3
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CPH CÔNG TY
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ CPH CÔNG TY NHÀ NƯỚC
KHÁI QUÁT CHUNG VẾ CỔ PHẦN HOÁ CÔNG TY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm về CPH CTNN.
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là thực thể kinh tế hình thành và phát
triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay từ khi ra đời với tên gọi
Xí nghiệp quốc doanh, đến nay đã tồn tại hơn một nữa thế kỷ, DNNN đã có
những đóng góp to lớn, chứng minh được vai trò then chốt trong sự phát triển
của đất nước. Nhưng từ khi Việt Nam chuyển sang KTTT định hướng XHCN,
các DNNN đã đứng trước mâu thuẫn giữa sứ mệnh và thực trạng. Hoạt động của
các DNNN bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, khả năng cạnh tranh không cao.
Trước tình hình đó, một yêu cầu tất yếu khách quan và mang tính cấp bách được
đặt ra là phải đổi mới, phải cải cách DNNN. Nhưng áp dụng giải pháp chủ yếu
nào cho việc cải cách DNNN lại phụ thuộc vào mô hình kinh tế xã hội mà mỗi
quốc gia lựa chọn. Đối với Việt Nam, xuất phát từ tình hình thực tế và kinh
nghiệm trên thế giới, đặc biệt từ sự thành công của Trung Quốc, CPH được xác
định là giải pháp tối ưu nhất trong quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả
của DNNN.
Vấn đề CPH DNNN ở Việt Nam được thực hiện thí điểm từ năm 1990
trên cơ sở Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 và sau đó được thực hiện
với quy mô rộng lớn. Từ đó đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp lý được ban
hành nhằm điều chỉnh vấn đề CPH các DNNN, nhưng chưa có một văn bản nào
đưa ra khái niệm trực tiếp, đầy đủ về vấn đề này.
Dưới góc độ chính trị: CPH CTNN không đồng nghĩa với tư nhân hoá nền
kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố tư nhân hoá. CPH làm cho sở hữu
trong doanh nghiệp chuyển từ “ảo” đến “ thực”, từ sự kiểm soát bằng chế độ
quan liêu sang sự kiểm soát lợi ích của các chủ sở hữu thực sự [1]. CPH nhằm
thu hút sự tham gia, làm chủ thực sự của người lao động vào CTNN thông qua
việc để họ sở hữu một phần vốn trong chính CTNN mà họ làm việc, biến họ từ
4
người lao động thuần tuý thành người lao động có sở hữu vốn của công ty. Giải
pháp này làm cho công ty có thêm chủ nhân thực sự, bên cạnh chủ nhân trừu
tượng là Nhà nước.
Dưới góc độ kinh tế: CPH là quá trình chuyển đổi từ một doanh nghiệp
được tổ chức dưới các hình thức khác nhau theo mô hình CTCP, theo đó vốn
điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Trách
nhiệm của các thành viên trong hoạt động kinh doanh của công ty phụ thuộc vào
tỷ trọng cổ phần mà họ sở hữu.
Dưới góc độ pháp lý: CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa sở
hữu, thông qua việc chuyển một phần tài sản thuộc khu vực kinh tế công sang
khu vực tư nhân. Những người này trở thành cổ đông của công ty, sở hữu chủ
của doanh nghiệp theo tỷ trọng tài sản mà họ nắm giữ.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển đổi CTNN
thành CTCP đã gián tiếp đưa ra khái niệm về CPH CTNN. Theo đó CPH CTNN
được hiểu là: “chuyển đổi những CTNN không cần nắm giữ 100% vốn sang loại
hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu”.
Nhìn chung hiện nay có rất nhiều quan điểm, nhiều ý kiến dựa trên những
khía cạnh, góc độ khác nhau về CPH. Nhưng tựu chung lại về bản chất CPH
CTNN được hiểu là quá trình chuyển đổi CTNN thành CTCP, và là một quá
trình làm đa dạng hoá sở hữu trong doanh nghiệp, đây là cách hiểu khá phổ biến
ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, là quốc gia có nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi,
một nền KTTT định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN), vấn đề CPH CTNN vẫn
còn nhiều điểm đáng chú ý: đầu tiên xuất phát từ việc xác định vai trò chủ đạo
của DNNN trong nền KTTT và chủ trương không tư nhân hoá khu vực kinh tế
nhà nước, nên từ khi có chủ trương CPH DNNN đến nay, ở nước ta chỉ chuyển
một số DNNN thành CTCP chứ không phải là chuyển toàn bộ. Nhà nước chỉ
CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn điều lệ, và tuỳ
5
thuộc vào mức độ chi phối đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế
mà Nhà nước nắm giữ cổ phần hoặc không nắm giữ cổ phần, hoặc nắm giữ cổ
phần chi phối. Có thể nói CPH ở Việt Nam cũng là một biện pháp duy trì sở hữu
nhà nước đối với tư liệu sản xuất dưới hình thức CTCP. Ngoài ra, chúng ta phải
nhận thức một cách rõ ràng, CPH là một quá trình chuyển đổi CTNN sang
CTCP. Một công ty nhà nước sau khi hoàn tất quy trình CPH, sẽ không chịu sự
điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước mà chịu sự điều chỉnh của Luật
Doanh nghiệp. Khi đã chuyển đổi hình thức hoạt động sang CTCP thì địa vị
pháp lý của doanh nghiệp đó hoàn toàn tuân theo các quy định pháp luật của
CTCP.
2. Mục tiêu và yêu cầu đối với hoạt động CPH CTNN trong giai đoạn
hiện nay.
Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế xã hội mà mục tiêu CPH CTNN đặt
ra ở mỗi quốc gia là khác nhau. Ở Việt Nam, mục tiêu CPH có sự khác biệt so
với các nước khác, điều này bắt nguồn trước hết từ các nguyên tắc chi phối quá
trình CPH CTNN: Việc CPH phải góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh
tế Nhà nước, làm cho tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được sử dụng một cách
hiệu quả, và CPH phải nằm trong chương trình tổng thể và quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội do Nhà nước đặt ra.
Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá ngày
càng phát triển, nền KTTT đòi hỏi tính cạch tranh cao thì việc chuyển CTNN
thành CTCP phải nhằm hai mục tiêu:
1. Chuyển đổi những CTNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhân, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài
chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
và sức cạch tranh của nền kinh tế.
2. Đảm bảo hài hoà lợi ích nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người
lao động trong doanh nghiệp.
6
Hai mục tiêu này được đưa ra căn cứ trên tinh thần Nghị quyết Trung
ương IX và đặc biệt từ thực trạng CPH nội bộ khép kín trong thời gian trước.
Nhấn mạnh vào vấn đề chuyển đổi CTNN mà Nhà nước không cần giữ 100%
vốn sang loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu. Các DNNN ra đời bắt nguồn
từ nhu cầu, sự cần thiết phải điều tiết các hoạt động kinh tế của Nhà nước, Nhà
nước nắm quyền sở hữu các doanh nghiệp này và chi phối nó theo kiểu “quản lý
hành chính”, giành những ưu đãi đặc biệt cho hoạt động sản xuất kinh doanh…,
chính những điều này đã làm mất đi tính tự chủ của DNNN, giảm năng lực hoạt
động, tính cạnh tranh. Phần lớn các DNNN đã lạc hậu về kỹ thuật, yếu kém
trong cung cách quản lý, không còn theo kịp nền kinh tế đang thay đổi nhanh
chóng. Để thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh
tranh của loại hình doanh nghiệp này, điều cần nhất là có vốn đầu tư. Chỉ khi
tăng năng lực tài chính doanh nghiệp mới có điều kiện đổi mới công nghệ, đổi
mới phương thức quản lý từ đó nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh.
Nguồn vốn này sẽ được huy động từ chính những người lao động trong doanh
nghiệp, từ các cá nhân các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài
nước. Ngoài mục tiêu kinh tế, CPH còn phải đảm bảo tính dân chủ, công bằng.
Hiệu quả sản xuất gắn với lao động, nhưng lao động phải đem lại lợi ích cho
người thực hiện, với mục đích nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiêp, thì
một điều rất cần thiết trong hoạt động CPH đó là đảm bảo được hài hoà lợi ích
của các chủ thể.
Thực hiện mục tiêu CPH CTNN, trong thời gian gần đây tiến trình CPH
diễn ra ngày càng nhanh, mở rộng cả về quy mô, số lượng… Tuy nhiên bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nổi cộm lên là vấn đề CPH “khép kín” và
không thực sự gắn kết với TTCK. Trước thực tế như vậy, yêu cầu của việc
chuyển CTNN thành CTCT đã được đề ra, tại khoản 3 điều 1 Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định: CPH CTNN phải
khắc phục CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị
trường vốn, TTCK.
7
Đây là những yêu cầu tất yếu phù hợp với quy luật khách quan của KTTT.
Để thực hiện mục tiêu cải cách, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
DNNN - một loại hình doanh nghiệp đã tồn tại hơn một nửa thế kỷ mà chỉ đơn
thuần huy động thêm vốn sẽ khó có thể hoàn thành được. Cái mà doanh nghiệp
cần là cung cách quản lý mới, những tư duy sáng tạo mới, một sự nhạy bén, linh
hoạt,… Những điều này khó có thể tạo ra từ bộ máy cũ. CPH không chỉ là “khép
kín”, trao tài sản và vốn cho nội bộ doanh nghiệp mà định hướng đúng đắn là
phải thu hút nguồn vốn, nguồn chất xám từ bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là
phải thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược. CPH khép kín, “bình
mới” mà “rượu cũ” đã hết thời, “CPH ở trình độ cao là phải niêm yết trên
TTCK” [2], phải gắn với thị trường vốn. Khi CPH gắn với TTCK sẽ nâng cao
được tính công khai minh bạch của quá trình này, cổ phiếu của các CTNN tiến
hành CPH sẽ được quy định bởi quy luật cung cầu.
3. Mối quan hệ giữa CPH công ty nhà nước và TTCK.
“CPH phải gắn với TTCK”, đó là một trong những yêu cầu được đưa ra
đối với hoạt động CPH trong giai đoạn hiện nay. Nhưng tại sao lại đưa ra yêu
cầu này, tại sao hoạt động CPH chỉ thực sự đạt hiệu quả và đi vào chiều sâu khi
gắn với TTCK? Nguyên nhân xuất phát từ mối quan hệ hai chiều giữa quá trình
CPH các CTNN và TTCK. Quá trình CPH CTNN sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành
phát triển của TTCK và ngược lại, TTCK sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ, cũng
như nâng cao hiệu quả CPH.
3.1. Chứng khoán - thị trường chứng khoán và những tác động đến
tiến trình CPH.
Chứng khoán và TTCK là những biểu hiện của sự phát triển ở mức độ cao
của nền KTTT. Chứng khoán theo Luật Chứng khoán 2006 là “bằng chứng xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn
của tổ chức phát hành”. Còn TTCK (srecurites market) là “nơi giao dịch chứng
khoán và công cụ tài chính có liên quan đến chứng khoán” [3], tại TTCK diễn ra
các hoạt động mua bán các loại chứng khoán, phổ biến là cổ phiếu và trái phiếu.
8
Khi nhà đầu tư mua chứng khoán lần đầu từ các chủ thể phát hành thì việc mua
bán chứng khoán này diễn ra ở thị trường sơ cấp (primary market), đối với thị
trường chứng khoán thứ cấp (secondary market) bao gồm Sở giao dịch chứng
khoán và Thị trường phi tập trung (OTC) sẽ diễn ra hoạt động mua bán chứng
khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
TTCK đã phát triển ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới như Mỹ
(năm 1792), Pháp (năm 1801), Nhật (năm 1878)… và cũng đã hình thành ở các
nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Hungari… Có thể nói TTCK
có vai trò quan trọng, không chỉ tạo nên một thị trường vốn sôi động, huy động
vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh, huy động vốn tập trung dài hạn cho các
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả,… hơn
thế TTCK còn tác động mạnh đến quá trình CPH.
Đầu tiên, TTCK tác động tới tính công khai minh bạch của tiến trình CPH
CTNN. Trong một thời gian dài trước đây quá trình CPH diễn ra nội bộ khép kín
đã không thực sự đem lại hiệu quả đổi mới doanh nghiệp cao. Sự ra đời và phát
triển của TTCK sẽ tạo ra những điều kiện cho hoạt động CPH diễn công khai,
đảm bảo hơn tính công bằng. Điều này được thể hiện trong nhều quy định. Đầu
tiên thông qua sự tham gia của các Công ty chứng khoán, những chủ thể đóng
vai trò trung gian, có khả năng chuyên môn cao và tính chuyên nghiệp trong
hoạt động vào việc xác định giá trị doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện cho vấn đề
“gai góc” này được chính xác rõ ràng. Ở khía cạnh bán đấu giá cổ phần, khi các
CTNN thực hiện bán đấu giá cổ phần qua các TTGDCK đều phải công bố công
khai các thông tin liên quan như: thời gian, địa điểm bán cổ phần, số lượng cổ
phấn dự kiến bán ra. Đối với các CTNN CPH phát hành cổ phần ra công chúng
và tham gia niêm yết trên TTCK thì báo cáo tài chính của công ty này phải được
kiểm toán độc lập, phải công bố với các cổ đông và công chúng về tình hình tài
chính, sản xuất, kinh doanh. Các CTNN CPH muốn niêm yết cũng phải thỏa
mãn một tỷ lệ cổ phần nhất định bán ra bên ngoài. Tất cả những điều này đã tạo
ra những tiền đề nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình CPH, từng
9
bước gắn tiến trình CPH với TTCK.
Thứ hai, sự tồn tại, phát triển của TTCK sẽ tạo tính thanh khoản cho cổ
phiếu của CTNN CPH, làm gia tăng số lượng cổ đông cho các công ty này.
TTCK sẽ có tác động lớn trong trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong các
CTCP trong đó có các CTNN CPH. Thực tế hiện nay một lượng lớn nguồn vốn
đang nằm yên hoặc đầu tư vào vàng, USD, bất động sản thay vì đầu tư vào sản
xuất kinh doanh, trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn. Việc phát
triển và hoạt động hiệu quả của TTCK sẽ khuyến khích sự tham gia của công
chúng vào mua cổ phần của các CTNN CPH, huy động nguồn vốn nhàn rỗi này.
Ngoài ra chỉ với sự tồn tại của TTCK, những cổ đông của CTCP, những nhà đầu
tư đã mua cổ phần mới thực sự yên tâm nắm giữ “hàng hoá cổ phiếu” do cổ
phiếu của công ty niêm yết có tính thanh khoản cao, cổ đông có thể dễ dàng
chuyển nhượng khi có nhu cầu. Còn đối với những nhà đầu tư mới, nhà đầu tư
có nhu cầu đầu tư, muốn đầu tư nhưng còn e dè, TTCK sẽ tạo ra trạng thái tâm
lý tin tưởng, động lực cho họ tham gia mua cổ phần, bởi TTCK với các định chế
trung gian phục vụ thị trường như các Công ty chứng khoán sẽ có vai trò to lớn
trong việc giúp doanh nghiệp CPH ở khía cạnh tư vấn phát hành cổ phần, bảo
lãnh phát hành cổ phần, giao dịch chứng khoán,… những công việc mà tuyệt đại
đa số các CTCP ở nước ta chưa trải qua. TTCK giúp xác định chính xác hơn giá
trị doanh nghiệp của các CTNN CPH, thông qua các giao dịch đối với cổ phiếu
của chúng. TTCK với các nguyên tắc hoạt động công khai, gián tiếp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do nguyên tắc công khai đòi hỏi
các nhà đầu tư phải điều hành tốt hơn, chú trọng đến sự phát triển sản xuất kinh
doanh nhiều hơn. Về phía công chúng, họ có thông tin đầy đủ hơn để xác định
hiệu quả của CTCP nhằm đưa ra lựa chọn thích hợp. Giá của cổ phiếu sẽ được
quy định bởi quy luật cung cầu, tâm lý sợ mua đắt, ngần ngại của nhà đầu tư
tiềm năng sẽ được giải tỏa.
Như vậy, TTCK không chỉ có vai trò quan trọng việc thúc đẩy tiến trình
CPH, mà còn cón ý nghĩa trong việc nâng cao tính công khai, minh bạch của quá
10
trình này. Khi TTCK phát triển đến một mức độ nhất định thì các doanh nghiệp
sẽ tìm thấy ở đó một kênh huy động vốn nhanh chóng và có hiệu quả cao, ít phải
chịu những thủ tục pháp lý phức tạp, những ràng buộc chặt chẽ trong sử dụng
vốn như khi huy động vốn qua hệ thống các Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra,
việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp công ty sau CPH
có nguồn tài chính quan trọng để phục vụ những chiến lược lâu dài của công ty
mà không phải lo trả nợ.
Bên cạnh những tác động tích cực, TTCK Việt Nam hiện nay cũng gây ra
một số khó khăn, làm kìm hãm quá trình CPH. Chính thức bắt đầu hoạt động
vào năm 2000, cho đến nay TTCK đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, song
vai trò của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với tiến trình CPH CTNN nói
riêng vẫn còn mờ nhạt. Xét về quy mô, TTCK chưa tập trung được nhiều các
công ty niêm yết, hoạt động thiếu ổn định rất dễ bị biến động có thể gây thiệt hại
cho các nhà đầu tư và hậu quả làm hạn chế sự “hưng phấn” đối với quá trình
CPH, gây khó khăn cho quá trình này. Ngoài ra, trong hoạt động của TTCK, có
một nguyên tắc quan trọng là công khai, thực hiện theo nguyên tắc này sẽ đem
lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, nhưng đối với một số doanh nghiệp khi
thực hiện CPH phải công bố thông tin, tình hình tài chính sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và có thủ bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng…Điều đó lý
giải một phần tại sao nhiều DNNN tiến hành CPH nhưng không muốn niêm yết
trên TTCK, mặc dù những lợi ích khi niêm yết trên TTCK sẽ đem lại rất nhiều
cơ hội cho doanh nghiệp.
3.2. Những tác động của tiến trình CPH CTNN đối với TTCK.
Ở Việt Nam, sự hình thành và phát triển TTCK không xuất phát từ nhu
cầu đòi hỏi tự nhiên trong việc huy động vốn mà hình thành cơ sở những quy
định và sự can thiệp của Nhà nước. TTCK Việt Nam còn khá mới mẻ vẫn trong
quá trình xây dựng và hình thành, cũng chính vì vậy mà nó chịu tác động rất
mạnh từ hoạt động CPH các CTNN.
Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của của CTCP nói chung và
11
CTNN CPH nói riêng là điều kiện, tiền đề cho sự hình thành TTCK. Khi các
công ty đối vốn ra đời, với nét đặc trưng nhất là sự phân chia tài sản của công ty
theo phần và các thành viên sở hữu công ty theo phần tỷ lệ vốn đã góp, chịu
trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phần vốn góp đó, và phần
vốn này có thể được chuyển nhượng. Cấc trúc vốn này đã tạo ra được khả năng
dịch chuyển lợi ích sở hữu, thể hiện qua các cổ phiếu (chứng chỉ xác nhận cổ
phần trong công ty). Khi thực hiện việc chuyển giao này, lợi ích được chuyển
dịch qua cổ phiếu, chứng chỉ khác, còn bản thân tài sản đã góp vẫn là tài sản
thuộc công ty và công ty vẫn tiếp tục tồn tại. Cuối cùng cùng với sự phát triển
nhanh chóng của của nền kinh tế, nhu cầu vốn trở nên cấp bách, điều cần thiết là
có một nơi để thực hiện các hoạt động mua bán, chuyển dịch các cổ phiếu,
chứng chỉ… và như một tất yếu TTCK được hình thành. Đặc biệt ở Việt Nam,
với đặc trưng là số lượng các CTCP thành lập theo Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp không nhiều thì rõ ràng sự hình thành và tồn tại của TTCK phần lớn phụ
thuộc và chịu sự tác động của tiến trình CPH CTNN. Theo thống kê năm 2005
có 5000 CTCP thì có tới 2000 doanh nghiệp là các CTNN CPH [4].
Bên cạnh việc tạo ra tiền đề cho sự hình thành TTCK, tiến trình CPH còn
tác động đến sự phát triển của thị trường này, quá trình CPH các CTNN sẽ làm
phong phú về số lượng và tác động đến chất lượng hàng hoá trên TTCK. Các
CTNN thuộc đối tượng CPH hoạt động trong rất nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau, từ những doanh nghiệp có quy mô nhỏ đến các công ty, tổng công ty nhà
nước có vốn điều lệ lên đến hàng nghìn tỷ đồng, lĩnh vực hoạt động cũng rất đa
dạng từ các ngành có độ rủi ro cao như: ngân hàng, bảo hiểm,… đến các lĩnh
vực ít có biến động như: điện, nước sinh hoạt,… Việc CPH, bán đấu giá cổ phần
đăng ký niêm yết cổ phiếu của các công ty này sẽ có tác động to lớn đến quá
trình CPH. Thông qua việc làm xuất hiện thêm một lượng CTCP có tiềm lực do
thừa kế vốn, công nghệ, lao động từ các CTNN CPH, hàng hoá chứng khoán
trên thị trường sơ cấp, TTGDCK, đặc biệt trên thị trường OTC sẽ nhiều hơn, ảnh
hưởng của thị trường vốn quan trọng này đến nền kinh tế ngày càng rõ nét hơn.
12
Đặc biệt với sự tham gia của các công ty, tổng công ty lớn vào TTCK còn có tác
dụng dẫn dắt thị trường, góp phần tạo tính ổn định cho thị trường còn rất nhiều
biến động này.
Không chỉ tạo ra nguồn hàng phong phú, hoạt động CPH các CTNN còn
góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá trên TTCK. Các nhà đầu tư khi tham gia
TTCK có tiềm lực về vốn và khả năng chấp nhận mạo hiểm ở mức độ khác nhau
nhưng mục đích chung hướng đến đều là lợi nhuận. Khi tham gia và thực hiện
các quyết định đầu tư, các nhà đầu tư này đều phải tìm hiểu kỹ lưỡng các thông
tin liên quan đến công ty. Vì vậy các CTNN CPH muốn thu hút được nhà đầu
tư, bán được cổ phần đều phải chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
quảng bá doanh nghiệp. Ở Việt Nam tiến trình CPH đã được thực hiện thí điểm
từ năm 1990 và cho đến nay đã có một số lượng lớn các CTNN được CPH,
trong đó có rất nhiều các công ty thực hiện niêm yết trên TTCK, phần lớn các
công ty nay đều đạt được những kết quả cao trong sản xuất kinh doanh, nhất là
sự tăng trưởng về vốn, lợi nhuận một cách đột biến, thần kỳ.
Có thể nói quá trình CPH là nhân tố có ý nghĩ rất lớn đối với sự hình
thành và phát triển TTCK. Tuy nhiên quá trình này không phải là không bộc lộ
những tồn tại ảnh hưởng tới sự phát triển của TTCK, biểu hiện ở những nội
dung sau:
Về vấn đề phát triển thị trường: TTCK ở Việt Nam mới hình thành, hơn
nữa, trên nền tảng của một nền kinh tế chuyển đổi, phát triển ở trình độ thấp nên
quy mô còn nhỏ bé. Trong khi đó các CTNN tiến hành CPH tuy có sự tăng
nhanh về “lượng” nhưng về “chất” vẫn còn nhiều vấn đề. Đại bộ phận các
CTNN đã thực hiện CPH đều có quy mô vừa và nhỏ, sau khi CPH vẫn còn một
phần lớn vốn Nhà nước, những doanh nghiệp này khi tham gia vào TTCK sẽ
gặp nhiều rủi ro và dễ bị lấn át, cộng thêm việc chịu ảnh hưởng của chính sách
Nhà nước khi Nhà nước tăng hay giảm tỷ lệ vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Rõ
ràng, những doanh nghiệp này không thể làm tốt được vai trò dẫn dắt được thị
trường, và trở thành những “trụ cột bất đắc dĩ” [5] của TTCK. Đó là một trong
13
những nguyên nhân dẫn đến sự hoạt động thiếu ổn định, dễ biến động của
TTCK.
Trong việc tạo “nguồn hàng” cho TTCK. Về số lượng hàng hóa, hiện nay
các CTNN CPH ngày càng tăng nhanh về số lượng, lĩnh vực đa dạng, đáng lẽ
phải tạo nguồn hàng phong phú, ổn định cho thị trường, nhưng thực tế lại không
như vậy. Nhiều CTNN đã CPH không muốn niêm yết do nhiều nguyên nhân,
trong đó chủ yếu xuất phát từ phía các doanh nghiệp. Hậu quả là có những thời
điểm TTCK khan hiếm hàng hoá một cách trầm trọng, đặc biệt trên thị trường sơ
cấp (thời điểm năm 2001-2002). Về chất lượng hàng hóa, đây là vấn đề còn
nhiều điểm đáng lo ngại. Các CTNN CPH chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, chưa
nói đến yếu tố kỹ thuật phần lớn lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp, bên cạnh các
công ty làm ăn hiệu quả vẫn còn các công ty hoạt động kém hiệu quả thậm chí
làm ăn thua lỗ. Điều này gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư khi tham gia mua
cổ phần. Việc phát hành cổ phần của các CTNN CPH rất tuỳ tiện, nhiều loại,
không thống nhất; loại do Nhà nước tự tạo, loại do Bộ tài chính cung cấp, có
loại dưới dạng phiếu thu. Việc quản lý không được thực hiện hiệu quả, nhất
quán, gây ra những khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện các giao dịch trong
quản lý nhất là thị trường phi tập trung OTC. Những hạn chế này đã và đang gây
ra những khó khăn lớn đến sự phát triển của TTCK.
Như vậy, TTCK và CPH CTNN có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn
nhau. Chỉ với sự tồn tại của TTCK, những cổ đông của CTCP, những nhà đầu tư
mới thực sự yên tâm nắm giữ “hàng hoá cổ phiếu, trái phiếu”. Mặt khác TTCK
phát triển một mức độ nhất định và hiệu quả sẽ tác động tích cực đến việc CPH
các CTNN. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu và quan điểm chỉ đạo cũng
như phương hướng cải cách DNNN trong thời gian tới là đẩy nhanh quá trình
CPH, mở rộng sang các ngành, lĩnh vực then chốt, đặc biệt gắn CPH với niêm
yết trên TTCK.
14
PHÁP LUẬT VỀ CPH CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
4. Khái niệm pháp luật về CPH CTNN.
CPH là giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN mang tính
chiến lược, có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế, xã hội đất nước.
CPH CTNN động chạm đến sở hữu Nhà nước, sở hữu toàn dân theo hướng giảm
đi tỷ trọng của nó. Do nhiều yếu tố gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước
đây, việc CPH CTNN chứa đựng nguy cơ “chảy máu” ngân sách và sự giàu lên
của một số ít viên chức. Có thể nói CPH là vấn đề nhạy cảm cả về chính trị và
kinh tế. Cũng chính vì vậy, CPH muốn thực hiện được thành công trước hết phải
tiến hành trên một nền tảng pháp lý vững chắc.
Được hình thành cùng thời điểm quá trình CPH DNNN được triển khai
thực hiện, pháp luật về CPH CTNN được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chuyển đổi các
CTNN thành CTCP, nhằm đảm bảo sự quản lý của Nhà nước, phát triển đạt
được mục tiêu đề ra.
Về đối tượng điều chỉnh, pháp luật về CPH các CTNN điều chỉnh các vấn
đề phát sinh trong quá trình chuyển các CTNN thành CTCP như: hình thức,
trình tự thủ tục, điều kiện CPH, vấn đề liên quan đến xác định giá trị doanh
nghiệp, bán cổ phần lần đầu, quản lý của doanh nghiệp, người lao động khi thực
hiện CPH…và các vấn đề liên quan khác.
Về đặc điểm, pháp luật về CPH CTNN mang nhiều nét đặc thù riêng.
Pháp luật về CPH CTNN được xem là một bộ phận của pháp luật Doanh nghiệp,
nhưng nó sẽ không tồn tại mãi, khi tiến trình CPH hoàn thành sẽ không cần thiết
phải tồn tại bộ phận pháp luật này nữa. Tuy là một bộ phận pháp luật mới hình
thành, nhưng cho đến nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, đã có
một số lượng lớn các văn bản điều chỉnh và văn bản hướng dẫn thực hiện được
ban hành. Các văn bản này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như Nghị
định, Thông tư hướng dẫn, Quyết định… Điểm chung của các văn bản này là
hiệu lực pháp lý không cao, do nhiều cơ quan ban hành và thường thay đổi. Điều
15
này có thể được lý giải bởi nền kinh tế nước ta là nền kinh tế đang chuyển đổi,
từ thực tế tình hình kinh tế xã hội đến chính sách pháp lý đều có sự thay đổi
nhanh, hơn nữa vấn đề CPH lại là vấn đề hết sức phức tạp cần phải thực hiện
từng bước, vừa thực hiện, vừa rút kinh nghiệm.
5. Những yêu cầu đối với pháp luật về CPH CTNN trong giai đoạn
hiện nay.
Như đã nói CPH là một vấn đề “nhạy cảm”, muốn thực hiện được hiệu
quả phải có một cơ sở pháp lý vững chắc. Để đạt được điều này, pháp luật về
CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay phải đảm bảo những yêu cầu sau.
Thứ nhất: pháp luật về CPH CTNN phải góp phần giữ vững định hướng
XHCN, đảm bảo kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, góp phần ổn định và phát
triển kinh tế. Không giống như các nước Đông Âu và Liên xô cũ, CPH thiên về
“tư nhân hoá”, Việt Nam có mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN,
nên CPH ở Việt Nam phải giữ vững định hướng XHCN. Có như vậy mới đảm
bảo được sự thống nhất, đồng bộ, đảm bảo hiệu quả việc thực hiện các đường lối
chính sách của Nhà nước, đảm bảo kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong sự phát triển. Khi thực hiện CPH, Nhà nước không tiến hành chuyển tất cả
các CTNN đang tồn tại thành CTCP thuộc sở hữu nhiều thành phần mà chỉ
chuyển một bộ phận CTNN không giữ vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh
tế quốc doanh và có khả năng kinh doanh có lãi. Mặt khác tiến trình CPH CTNN
phải đảm bảo ổn định tình hình kinh tế - xã hội đất nước, khi chúng ta giải quyết
tốt các vấn đề đặt ra cho quá trình CPH sẽ vừa góp phần đạt được mục đích cải
cách doanh nghiệp vừa giữ vững ổn định kinh tế - xã hội.
Thứ hai: thực hiện pháp luật về CPH các CTNN phải đảm bảo tính hiệu
quả, gắn với thực tiễn theo kịp KTTT và hội nhập quốc tế. Sau một thời gian
thực hiện CPH CTNN, tuy đã thu được một số kết quả nhưng nhìn chung có thể
nhận thấy trong việc thực hiện chủ trương CPH, tiến độ còn chậm, kết quả đạt
được luôn thấp hơn chỉ tiêu. Đứng trước thực tế đó một yêu cầu đối với quá
trình CPH trong giai đoạn hiện nay là phải thực hiện hiệu quả, không chỉ tăng ở
16
“lượng” mà còn cả về “chất” các CTNN được CPH. Triển khai sâu rộng các quy
định pháp luật liên quan đến CPH, khắc phục tình trạng “lách luật” hay chạy đua
thực hiện văn bản cũ trước khi văn bản pháp luật mới được ban hành đã xảy ra ở
một số thời điểm chuyển giao. Đặc biệt trong nền KTTT và xu thế hội nhập
ngày càng cao, khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) thì pháp luật về CPH CTNN càng đứng trước
những yêu cầu mới, thách thức mới. Thực hiện cam kết gia nhập WTO sẽ đặt ra
nhiều cơ hội nhưng cũng rất nhiều khó khăn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong đó có sự phát triển của quá trình CPH CTNN.
Thứ ba: pháp luật về CPH CTNN phải thống nhất với hệ thống pháp luật
nói chung, đặc biệt phải đồng bộ với pháp luật TTCK nhằm gắn gắn kết quá
trình CPH với TTCK. Một thực trạng hiện nay trong hệ thống pháp luật ở Việt
Nam là thiếu tính thống nhất, vì vậy với vai trò là một bộ phận trong cả hệ
thống, pháp luật về CPH phải đảm bảo được tính đồng bộ với các quy định khác,
đặc biệt là pháp luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, xuất phát từ mối quan hệ mật thiết
giữa quá trình CPH với TTCK, pháp luật về CPH CTNN còn cần tạo ra những
quy định nhằm gắn kết ràng buộc quá trình CPH với TTCK. Có như vậy mới
thực sự nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau
thực hiện CPH, khắc phục được một số tồn tại trong quá trình CPH hiện nay,
đồng thời cũng thúc đẩy TTCK phát triển.
6. Sự hình thành và phát triển pháp luật về CPH CTNN.
CPH là giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả DNNN
mang tính triệt để và tối ưu nhất đối với nước ta. Tuy nhiên để trở thành một
chính sách Quốc gia, một chiến lược cải cách thành phần kinh tế Nhà nước như
hiện nay thì tiến trình CPH đã phải trải qua một chặng đường dài.
CPH DNNN ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1990, cơ
sở cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày
10/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng và sau đó được thực hiện ở quy mô rộng lớn.
Thực ra vấn đề CPH được đề cập từ năm những năm 1987 song thực tế nước ta
17
lúc đó chưa cho phép triển khai giải pháp này. Quyết định số 143/HĐBT đã đề
cập đến việc nghiên cứu và làm rõ về mô hình chuyển Xí nghiệp quốc doanh
thành CTCP, tuy nhiên Quyết định mới chỉ quy định một vài vấn đề liên quan
đến CPH DNNN như: mục đích của việc làm thử; điều kiện để các Xí nghiệp
quốc doanh được chọn để tổ chức thành CTCP có phát hành cổ phiếu; Trình tự
tổ chức Xí nghiệp quốc doanh thành CTCP… Về cơ bản, Quyết định 143/HĐBT
chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho CPH.
Tiếp theo Quyết định 143/HĐBT, Chính phủ ban hành Chỉ thị 2002/CP
ngày 06/08/1992 và sau đó vài tháng ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg ngày
04/03/1993 về việc CPH DNNN. Hai văn bản này đã bổ sung tương đối rõ mục
tiêu, đối tượng, cách thức tiến hành CPH, cũng như cách thức xây dựng doanh
nghiệp, quản lý người lao động trong doanh nghiệp CPH.
Sau ba năm thực hiện thí điểm CPH DNNN, ngày 07/05/1996, Chính phủ
ban hành Nghị định số 28/NĐ-CP về “chuyển một số DNNN thành CTCP”.
Chưa đầy một năm sau đó, Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 25/NĐ-CP
ngày 26/03/1997 sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP. Nghị định số
28/1996/NĐ-CP và Nghị định 25/1997/NĐ-CP đã tạo được những cơ sở pháp lý
vững chắc để chuyển các DNNN sang hình thức CTCP, đánh dấu bước chuyển
từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn thực sự triển khai. Các văn bản này đã quy
định rõ mục tiêu, điều kiện, thủ tục CPH, thẩm quyền cho phép CPH, quyền và
lợi ích của người lao động khi DNNN CPH.
Tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa pháp luật về CPH, ngày 29/06/1998, Chính
phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP bổ sung thêm các quy định về hình
thức CPH, về quyền mua cổ phần, các vấn đề liên quan đến định giá tài sản của
DNNN CPH. Chính nhờ những quy định này nên việc CPH được tiến hành trên
cơ sở pháp lý vững chắc hơn, thúc đẩy quá trình CPH tiến nhanh hơn một bước.
Để tạo thêm động lực cho tiến trình CPH, ngày 19/06/2002, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển đổi DNNN thành CTCP.
Với 36 điều, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã quy định nhiều vấn đề cụ thể hơn về
18
tiến trình CPH và CPH DNNN đã được tiếp cận một cách chính xác. Nghị định
64/2002/NĐ-CP đã điều chỉnh một số vướng mắc mà trong quá trình CPH các
văn bản trước đây không giải quyết được: về đối tượng áp dụng, không có
những hạn chế đối với diện DNNN cần CPH, hạn chế cổ phần chỉ áp dụng đối
với doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn theo những danh mục mà
Chính phủ công bố; quy định về chủ thể được mua cổ phần cũng được mở rộng,
pháp luật không hạn chế mức mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH mà Nhà nước
không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Mức hạn chế 30% chỉ áp dụng đối với nhà
đầu tư, người nước ngoài ở một số ngành nghề nhất định mà Chính phủ quy
định (điều 5); về vấn đề chính sách đối với người lao động, tại Nghị định
64/2002/NĐ-CP đã có quy định cụ thể, ràng buộc doanh nghiệp CPH trong vấn
đề sử dụng lao động,… Nghị định 64/2002/NĐ-CP cũng quy định rõ ràng về
vấn đề xử lý nợ của DNNN trước khi CPH. Việc xác định giá trị doanh nghiệp
CPH được thực hiện thông qua Hội đồng định giá hoặc Công ty kiểm toán, hay
các tổ chức kinh tế có chức năng định giá…Có thể nói với nhiều quy định khá
cụ thể, chi tiết, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã có ý nghĩa rất lớn, góp phần đẩy
nhanh tốc độ CPH Các DNNN. Theo thống kê năm 2002 đã có 164 DNNN được
CPH, sang năm 2003 con số này đã tăng gần gấp 3 lần với 425 doanh nghiệp và
bộ phận doanh nghiệp được CPH [4].
Tuy đạt được nhiều kết quả trong triển khai thực hiện, nhưng Nghị định
64/2002/NĐ-CP cũng bộc lộ nhiều hạn chế, nổi bật nhất là các đó là các quy
định chưa đưa vấn đề CPH thoát ra khỏi tình trạng khép kín, nội bộ, không gắn
với TTCK. Trước yêu cầu mới và thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương
khoá IX, Chính phủ đã ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển
CTNN thành CTCP. Sự ra đời của Nghị định 187/2004/NĐ-CP với nhiều điểm
mới cơ bản về nhiều mặt đã tạo nên một bước ngoặt trong cách thức CPH, xoá
bỏ tình trạng CPH khép kín, từng bước đưa CPH gắn với TTCK. Tiến trình CPH
đã thực sự được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu.
Nội dung cơ bản của Nghị định 187/2004/NĐ-CP bao gồm 8 chương với
19
43 điều, có thể khái quát như sau:
Chương 1: Những quy định chung, gồm 8 điều nhưng đã chỉ ra rất rõ ràng
nhiều vấn đề, trong đó đáng chú ý nhất là các quy định: về đối tượng và điều
kiện CPH, bao gồm: các Tổng công ty nhà nước, các công ty nhà nước độc lập,
các đơn vị thành viên hoạch toán phụ thuộc của Tổng công ty nhà nước. Các đối
tượng này khi thực hiện CPH phải còn vốn Nhà nước (chưa bao gồm giá trị
quyền sử dụng đất) sau khi đã giảm trừ giá trị tài sản không cần dùng, tài sản
chờ thanh lý, các khoản lỗ, giảm giá tài sản… Đối với các đơn vị hoạch toán phụ
thuộc của Tổng công ty nhà nước còn phải thoả mãn điều kiện đó là đủ điều kiện
hoạnh toán độc lập và việc CPH không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của
doanh nghiệp.
Về hình thức CPH CTNN, theo Điều 3 Nghị định 187/2004/NĐ-CP các
CTNN được thực hiện CPH dưới 3 hình thức sau: 1. Giữ nguyên vốn Nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn; 2. Bán
một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán một
phần vốn hiện có tại doanh nghiệp vừa phát hành thêm cổ phiếu; 3. Bán toàn bộ
vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn Nhà
nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vừa phát hành thêm
cổ phiếu.
Về đối tượng và điều kiện mua cổ phần: Đối tượng mua cổ phần bao gồm
các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, đối với nhà đầu tư
nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp CPH phải mở tài khoản
tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Ngoài các vấn đề trên, trong chương I còn quy định một số nội dung như
mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển CTNN thành CTCP, chi phí thực hiện CPH,
các quy định về cổ phần, cổ phiếu, cổ đông sáng lập…
Chương II: quy định về việc xử lý tài chính khi CPH, đây là quy định
20
tương đối rõ ràng của Nghị định 187/2004/NĐ-CP. Theo đó, đối với mỗi loại tài
sản lại có những biện pháp xử lý khác nhau như: đối với tài sản do doanh nghiệp
thuê, mượn, tài sản khác không phải của doanh nghiệp thì không tính vào giá trị
doanh nghiệp; đối với tài sản thuộc công trình phúc lợi, CTCP được tiếp tục
quản lý,… Đối với các khoản nợ phải thu, khoản nợ phải trả, các khoản dự
phòng lỗ hoặc lãi, đều có những quy định cụ thể chi tiết cho từng loại.
Chương III: đề cập đến một nội dung khác quan trọng trong thực hiện
CPH CTNN, đó chính là xác định giá trị doanh nghiệp. Nghị định
187/2004/NĐ-CP đã quy định hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đó
là phương pháp tài sản: xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị thực tế
toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, và phương pháp dòng tiền chiết khấu:
xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
tương lai. Ngoài hai phương pháp này, các CTNN khi CPH có thể lựa chọn các
phương pháp khác sau khi đã có ý kiến của Bộ tài chính.
Chương IV của Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định về việc bán cổ phần
và quản lý sử dụng tiền bán phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Tại điều 26
của Nghị định quy định đối tượng được mua cổ phần lần đầu bao gồm: người
lao động trong doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược, và các nhà đầu tư khác.
Những đối tượng này được mua theo số lượng và giá ưu đãi. Ví dụ đối với
người lao động được giảm 40% so với giá đấu bình quân, đối với nhà đầu tư
chiến lược giảm 20%... Tiếp đó điều 30 của Nghị định đã đưa ra các phương
thức tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu bao gồm: đấu giá trực tiếp tại doanh
nghiệp, đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian hoặc tại TTGDCK, việc lựa
chọn hình thức nào dựa trên giá trị cổ phần bán ra. Đối với vấn đề quản lý phần
vốn Nhà nước tại CTCP và việc quản lý sử dụng số tiền thu từ CPH CTNN đã
được quy định khá chi tiết và rõ ràng trong điều 36 của Nghị định.
Chương V đề cập đến một vấn đề hết sức nhạy cảm đó là “chính sách đối
với doanh nghiệp và người lao động sau CPH”. Theo quy định của Nghị định
187/2004/NĐ-CP doanh nghiệp khi thực hiện CPH được hưởng một số ưu đãi
21
như miễn một số loại lệ phí, hưởng ưu đãi như đối với doanh nghiệp thành lập
mới… ngoài ra đối với công ty thực hiện niêm yết trên TTCK còn được hưởng
thêm những ưu đãi theo quy định của pháp luật về chứng khoán và TTCK. Về
phía người lao động trong doanh nghiệp, Nhà nước và doanh nghiệp sẽ có trách
nhiệm đảm bảo thỏa đáng quyền lợi cho họ, có thể tiếp tục làm việc, tiếp tục
tham gia đóng Bảo hiểm xã hội hoặc nếu không tiếp tục làm việc sẽ được nhận
trợ cấp thôi việc, mất việc. Đặc biệt khi công ty tiến hành CPH, người lao động
còn được mua cổ phần với giá ưu đãi.
Chương VI của Nghị định 187/2004/NĐ-CP với mục đích xác định rõ
ràng quyền hạn cũng như trách nhiệm của các chủ thể liên quan đã quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của các cổ đông chiến lược, các cổ đông khác.
Cuối cùng chương VII và VIII đã đưa ra việc thực hiện Nghị định; quyền
hạn trách nhiệm của các Bộ, Ban, Ngành, và về điều khoản thực hiện. Nghị định
187/2004/NĐ-CP sẽ thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của
Chính phủ và có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng công báo. Các quy định
trước đây về CPH trái với Nghị định này đều không có hiệu lực thi hành.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CPH CTNN VÀ
NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI TTCK
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CPH CTNN
7. Quy định về đối tượng CPH và điều kiện CPH.
Quy định về đối tượng và mục đích CPH là một vấn đề quan trọng nhưng
phức tạp, việc xác định đúng đối tượng CPH trong từng giai đoạn sẽ ảnh hưởng
đến tốc độ và hiệu quả của quá trình.
Trước đây, Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định đối tượng CPH là “các
doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp quy định tại điều 1 của
Luật Doanh nghiệp nhà nước (trừ các doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ
100% vốn điều lệ). Như vậy, đối tượng CPH còn rất hạn chế, không thể hiện
22
được tinh thần gắn CPH CTNN với sự phát triển của TTCK, và với quy định
này dường như Nhà nước vẫn còn muốn nắm giữ một khối lượng DNNN khá
lớn, kết quả là trong số các CTNN được CPH thì số lượng các công ty lớn không
nhiều, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo thống kê vào thời điểm
năm 2002-2003 trong số các DNNN được CPH thì trên 80% CTCP có vốn Nhà
nước dưới 10 tỷ [4]. Trước thực trạng này và thực hiện tinh thần Nghị quyết
Trung ương IX, ngày 24/8/2004 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số
155/2004/QĐ-TTg về chỉ tiêu danh mục phân loại CTNN và công ty thành viên
hoạch toán độc lập thuộc tổng công ty. Theo Quyết định 155/2004/QĐ-TTg số
doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước cần giữ lại 100% vốn đã thu hẹp đi đáng kể,
Nhà nước chỉ giữ lại 100% vốn đối với các công ty hoạt động trong những
ngành, lĩnh vực quan trọng ảnh hướng đến quốc phòng - an ninh, đồng thời
những doanh nghiệp mà Nhà nước cần giữ cổ phần chi phối cũng giảm đi rất
nhiều. Ngoài ra đối tượng có thể được CPH còn mở rộng sang các ngành, lĩnh
vực nhạy cảm như dầu khí, hàng không…
Tiếp tục thực hiện mục tiêu mở rộng đối tượng CPH, ngày 16/11/2004
Chính phủ đã ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển DNNN
thành CTCP. Nếu so sánh với các văn bản pháp lý trước đây thì Nghị định
187/2004/NĐ-CP đã thực sự tạo nên một bước chuyển biến mới trong quy định
về đối tượng và điều kiện CPH CTNN, đem lại ý nghĩa về nhiều mặt.
Về đối tượng CPH, quy định trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã được
mở rộng, Nghị định áp dụng đối với CTNN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ thực hiện CPH bao gồm: các CTNN (kể cả Ngân hàng
Thương mại Nhà nước và các tổ chức tài chính Nhà nước); CTNN độc lập; công
ty thành viên hoạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu
tư và thành lập; đơn vị hoạch toán phụ thuộc của tổng công ty nhà nước. Như
vậy, đối tượng CPH đã bao gồm cả công ty Nhà nước, Tổng công ty lớn, đây có
thể nói là một thay đổi rất tích cực, bởi các Tổng công ty là những “ông lớn” có
tiềm lực về mọi mặt, khi tham gia CPH không những sẽ thúc đẩy quá trình CPH
23
mà còn góp phần vào sự phát triển ổn định của TTCK. Theo thống kê, đến tháng
9 năm 2006 cả nước có 105 tập đoàn và tổng công ty, bao gồm 7 tập đoàn, 13
tổng công ty 91, 83 tổng công ty 90 và 2 tổng công ty trực thuộc tập đoàn than
khoáng sản Việt Nam [6].Đây sẽ là một tiềm lực lớn mà chúng ta cần khai thác
trong thời gian tới.
Không chỉ thay đổi về quy mô, Nghị định 187/2004/NĐ-CP còn mở rộng
cả lĩnh vực thực hiện CPH. Việc CPH không chỉ dừng lại ở các CTNN hoạt
động trong những ngành nghề thông thường mà đã mở rộng sang các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, ... Những lĩnh vực được
coi là “nhạy cảm” của nền kinh tế, với lợi nhuận lớn, độ rủi ro cao, đồng thời có
vai trò và tầm ảnh hưởng lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.
Triển khai những quy định về đối tượng thực hiện CPH trên thực tế, trong
2 năm 2005-2006, chúng ta sẽ tiến hành CPH 3 tổng công ty là: tổng công ty
Thương mại- xây dựng (thuộc Bộ công nghiệp); tổng công ty điện tử tin học
Việt Nam (thuộc Bộ bưu chính-viễn thông); tổng công ty Xuất nhập khẩu xây
dựng Việt Nam. Tiếp đó trong kế hoạch 2006-2010, thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ X, vấn đề CPH các tổng công ty, doanh nghiệp lớn không còn
là thí điểm mà đã thành chủ trương với số lượng các tổng công ty trong diện
CPH được đặt ra rất nhiều. Về vấn đề CPH các Ngân hàng thương mại và tổ
chức tài chính, vào ngày 21/9/2005, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng đã ký ban hành quyết định số 230/2005/QĐ-TTg về việc thí điểm CPH
Ngân hàng Thương mại Việt Nam (VCB). Đây là Ngân hàng Ngoại thương
quốc doanh đầu tiên ở Việt Nam được phép CPH [7].
Ngoài những tiến bộ về đối tượng CPH, Nghị định 187/2004/NĐ-CP còn
có thay đổi trong quy định về điều kiện CPH. Nếu như trước đây Nghị định
64/2002/NĐ-CP quy định các DNNN tiến hành CPH không phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thì tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP
quy định các CTNN chỉ được tiến hành CPH khi còn vốn Nhà nước (chưa bao
gồm giá trị quyền sử dụng đất), sau khi đã giảm trừ giá trị tài sản không cần
24
dùng, tài sản cần thanh lý, các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài sản, công nợ
không có khả năng thu hồi và chi phí CPH. Quy định này đã đảm bảo CTNN
hậu CPH có khả năng hoạt động, loại bỏ tình trạng nhiều DNNN làm ăn kém
hiệu quả thậm chí thua lỗ cũng được CPH, vừa tốn kém, vừa mất thời gian. CPH
không phải là hình thức để “hợp thức hoá” việc “bán đất” thu tiền trong khi vốn
Nhà nước không còn sau quá trình xử lý tài chính.
8. Quy định về hình thức, và thủ tục CPH CTNN
8.1. Hình thức CPH CTNN.
Việc tiến hành CPH CTNN theo hình thức nào là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định sự thành bại của quá trình. Nhằm đảm bảo hiệu quả của
quá trình CPH, tạo sự đa dạng, mở cơ hội cho các doanh nghiệp lựa chọn hình
thức CPH phù hợp, kế thừa quy định tiến bộ từ Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Nghị
định 187/2004/NĐ-CP đã đưa ra 3 hình thức CPH CTNN đó là: 1. Giữ nguyên
vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn; 2.
Bán một phần vốn hiện có tại doanh nghiệp kết hợp vừa bán bớt phần vốn
DNNN vừa phát hành thêm cổ phiếu; 3. Nhà nước bán toàn bộ vốn hoặc kết hợp
vừa bán toàn bộ vừa phát hành thêm cổ phiếu. Có thể nói trong bối cảnh các
doanh nghiệp của nước ta hầu hết đang còn thiếu vốn để đầu tư chiều sâu, đổi
mới công nghệ, thì quy định về hình thức CPH Nghị định 187/2004/NĐ-CP
được đánh giá là hợp lý. Các CTTN có nhiều lựa chọn hơn để xác định hình
thức CPH sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đơn vị mình,
nâng cao hiệu quả quá trình CPH. Đặc biệt đối với hình thức “giữ nguyên vốn
Nhà nước hiện có, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn”. Nghị định
187/2004/NĐ-CP đã bổ xung thêm điều kiện: “chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp
CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ”. Mức huy động không được tuỳ tiện phụ
thuộc vào ý chí doanh nghiệp, mà sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của
CTCP, cơ cấu vốn điều lệ của CTCP được phản ánh trong phương án cổ phần.
Quy định này đã tạo ra một chuẩn mực cho doanh nghiệp, dễ dàng khi thực hiện,
và cũng đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
25
Tuy có nhiều tiến bộ trong quy định về hình thức CPH song Nghị định
187/2004/NĐ-CP vẫn chưa thực sự khắc phục được những bất cập của các văn
bản trước đây (trừ Quyết định 143/HĐBT), không tiếp cận CPH với tư cách là
một giải pháp chuyển DNNN thuộc sỡ hữu một chủ thành doanh nghiệp thuộc
nhiều chủ sở hữu. Trên thực tế khi tiến hành CPH các CTNN đã xảy ra tình
trạng doanh nghiệp không bán được cổ phần. Theo GS.Ts Lê Hồng Hạnh: “
Những hình thức CPH như bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh
nghiệp, bán toàn bộ vốn hiện có tại doanh nghiệp không phải là hình thức CPH
nếu như người mua không tham gia mua cổ phần. CPH phải gắn liền với việc
phát hành cổ phiếu hoặc phát hành chứng chỉ góp vốn” [1].
8.2. Thủ tục CPH CTNN
Theo kết quả nghiên cứu của Công ty kiểm toán Erust & Yuong thì thời
gian trung bình để CPH một CTNN là 410 ngày [8]. Nhưng Nghị định
187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC đã quy định đơn giản hóa đi
rất nhiều, thời gian tối thiểu để doanh nghiệp hoàn tất việc CPH là 9 tháng, nếu
vượt quá thời gian quy định này thì các chi phí, cơ quan quyết định CPH và ban
chỉ đạo phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, như vậy các doanh nghiệp sẽ
không thể đắn đo kéo dài việc CPH.
Quy trình mới sẽ bao gồm các bước: xây dựng phương án CPH (trong đó
bao gồm việc thành lập ban chỉ đạo và tổ chức giúp việc; chuẩn bị hồ sơ tài liệu,
xác định giá trị doanh nghiệp …), tổ chức bán cổ phần và hoàn tất việc chuyển
DNNN thành CTCP. Trong mỗi bước đều quy định chi tiết, cụ thể thời gian phải
thực hiện và hoàn thành, vì vậy thời gian sẽ nhanh hơn. Trước đây, quy định
CPH một doanh nghiệp rất phức tạp, doanh nghiệp phải trình lên nhiều lần mới
được chấp thuận, nhưng theo quy trình mới này thì Chính phủ chỉ đưa ra danh
mục và duyệt phương án CPH còn tất cả các cơ quan khác phải chịu trách nhiêm
triển khai. Chính vì vậy, doanh nghiệp không có lý do gì để chậm trễ.
9. Quy định về đối tượng và điều kiện mua cổ phần.
Quy định về đối tượng mua cổ phần là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng
26
lớn đến hiệu quả của quá trình CPH, đặc biệt tác động trực tiếp đến hoạt động
sản xuất của CTNN “hậu” CPH. Có thể nó rằng các quy định về đối tượng mua
cổ phần trong pháp luật hiện hành đã có một bước tiến đáng kể nếu chúng ta so
sánh với các văn bản pháp luật trước đây.
Tại Quyết đinh 203/1992/CP, pháp luật mới chỉ quy định bán cổ phần cho
các cổ đông là “cán bộ công nhân viên chức”, hay Nghị định số 28/1996/NĐ-CP
ngày 7/5/1996 về chuyển một số DNNN thành CTCP cũng chỉ quy định thí điểm
bán cổ phần cho cổ đông nước ngoài. Đến Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định
về đối tượng mua cổ phần đã có sự thay đổi căn bản, không còn tồn tại sự phân
biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, ngay cả các tổ chức
cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng được mua cổ
phiếu của CTNN CPH. Kế thừa và hoàn thiện quy định tiến bộ tại Nghị định
64/2002/NĐ-CP, Nghị định 187/2004/NĐ-CP tiếp tục có một bước tiến đáng kể,
theo điều 4 của Nghị định những đối tượng có quyền mua cổ phiếu của CTNN
CPH là:
Các nhà đầu tư trong nước bao gồm: Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
hoạt động theo pháp luật Việt Nam, cá nhân Việt Nam định cư ở trong nước.
Các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Có thể nói, quy định mở rộng cho nhà đầu tư nước ngoài được thể hiện
trong Nghị định 64/2002/NĐ-CP và kế tiếp là Nghị định 187/2004/NĐ-CP là
một chiến lược hết sức sáng suốt. Bởi lẽ mục tiêu đề ra của CPH là huy động
vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội trong nước và ngoài nước để tăng
năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đặc biệt khi Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Việc hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài là bất hợp lý trong khi đây
27
lại chính là nhà đầu tư có tiềm lực tài chính rất mạnh.
Quyết định về đối tượng mua cổ phần trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP
cũng đã khắc phục hạn chế còn tồn tại trong Nghị định 64/2002/NĐ-CP. Theo
điểm b khoản 1 điều 4 Nghị định 64/2002/NĐ-CP có quy định: “Các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân nước ngoài kể cả người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, và người nước ngoài định cư ở Việt Nam”. Như vậy ở đây không có
sự loại trừ các nhà đầu tư nước ngoài có thể trở thành cổ đông sáng lập, và nếu
vậy các cổ đông và các nhà đầu tư nước ngoài có tên trong danh sách cổ đông
trong hồ sơ đăng ký kinh doanh để thành lập công ty. Điều này có được coi là
thành lập công ty hay không, trong khi theo quy định của Luật Doanh nghiệp
các tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam không
được quyền thành lập doanh nghiệp. Khắc phục vấn đề này khoản 2 điều 4 Nghị
định 187/2004/NĐ-CP chỉ quy định: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài mới được quyền mua cổ phần.
Về điều kiện mua cổ phần, Nghị định 64/2002/NĐ-CP và Nghị định
187/2004/QĐ-CP đều thống nhất quy định điều kiện mua cổ phần đối với đối
tượng là nhà đầu tư nước ngoài: “nhà đầu tư nước ngoài khi có nhu cầu mua cổ
phần ở các doanh nghiệp CPH phải mở tài khoản ở các tổ chức cung ứng dịnh
vụ thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt
động mua, bán cổ phần; nhận sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư
mua cổ phần đều thông qua tài khoản này”.
10. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập, Quyền Nghĩa vụ của cổ đông
10.1. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập.
Về cổ phần: Đây là quy định mới của Nghị định 187/2004/NĐ-CP, theo
khoản 1 điều 7, cổ phần chính là “vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau”.
Mệnh giá một cổ phần quy định thống nhất là 10.000đ. Theo Nghị định số
64/2002/NĐ-CP, Thông tư 76/2002/TT- BTC, Thông tư 80/2002/TT- TC,