia vào những quan hệ này.
Ngoài các tài sản nói trên, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp cũng
là di sản. Chủ sở hữu quyền tác giả để lại di sản quyền tài sản như quyền hưởng
nhuận bút và các lợi ích vật chất khác.
2. Người để lại di sản
Người để lại di sản thừa kế là người có tài sản sau khi chết để lại cho
người còn sống theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hoặc theo quy định
của pháp luật. Người để lại di sản có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều
kiện nào.
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở…. Khi còn sống họ có quyền đưa các loại tài sản này vào lưu thông dân sự
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 2
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết. Trường
hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập di chúc sau khi
chết, tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp luật.
3. Người nhận di sản
Người nhận di sản có thể là người thừa kế theo quy định tại Điều 635
BLDS năm 2005: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế
theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tòn tại vào thời
điểm mở thừa kế”.
Như vậy, người thừa kế có thể là người được hưởng di sản thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và
phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người
để lại di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức hoặc
Nhà nước.
Người được nhận di sản có quyền và nghĩa vụ đối với di sản được nhận,
nghĩa là họ vừa được hưởng quyền, nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại. Nghĩa vụ này quy định trong Điều 637 BLDS năm
2005:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những
người thừa kế.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 3
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
3. Trong trường hợp tài sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài
sản mà mình được nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác….”
4. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 633 BLDS quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố một người là đã chết thì
thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 81
BLDS.
Về địa điểm mở thừa kế: Khoản 2 Điều 633 BLDS quy định: “Địa điểm
mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu kjông xác định
được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần
lớn di sản”.
5. Những người không được hưởng di sản
Khoản 1 Điều 643 BLDS quy định: “1. Những người sau đây không
quyền hưởng di sản:
a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng;
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 4
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản
tría với ý chí của người để lại di sản”.
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc của lưu thông dân sự phải tôn
trọng đạo đức truyền thống của nhân dân Việt Nam. Những người có những
hành vi trên không còn xứng đáng hưởnh di sản của người đã chết. Điều đó
không những chỉ ảnh hưởng đến danh sự, quyền lợi của cá nhân mà còn ảnh
hưởng đến danh dự của gia đình, dòng họ.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự định đoạt của người có di sản, người này
vẫn có thể cho người vi phạm được hưởng nếu biết nhưng vẫn viết di chúc cho
họ hưởng tài sản của mình.
II. Một số nét về di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Tìm hiểu của sinh viên thực hiện về di sản thờ cúng trong pháp luật
thời phong kiến và trong bộ Dân luật Sài Gòn năm 1973
1.1. Một số quy định trong pháp luật phong kiến nước ta
Bộ Quốc Triều hình luật thời Lê có quy định về thừa kế đối với ruộng đất
hương hoả, thừa nhận quyền hưởng hương hoả đối với con trai, nếu không có
con trai thì giành quyền cho con gái. Ngược lại, bộ Hoàng Việt luật lệ thời Gia
Long lại quy chỉ thừa nhận quyền hưởng hương hoả đối với con trai chứ không
thừa nhận quyền hưởng hương hoả đối với con gái, dự liệu trong gia tộc không
có bậc nam nào (9 đời) thì con gái mới thừa kế. Điều 388 và 391 bộ Quốc Triều
hình luật thời nhà Lê có quy định: “Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 ruộng đất,
còn lại chia đều cho các con không phân biệt trai, gái. Trường hợp người giữ
hương hoả không có con trai thì con gái được giao ruộng hương hoả để thờ
cúng tổ tiên”.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 5
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
Như vậy, luật phong kiến dùng từ “hương hoả” để thay cho từ “di sản
dùng vào việc thờ cúng” như pháp luật hiện nay, nhưng ý nghĩa thì có phần khác
ở chỗ có quy định rõ ràng lượng di sản tối đa dùng cho việc hương hoả cũng như
là thu hẹp phạm vi chủ thể có quyền hưởng di sản dùng cho việc thờ cúng ông
bà tổ tiên hơn.
“Hương hoả” theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam chú trọng
nhiều đến ruộng đất (gồm cả hậu điền – phần di sản mà người chết để lại mà
không có con trai, kỵ điền – phần tài sản của người con gái người không sinh
được con trai hiến cho làng, họ để thờ cúng cha mẹ..), chính vì thế mà di sản
dùng cho việc giữ gìn hương hoả có thể được sử dụng vào việc canh tác để sinh
hoa lợi, lợi tức, và người được hưởng phần di sản này dùng lợi tức từ di sản đó
để thờ cúng tổ tiên. Cũng tương tự như pháp luật hiện nay, phần di sản này cũng
không được bán, hay tặng cho nhằm mục đích riêng mà chỉ dùng cho việc
hương hoả tổ tiên, thể hiện truyền thống tốt đẹp đối với cha ông, tổ tiên của
mình.
1.2. Quy định về hương hoả trong bộ Dân luật Sài Gòn năm 1973
1.2.1. Khái quát quy định chung
Bộ Dân luật Sài Gòn quy định tương đối rõ ràng về di sản để hương hoả
trong thiên thứ IV, phần thứ nhất của bộ luật.
Theo đó, di sản để hương hoả có thể có bất động sản hoặc động sản, có
thể lập hương hoả ngay trong chúc thư hoặc tờ phân sản theo các thể thức lập
chứng thư. Người lập di chúc phải đủ 18 tuổi, trừ khi trước đó đã được thoát
quyền do hôn thú.
Nếu tài sản được lập thành hương hoả là của chung hai vợ chồng thì cả
hai bên đều phải đứng lập. Người phối ngẫu thượng tồn không có quyền huỷ, bãi
sự lập hương hoả về phần mình, trừ khi hương hoả được thiết lập để phụng tự cả
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 6
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
hai vợ chồng (Điều thứ 602). Những người không được hưởng di sản đó trong di
chúc (trái chủ) có quyền hay nghĩa vụ liên quan có thể xin huỷ bãi sự thành lập
di chúc nếu điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Quan trọng nhất là bộ Dân luật đã quy định rất rõ ràng về giới hạn di sản
cho việc hương hoả: Phần hương hoả không bao giờ được vượt quá giới hạn 1/5
tổng số tài sản của người thành lập, mà cũng không được quá giới hạn diện tích
tối đa theo luật định. Nếu ngoài hương hoả còn có được thiết lập các tự sản khác
như kỵ điền, hậu điền thì sự giới hạn đó phải được áp dụng cho tất cả các thứ tự
sản hợp lại (Điều thứ 605). Dân luật cũng quy định nếu quá giới hạn 1/5 tổng số
tài sản để lại thì di sản ấy có thể bị giảm thiểu cho vừa tới mức cho phép, theo
thoả thuận của các bên và chủ nợ của người để lại di sản.
1.2.2. Chủ thể được hưởng di sản hương hoả
Người trưởng nam (con cả) của người để lại di sản sẽ là người được
hưởng di sản hương hoả, nếu người trưởng nam không còn thì kế tục cho cháu
đích tôn. Nếu chi trưởng nam không có con trai, thì chi của người con trai thứ
của người chết sẽ được hưởng, nếu chi của người con thứ không có con trai nữa
thì kế tục đến người thứ ba cho đến hết; Nếu người chết không có con trai, cháu
trai nào thì di sản hương hoả sẽ dành cho chi của người em thứ của người để lại
di sản hưởng. Trong trường hợp không còn ai theo các quy định trên thì người
hưởng hương hoả cuối cùng do tổ tiên để lại sẽ được chỉ định người thừa tự để
nhận hương hoả, người quả phụ nếu không tái giá thì cũng có quyền đó, nếu như
người chồng trước khi chết không chỉ định ai.
Việc chỉ định này sẽ do hội đồng đại tộc họp và quyết định, nếu không thể
quyết định thì toà án sẽ chỉ định nhưng người được chỉ định phải đáp ứng điều
kiện là phải được chọn trong các hàng đồng tộc, tồng tông của người để lại
hương hoả.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 7
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
Bộ dân luật phân rất rõ ràng các trường hợp xác lập cũng như chủ thể
được hưởng di sản hương hoả. Ngoài trường hợp hương hoả dùng để thờ cúng tổ
tiên như ở trên thì còn có trường hợp khác nữa là hương hoả dùng để thờ cúng
chính người để lại di sản và người phối ngẫu với họ, và thứ tự cho hưởng cũng
được tuân theo quy luật như chia hương hoả thờ cúng tổ tiên.
1.2.3. Khởi kiện, huỷ bỏ sự chỉ định người thừa hưởng hương hoả
Điều thứ 619 Bộ luật này cũng quy định: “Nếu sự chỉ định người thừa kế
không hợp pháp, tất cả những người trong họ quan hệ đến việc lập tự có quyền
khởi tố xin tiêu huỷ sự chỉ định trong hạn ba năm kể từ ngày hương hoả được
truyền cho người thụ hưởng”. Thời hạn ba năm là thời hạn được quy định để
khởi kiện trong những trường hợp sự chỉ định không hợp pháp, hết thời hạn này,
người thụ hưởng hương hoả sẽ được toàn quyền quyết định và xác lập trọn vẹn
quyền sở hữu của mình đối với hương hoả đó.
Ngoài ra, Bộ luật còn quy định, nếu người được hưởng hương hoả không
xứng đáng với việc phụng tự, thì mỗi người trong họ có liên quan có thể triệu
tập hội đồng đại tộc để xin truất quyền của người ấy, đề nghị đó phải được nêu
rõ lý do và được cơ quan tư pháp là toà án phê chuẩn.
Những người được hưởng hương hoả có thể bị truất quyền trong một số
trường hợp cụ thể như: bỏ hẳn hay sao nhãng quá đáng việc phụng tự; bất hiếu
đối với người lập hương hoả; tự ý đem của hương hoả đi bán hay cầm thế;
không thi hành các nghĩa vụ do luật định khác như giữ gìn của hương hoả. Qua
đó ta thấy được một đặc điểm rất hay trong quy định này. Đó là người được
hưởng hương hoả có thể bị truất quyền nếu như họ không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ hoặc tuân thủ quy định về việc sử dụng di sản để hương hoả, điều này
có điểm tương đồng với Bộ luật dân sự năm 2005 hiện nay ở quy định người
không được hưởng di sản tại Điều 643. Qua đây cũng làm rõ thêm đặc điểm của
di sản hương hoả: đó là không được phép cầm cố, bán hay chuyển nhượng cho
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 8
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
người khác, chức năng của di sản hương hoả là để sinh lợi tức nhằm phục vụ
cho việc thờ cúng ông bà tổ tiên cho hợp đạo lý dân tộc.
1.2.4. Quyền lợi và nghĩa vụ của người được hưởng hương hoả
Theo quy định, người được hưởng hương hoả có thể được hưởng mọi hoa
lợi của tài sản lập thành hương hoả, tuy nhiên trong quá trình hưởng dụng thì họ
phải thận trọng giữ gìn của hương hoả (Điều thứ 693).
Điều đặc biệt là tài sản này dù khi đã được chia cho người thụ hưởng
hương hoả, nhưng nó có thể bị “trưng dụng” vô điều kiện nếu như hội đồng đại
tộc quyết định cải dụng không phục vụ cho người được phụng tự nữa, quyết
định cải dụng này có thể do toàn thể hội đồng đại tộc biểu quyết hoặc nếu không
biểu quyết được thì có thể do toà án quyết định. Nếu như người đứng lập hương
hoả đã quyết định cho người được nhận nhận số tài sản đó, nhưng chưa giao thì
có thể tuỳ ý triệt bãi hương hoả, hoặc công nhận bằng một chứng thư huỷ - bãi
hay bán cho người khác nếu muốn. Hương hoả còn bị tiêu diệt nếu hương hoả bị
phá huỷ hoàn toàn.
Như vậy, ta lại thấy một đặc điểm nữa của di sản để hương hoả, đó là nó
có thể (gián tiếp) được công nhận quyền chiếm hữu, sử dụng khi mà người để lại
hương hoả chưa chết nhưng đã giao cho người được hưởng. Hơn nữa, quy định
về bộ Dân luật Sài Gòn năm 1973 cũng thừa nhận rằng sự kiện pháp lý giao di
sản cho người được hưởng hương hoả không làm phát sinh quan hệ sở hữu đối
với họ, mà chỉ là chiếm hữu, sử dụng tạm thời. Hội đồng đại tộc sẽ là người có
quyền định đoạt khối di sản đó mặc dù đó không phải là tài sản của họ. Người
được hưởng có thể bị hội đồng này truất quyền, huỷ bỏ hay trưng dụng lại khi có
quyết định chung.
2. Quy định về tài sản dùng vào việc thờ cúng trong Bộ luật dân sự
năm 2005
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 9
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
2.1. Vấn đề chung
Thờ cúng là truyền thống văn hoá, liên quan đến phong tục tập quán và
tâm linh, đạo đức của cả dân tộc ta. Chính vì thế, Nhà nước không thể không
thừa nhận việc quan tâm đến vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng của các cá
nhân có nguyện vọng. Nếu như ở Pháp và một số nước khác, quan niệm về di
sản thờ cúng không rõ ràng, thậm chí không được quy định về vấn đề này do tập
quán không coi trọng, thì ở Việt Nam, từ pháp luật thời phong kiến cho đến pháp
luật hiện đại như pháp lệnh thừa kế, Bộ luật dân sự đã có quy định này nhằm giữ
gìn truyền thống, tôn vinh giá trị dân tộc và tôn trọng ý chí của người có di sản
để lại.
Điều 670 BLDS năm 2005 có quy định: “1. Trong trường hợp người lập
di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực
hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng….”.
Di sản dùng vào việc thờ cúng là tài sản được dùng vào mục đích thờ
cúng, tài sản này có chứa đựng bản chất giá trị dùng vào việc thờ cúng chứ chưa
hẳn là dùng để thờ cúng trên bàn hương. [6]
Di sản dùng vào việc thờ cúng được thể hiện qua ý chí, ý nguyện của
người lập di chúc, di sản này không chia mà giao cho người khác quảnl ý. Di sản
này có thể là một tài sản cụ thể, người quản lý không được sử dụng vào mục
đích riêng của mình và không có quyền định đoạt di sản đó, trường hợp người
đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để tiếp tục
quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thoả thuận giao cho người khác quản
lý. [5]
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 10
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
2.2. Căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng
Di sản dùng vào việc thờ cúng được xác lập không chỉ bởi căn cứ quy
định tại Điều 670 BLDS mà còn bởi căn cứ di sản thực tế dùng vào việc thờ
cúng có từ trước khi người để lại di sản chết.
- Về căn cứ pháp lý: Căn cứ pháp lý của việc xác lập di sản dùng vào việc
thờ cúng là ý chí của người để lại di sản, ý chí này thể hiện qua di chúc hợp
pháp (có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản). Di sản thờ cúng cũng là di sản quy
định trong Điều 634 BLDS, vì thế nó đáp ứng đủ điều kiện của di sản, đó là bao
gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung
với người khác. Mà tài sản thì theo Điều 163 BLDS thì gồm có vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản. Như vậy, di sản thờ cúng có thể là vật, tiền, giấy tờ
có giá hoặc các quyền tài sản khác nhau dùng cho việc thờ cúng người được
phụng tự theo nội dung của di chúc.
- Về căn cứ di sản thực tế dùng vào việc thờ cũng đã có từ trước khi người
để lại di sản chết: Những tài sản chung, những đồ thờ, đồ cúng, di sản thờ cúng
từ đời trước để lại, hay những vật, tiền mà hàng năm những người họ hàng thân
thuộc đóng góp, tu bổ, mua sắm… hay tài sản từ nhiều đời trước truyền lại dùng
vào việc thờ cúng mà theo truyền thống của gia đình là để dành cho việc thờ
cúng mà có.
Loại di sản này có thể là của một gia đình hay dành chung cho họ tộc,
cụm gia đình, đại gia đình… Tuy được xác lập từ nhiều căn cứ khác nhau nhưng
căn cứ do luật định là căn cứ rõ ràng nhất, có tính pháp lý nhằm giải quyết tranh
chấp liên quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng.
2.3. Phương pháp xác định số di sản dùng vào việc thờ cúng
Điều 670 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người lập di
chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng….”. Rõ ràng, việc xác
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 11
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
định “một phần” di sản dùng vào việc thờ cúng là vấn đề pháp lý quan trọng
được đặt ra cho việc áp dụng vào thực tế. Trên thực tế, có nhiều di chúc xác định
để lại toàn bộ di sản của họ vào việc thờ cúng hoặc không xác định rõ số di sản
để lại cho việc thờ cúng là bao nhiêu, với tỷ lệ nào, gồm những vật xác định như
thế nào… Vì vậy, việc xác định chúng có ý nghĩa quyết định tới quyền lợi và
nghĩa vụ của nhiều chủ thể khác được nhận thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật. Tuy nhiên, “một phần” theo quy định của pháp luật dân sự tại Điều 670
chưa được xác định rõ ràng dẫn đế nhiều cách hiểu khác nhau về cách tính, cách
chia.
Có nhiều cách nhận định về ý tưởng điều luật. Có ý kiến cho rằng, nếu
khối di sản được chia thành hai hay nhiều phần thì chỉ được dùng một phần đó
để thờ cúng, phần còn lại chia thừa kế theo di chúc hoặc pháp luật. Có ý kiến lại
cho rằng, do người lập di chúc là chủ sở hữu hợp pháp của khối tài sản, nên họ
có toàn quyền định đoạt với số tài sản của mình. Vì vậy mà họ có quyền định
đoạt khối tài sản của mình sau khi họ chết, cho bất kỳ ai với tỉ lệ bao nhiêu và để
làm việc gì (không vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội). Họ có thể định đoạt
toàn bộ số tài sản họ có trong di chúc dành cho việc thờ cúng họ, ông bà tổ tiên
của họ. Bởi xét ra thì pháp luật chỉ đứng giữ vai trò cân bằng lợi ích, mà lợi ích
của những người liên quan đã được quy định tại Điều 699 BLDS năm 2005 bảo
vệ, nên việc ý chí của họ là để lại toàn bộ di sản cho việc thờ cúng cũng không
trái với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục của người
Việt Nam.
Trên cơ sở tìm hiểu kiến thức pháp lý, sinh viên chỉ xin phép đưa ra ý kiến
về ưu, nhược điểm của cả hai cách hiểu mà chưa vội vàng đưa ra nhận định khi
chưa có kinh nghiệm pháp lý.
2.3.1. Với cách hiểu thứ nhất: “một phần” theo tư duy logic lịch sử, toán
học – chia một phần trong số các phần
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 12
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
Nếu theo tư duy logic, thì khối tài sản được chia thành hai hay nhiều phần
thì chỉ được dùng một phần để thờ cúng. Bởi theo pháp luật dân sự từ pháp luật
của Nhà nước phong kiến, như Bộ Quốc Triều hình luật, hương hoả được xác
định là 1/20 điền sản, bộ Dân luật Sài Gòn năm 1973 xác định là 1/5 tổng số
điền sản. Như vậy hương hoả chỉ là một phần nhỏ điền sản của người chết để lại
cho người sống để phụng tự ông bà tổ tiên và chính họ.
Cơ sở pháp lý giải thích cho phương pháp tính này là việc điều luật có
quy định là di sản dùng vào việc thờ cúng được xác định “một phần”, do đó
không thể lấy toàn bộ di sản để sử dụng cho việc thờ cúng; nếu chia di sản thành
nhiều phần thì việc xác định số phần theo cách tối đa là vô cùng và tối thiểu là
hai phần bằng nhau, người lập di chúc có thể dành một phần tuỳ theo ý chí của
mình dành lại ít hay nhiều để chia số phần. Rõ ràng, với cách hiểu này, ta có thể
dùng 80% hay 90%... di sản thay vì dùng tất cả để sử dụng cho việc thờ cúng,
phụng tự.
Tuy vậy, khó khăn với phương pháp này có thể nhận thấy trên thực tế là ở
chỗ: nếu trong di chúc, người để lại di chúc không nói rõ rằng di sản chia thành
bao nhiêu phần, và dành cho thờ cúng bao nhiêu thì sẽ gây khó khăn cho việc
xác định. Nếu toà án hoặc những người liên quan tự xác định số phần thì có lẽ
không thoả đáng và có khả năng không phù hợp với ý chí của người đã chết, dễ
gây tranh chấp trong nội bộ những người được thừa hưởng di sản. Còn nếu xác
định chia làm đôi thì đối với những trường hợp khối tài sản quá lớn sẽ gây thiệt
thòi cho người còn sống được quyền thừa kế theo pháp luật bởi họ mới chính là
đối tượng cần đến di sản nhất và có khả năng phát triển khối tài sản đó nhanh
nhất theo định hướng cũng như phương pháp của họ. Điều này cần phải xem xét
thoả đáng về cách xác định số phần nếu như phương pháp này được quy định cụ
thể trong luật.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 13
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
2.3.2. Với cách hiểu thứ hai – người lập di chúc có thể toàn quyền định
đoạt toàn bộ tài sản của mình dùng cho việc thờ cúng
Phần di sản dùng vào việc thờ cúng được hiểu là phạm vi giá trị di sản đó
và di sản đó chỉ được dùng vào mục đích duy nhất là dùng vào việc thờ cúng.
Quyền định đoạt của người lập di chúc không bị ràng buộc bởi yếu tố nào trừ
khi di sản đó bị tiêu huỷ do có sự biến pháp lý tuyệt đối, hoặc chỉ có thể bị hạn
chế trong hai trường hợp:
- Những người theo pháp luật quy định tại Điều 669 BLDS như con chưa
thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hay con đã thành niên mà không có khả năng lao
động. Đây là những đối tượng có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng cần được
pháp luật bảo vệ quyền, về mặt pháp luật, họ vẫn được hưởng 2/3 một suất thừa
kế nếu họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS.
- Người lập di chúc tuy có toàn quyền định đoạt đối với tài sản của mình
thông qua di chúc, tuy nhiên, nếu trường hợp di sản họ để lại không đủ để thanh
toán nghĩa vụ theo thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 683 BLDS như chi phí hợp
lý theo tập quán cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; tiền trợ cấp cho
người sống nương nhờ; tiền công lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các
khoản nợ khác đối với Nhà nước; tiền phạt; các khoản nợ khác đối với cá nhân,
pháp nhân hoặc chủ thể khác; chi phí cho việc bảo quản di sản và các chi phí
khác.
Rõ ràng, pháp luật không cấm khai thác di sản dùng cho việc thờ cúng
nhằm thu lợi nhuận, vì vậy với cách hiểu như thế này, di sản đó có thể dùng vào
việc sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn nếu nó được quyết định trọn vẹn, qua đó
cũng thể hiện nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc đối với di sản của
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 14
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
họ hơn. Nhưng cũng chính vì thế mà trong một số trường hợp người lập di chúc
để lại toàn bộ di sản dùng cho việc thờ cúng sẽ gây lãng phí nếu như không bán
đi hay chia ra thì sẽ không sinh lợi. Đây cũng là vấn đề gặp phải nhiều lần trong
thực tế và cần phải xem xét điều chỉnh cho phù hợp.
Nhìn chung, cả hai cách hiểu trên đều có thể chấp nhận được với thực tế,
mỗi phương pháp sẽ có ưu điểm ở trường hợp này nhưng lại bộc lộ nhược điểm
ở trường hợp kia. Vì vậy, khi luật chưa quy định rõ ràng thì việc áp dụng cách
hiểu như thế nào sẽ dẫn đến không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.
Vì vậy, một khi di chúc không chỉ rõ ràng để lại bao nhiêu di sản dùng vào việc
thờ cúng thì những người thừa kế có thể thoả thuận để đưa ra quyết định chung
với số lượng di sản.
2.4. Nghĩa vụ của người nhận di sản dùng vào việc thờ cúng
Đúng như tên gọi, di sản dùng vào việc thờ cúng chỉ để dùng cho mục
đích thờ cúng, người sử dụng có thể làm phát sinh lợi nhuận từ di sản đó để làm
kinh phí thờ cúng theo phong tục tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền
nhưng không được đem chia thừa kế tức không được bán, tặng hay cho bất cứ ai
nhằm mục đích riêng. Người được chỉ định theo di chúc hoặc do những người
thừa kế cùng chỉ định ngoài quyền được hưởng lợi nhuận dư ra thì còn phải thực
hiện nghĩa vụ theo đúng tính chất, ý nghĩa của việc người đã chết để lại di sản
cho người còn sống để phụng tự, thờ cúng, chăm sóc tâm linh cho họ và người
thân.
Người được hưởng di sản thờ cúng thực hiện nghĩa vụ thờ cúng theo ý
nguyện của người lập di chúc. Trường hợp họ không thực hiện nghĩa vụ hay
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ như đã thoả thuận hoặc theo sự biểu hiện giá
trị tinh thần có tính hợp lý cần thiết thì những người thừa kế có thể chuyển giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Cách
thức chuyển giao được pháp luật quy định là do thoả thuận giữa những người
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 15
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
thừa kế, những người này ngoài việc thoả thuận với nhau về phương pháp, thủ
tục thờ cúng (nếu trong di chúc không đề cập), họ còn được quyền thoả thuận về
sự chuyển giao người quản lý nếu người được chỉ định ban đầu vi phạm nghĩa
vụ. Mặc dù pháp luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng thực tế việc xác định
nghĩa vụ thờ cúng dừng lại ở mức độ nào, thực hiện ra sao, phương pháp cách
thức như thế nào… chưa được quy định cụ thể, còn trường hợp nếu thoả thuận
quyết định giao cho người khác quản lý không thành; người quản lý di sản dùng
vào việc thờ cúng ban đầu không chấp nhận sự phân công, chuyển giao như vậy
thì sao? Đây là vấn đề cần phải quan tâm dù quy phạm đạo đức vẫn đang điều
chỉnh chúng.
2.5. Căn cứ xử lý di sản dùng vào việc thờ cúng
Khoản 1 Điều 670 quy định: “…nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng”. Di sản nếu rơi vào trường hợp này có thể bị chuyển
giao cho người quản lý khác quản lý và sử dụng nhưng vẫn nhằm vào mục đích
để thờ cúng.
Di sản dùng vào việc thờ cúng có thể bị mất đi tính chất và trở thành tài
sản bình thường trong một số trường hợp. Khoản 1 Điều 670 BLDS cũng quy
định: “… Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”. Ta thấy, người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật đồng thời là người đang quản lý hợp pháp di sản
dùng cho việc thờ cúng có thể được xác lập quyền sở hữu đối với di sản đó nếu
như tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết. Di sản này không còn
là di sản thờ cúng nữa mà là một phần tài sản hợp pháp của người đang quản lý
thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Họ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 16
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
và thực hiện ba quyền năng đó thống nhất đầy đủ như quyền sở hữu hợp pháp.
Tuy nhiên, cần phải quy định rõ ràng hơn ở trường hợp người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng không thuộc diện thừa kế theo pháp luật mà tất cả những
người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản đó sẽ được định đoạt như
thế nào.
III. Một số vướng mắc trong quy định về di sản dùng vào việc
thờ cúng và để xuất bổ sung quy định
1. Về việc xác định “một phần” di sản dùng vào việc thờ cúng
Mặc dù điều luật có quy định về phạm vi lượng di sản có thể được dùng
vào việc thờ cúng, nhưng vẫn có nhiều cách hiểu không thống nhất với nhau về
cách hiểu “một phần” là bao nhiêu, không quá ½ hay có thể toàn bộ, điều này có
thể gây khó khăn cho việc giải quyết các trường hợp tranh chấp.
Như vậy, pháp luật dân sự cần phải quy định rõ ràng hơn về vấn đề này,
lựa chọn cách tính thứ nhất hay thứ hai (đã trình bày ở trên); đồng nhất cách
hiểu thế nào cho đúng với logic, với thực tế giải quyết tranh chấp, các quy định
khác của pháp luật và nền tảng đạo đức xã hội.
2. Việc quy định không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng
Khoản 2 Điều 671 BLDS quy định: “2. Người được di tặng không phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di
sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di
tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”. Tuy
nhiên Điều 670 lại quy định trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết
không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sran của người đó thì không được dành một
phần di sản vào việc thờ cúng. Hai quy định này có phần chưa được tương đồng
do quy định của pháp luật có cho phép việc lập di chúc có thể được thực hiện
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 17
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
trước hoặc sau khi thực hiện nghĩa vụ, hoặc khi lập di chúc thì chưa có nghĩa vụ
nhưng sau khi lập di chúc thì lại phát sinh nghĩa vụ như bồi thường, chi phí mai
táng hợp lý…. Vì vậy, nên xem xét việc quy định không được dành một phần di
sản dùng vào việc thờ cúng theo hướng khác, ví dụ như việc phân chia di sản và
việc thực hiện nghĩa vụ là độc lập với nhau, chỉ trường hợp tổng số di sản không
đủ để chi trả cho nghĩa vụ thì mới không để lại di sản thờ cúng.
Hơn nữa, nếu như khi chia di sản, có một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng và một phần cho những người được hưởng thừa kế theo pháp luật mà số
tiền thanh toán nghĩa vụ bằng một phần đó, thì ưu tiên lấy phần nào ra để chi trả
trước? phần di sản dùng vào việc thờ cúng hay là di sản đem chia thừa kế theo
luật hoặc trong di chúc? Đây là vấn đề cũng đáng phải quan tâm khi nó ảnh
hưởng đến quyền lợi của những người được thừa kế di sản khác.
3. Việc xử lý di sản dùng vào việc thờ cúng
Điều 670 BLDS cũng có quy định trong trường hợp tất cả những người
thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về
người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật. Như đã trình bày ở trên, Điều 670 mới chỉ quy định về trường
hợp giải quyết đối với những người quản lý di sản dùng vào việc thừa kế thuộc
diện thừa kế theo pháp luật mà chưa quy định trường hợp người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng mà không thuộc diện thừa kế của người để lại di sản mà
tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết.
Do người để lại di sản có thể chỉ định bất cứ ai không bắt buộc người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng phải là người thuộc diện thừa kế của họ.
Chính vì vậy, nếu thực tế rơi vào trường hợp đã nêu thì di sản dùng vào việc thờ
cúng trong tình huống này sẽ không được xác lập sở hữu cho ai cả, vậy di sản
này sẽ do ai sở hữu? Nhà nước hay cá nhân nào khác trong gia tộc, họ hàng hay
là bất cứ cá nhân nào khác?
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 18
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
Việc xử lý vấn đề này tương đối phức tạp bởi nếu như đem di sản này ra
chia theo pháp luật cho những người được thừa kế theo pháp luật để họ xác lập
quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt nó một cách toàn vẹn và hợp pháp thì có thể sẽ
làm mất đi ý nghĩa của việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng của người đã
chết. Bản chất của di sản này là để phục vụ cho ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng
của dân tộc chứ không mang ý nghĩa vật chất mặc dù nó được định lượng, đo
đếm và tính toán trên cơ sở toán học, vật chất. Đó là những giá trị tinh thần xuất
phát từ truyền thống lâu đời và phong tục tập quán của cả một dân tộc, một đất
nước từ hàng ngàn năm nay. Vì vậy, việc đem ra chia theo pháp luật cũng tồn tại
cái bất cập của nó.
Để giải quyết tình huống sao cho không trái với đạo đức xã hội, với sự tôn
trọng bản chất ý nghĩa của di sản dùng vào việc thờ cúng thì có thể đặt ra cách
giải quyết dựa trên sự thoả thuận. Những người có liên quan có thể tiếp tục thoả
thuận với nhau để chỉ định ra một người quản lý di sản và thực hiện nghĩa vụ mà
không cần tuân theo quy định của điều luật. Bởi bản chất của giao lưu dân sự
chính là dựa trên nền tảng của sự thoả thuận, thống nhất ý chí, đây là quan hệ
pháp luật dân sự vì thế nên để cho việc thoả thuận được thể hiện. Nhưng xét lại,
nếu sự thoả thuận này không được thống nhất trong quá trình bàn bạc dẫn đến
nhiều luồng quan điểm, tranh chấp… thì việc thoả thuận sẽ được quyết định theo
số đông hay theo phương pháp nào? Vì vậy pháp luật một mặt cần có quy định
thoả thuận trong trường hợp này, nhưng một mặt vẫn phải quy định nếu thoả
thuận không thành thì quyết định theo thể thức nào để có thể giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp phiền hà, phức tạp.
4. Về thời hiệu thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng
Điều 645 BLDS quy định “thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu
chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Rõ ràng, thời hiệu khởi
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 19
Bài tập học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - Di sản dùng vào việc thờ cúng
kiện về thừa là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có tài
sản chết). Tuy nhiên Điều 670 lại quy định một trường hợp xác lập sở hữu nếu
như những người thừa kế theo di chúc đều đã chết. Đặt giả định trường hợp
người để lại di sản lập di chúc cho một người số di sản và giao cho người này
quản lý di sản thờ cúng trong khi vẫn còn có người thừa kế theo pháp luật. Nếu
thời hiệu khởi kiện thừa kế chưa hết, mà người quản lý di sản chết thì theo quy
định, người thừa kế của người đang quản lý di sản đó sẽ được hưởng di sản này.
Điều này là trái với thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, nếu trường hợp này xảy ra, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ
không tồn tại nữa, điều này sẽ làm mất tính chất của di sản theo ý chí của người
đã chết để lại. Điều này cần được xem xét kỹ lưỡng hơn để có cơ sở pháp lý hợp
lý giải quyết tình hình thực tế.
KẾT LUẬN
Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, tuy nhiên, pháp luật thể
hiện ý chí của đông đảo nhân dân, phù hợp với truyền thống đạo đức dân tộc thì
Nhà nước mới có thể quản lý được người dân trong nó. Vấn đề tâm linh là vấn
đề nhạy cảm, nó cũng giống như một dạng đạo đức xã hội tốt đẹp cần phải được
lưu giữ. Rất nhiều quy phạm đạo đức điều chỉnh vấn đề này, nhưng sự cần thiết
phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh tránh các trường hợp không giải quyết
được tranh chấp do xung đột ý chí giữa những người có quyền lợi ích liên quan.
Qua việc tìm hiểu chủ đề, bản thân em nhận thấy một số quy định pháp lý cần
được quy định cụ thể đúng với bản chất pháp lý của di sản dùng vào việc thờ
cúng hơn. Từ đó mong rằng Bộ luật dân sự sửa đổi sắp tới sẽ có những điểm
sáng trong quy định về vấn đề này, hoàn thiện và chặt chẽ hơn, phù hợp với đạo
đức xã hội và truyền thống dân tộc Việt Nam.
Lê Trọng Minh – N10.TL1.N1
Page 20