I.
Giới thiệu chung
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường vô cùng đa dạng. Thiệt hại hữu hình xâm phạm tức thời
đến lợi ích kinh tế, ảnh hưởng sức khỏe dưới dạng tồn trữ chất độc hại trong cơ thể…dễ
nhận diện; nhưng cịn có những thiệt hại tiềm ẩn di hại lâu dài như tổn thương tình thần,
suy tàn dần hệ sinh thái, gây biến động sinh hoạt cộng đồng…thì một người dân bình
thường khó có thể tìm ra “chứng cứ” để địi bồi thường, và khơng biết phải địi bồi thường
bao nhiêu. Đó chính là cái thiệt thịi mà người dân sống trong môi trường bị ô nhiễm đang
phải gánh chịu. Có rất nhiều doanh nghiệp đã vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua
trách nhiệm với xã hội, thờ ơ trước sức khỏe con người. Họ làm điều này bằng rất nhiều
cách khác nhau. Tất cả hành vi đó đều vi phạm pháp luật, trái với đạo đức và đi ngược với
chủ trương xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước, đi
ngược với xu thế phát triển chung của thế giới. Một trong những vụ việc nổi cộm gần đây
là việc công ty TNHH Bột ngọt Vedan VN đã che giấu hành vi xả thẳng nước thải từ hoạt
động sản xuất của mình xuống dịng sơng Thị Vải.
Các nhà khoa học gọi đó là sự thất bại của thị trường, do những hành vi tư lợi dẫn đến
những kết quả khơng có hiệu quả. Ngoại ứng tiêu cực cũng được gọi là “cái xấu công
cộng” đặc biệt là khi ngoại ứng tương đối lớn so với cầu. vậy trước những ảnh hưởng xấu
của Cơng ty Vedan, chính phủ đã có những giải pháp có hiệu quả nào?
“Vận dụng lý luận về ngoại ứng để phân tích tổn thất phúc lợi xã hội do Vedan gây ra và
đưa ra giải pháp can thiệp của chính phủ nhằm xử lý ngoại ứng này” chính là đề tài mà
nhóm chúng em muốn nghiên cứu.
Nội dung
1. Lý thuyết về ngoại ứng
1.1.
Khái niệm
II.
Khi hành động của một đối tượng (có thể là cá nhân hoặc hãng) có ảnh hưởng trực tiếp
đến phúc lợi của một đối tượng khác, nhưng những ảnh hưởng đó lại khơng được phản
ánh trong giá cả thị trường thì ảnh hưởng đó được gọi là ngoại ứng.
Phân loại
Ngoại ứng tiêu cực: là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba (ngoài người
mua và người bán trên thị trường), những chi phí đó lại khơng được phản ánh trên
giá cả thị trường.
Ngoại ứng tích cực: là những lợi ích mang lại cho bên thứ ba (khơng phải người
mua và người bán) và những lợi ích đó cũng không được phản ánh vào giá bán.
1.3.
Đặc điểm ngoại ứng
- Chúng có thể do cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng gây ra.
1.2.
Trong ngoại ứng, việc ai là người gây tác hại (hay lợi ích) cho ai nhiều khi chỉ
mang tính tương đối.
- Sự phân biệt tính tích cực hay tiêu cực của ngoại ứng chỉ mang tính tương đối.
- Tất cả ngoại ứng đều phi hiệu quả, nếu tính dưới góc độ xã hội.
2. Phân tích tổn thất phúc lợi xã hội do Vedan gây ra
2.1.
Tóm tắt diễn biến
-
Cơng ty thực phẩm Vedan, 100% vốn của Đài Loan, xây dựng nhà máy năm 1991 tại
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, cách TP HCM 75km. Đến nay, các hạng mục đã đưa
vào sản xuất gồm có: nhà máy Xút – Clo, nhà máy bột ngọt, nhà máy tinh bột, nhà máy
tinh bột biến đổi, nhà máy lysine…
Ngày 13-9-2008, Cục Cảnh sát môi trường (C36) Bộ Công an cho biết vừa phối hợp với
Đoàn kiểm tra liên ngành của Bộ Tài nguyên – Môi trường bắt quả tang nhà máy của
Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam (gọi tắt là Công ty vedan, huyện Long Thành,
tỉnh Đồng Nai) xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải
Đặc biệt Vedan từng là đơn vị có “lịch sử” liên quan việc xả nước thải chưa qua xử lý ra
sông.
Năm 2005, chỉ khoảng một năm sau khi Công ty Vedan hoạt động thì việc nhà máy sản
xuất xả chất thải làm ô nhiễm môi trường cũng bắt đầu…”phát huy tác dụng”. Một số
nơng ngư dân kiếm sống trên dịng sông Thị Vải phải bỏ nghề. Họ đã khiếu nại và lúc đó
được cơng ty hỗ trợ cho chút đỉnh. Màu nước nâu nâu, đỏ đỏ chạy dài hàng chục kilomet.
Khi đem mẫu nước đi phân tích thấp nồng độ oxy hòa tan trong nước thấp (khoảng
1.3mg/lit) kéo dài hàng chục kilomet trên sơng Thị Vải, dường như khơng cịn sự sống ở
những đoạn sông này. Tuy nhiên mỗi lần cảnh sát mơi trường đi kiểm tra thì lại khơng
thấy bất cứ sai sót, gian lận nào trong việc xử lý nước thải của Vedan. Nguyên nhân là
Công ty Vedan đã thiết kế và lắp đặt hệ thống bơm, đường ống kỹ thuật để bơm dịch thải
sau lên men của Nhà máy sản xuất bột ngọt và Lysine ra cầu cảng số 1 qua đường ống
cao su gân thép chìm sâu dưới sông Thị Vải nhằm đổ trực tiếp ra sông Thị Vải. Một hành
vi che đậy khéo léo nhằm che mắt cơ quan chức năng. Và phải đến khi bị lực lượng Cảnh
sát mơi trường rình bắt quả tang thì hành vi Vedan dùng thủ đoạn tinh vi, xả nước thải
không qua xử lý trực tiếp vào sông Thị Vải gây ảnh hưởng tới cuộc sống, sức khỏe…của
hàng ngàn hộ dân TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu mới được đưa ra ánh
sáng. Vedan đã đồng ý đền bù nông dân nuôi trồng thủy sản Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng
Tàu 15 tỷ đồng.
Năm 2006, Đoàn kiểm tra liên ngành của Bộ Tài nguyên – Môi trường từng “hỏi thăm”
đột xuất Công ty Vedan. Vào thời điểm này, Cơng ty Vedan có ba hệ thống xử lý nước
thải khác nhau: hệ thống xử lý nước thải chế biên tinh bột bằng công nghệ UASB (gọi tắt
là hệ thống UASB), xử lý nước thải chế biên tinh bột bằng hệ thống hồ sinh học tự nhiên,
hệ thống xử lý nước thải sinh học sản xuất lysine từ mật rỉ đường. Dù có xây dựng 3 hê
thống xử lý và xả thải “hiện đại”, nhưng tất cả là nhằm đối phó, đúng hơn là ngụy trang
với cơ quan chức năng Trung ương và địa phương. Theo nhận định của đồn thanh tra, hệ
thống này khơng đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết cho việc xử lý kỹ thuật, nếu
khơng nói là làm cho có. Vì thế nước thải sau xử lý của hệ thống UASB còn lưu lại hàm
lượng cyanure ở mức vượt tiêu chuẩn cho phép thấp nhất là 7 lần và cao nhất là 34 lần,
trong khi tiêu chuẩn VN giới hạn tiêu chuẩn hàm lượng loại chất độc hại này có trong
nước thải sau xử lý phải nhỏ hơn 0,1mg/lit.
Mức độ nguy hại cho mơi trường chứ dừng lại ở đó. Trong nước thải sau xử lý của hệ
thống hồ sinh học ở Cơng ty Vedan, cơ quan chức năng cịn phát hiện có mẫu nước thải
mà hàm lượng chất cyanure chứa trong đó vượt tiêu chuẩn VN đến 5600 lần – một mức
gây ô nhiễm độc hại rất lớn. Trong nước thải sau hệ thống xử lý này, nhiều chất ô nhiễm
khác như BOD (nhu cầu oxy sinh học), COD (nhu cầu oxy hóa học), ammoniac…đều
vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Riêng tiêu chuẩn về vi sinh vật gây bệnh vượt tiêu
chuẩn (mức cao nhất) đến 1460 lần. Ngoài ra, nước thải sau xử lý của hệ thống xử lý
nước thải sản xuất lysine còn hàm lượng cyanure, BOD, COD…vượt tiêu chuẩn một vài
lần.
Cũng tại đợt kiểm tra trong năm 2006 của Bộ Tài ngun – Mơi trường, đồn kiểm tra đã
phát hiện ở Cơng ty Vedan có hiện tượng xả trực tiếp nước thải không qua xử lý vào sơng
Thị Vải. Sau khi phân tích nước thải tại cống thoát nổi thuộc bộ phận sản xuất phân vi
sinh của Công ty Vedan, cơ quan chức năng đánh giá tuy khối lượng nước thải nhỏ nhưng
hàm lượng các chất ô nhiễm rất cao. Như cyanure vượt tiêu chuẩn 76 lần, trong khi nhiều
chất gây ô nhiễm khác vượt tiêu chuẩn từ vài chục đến hàng trăm lần…
Năm 2008 Vedan lại bị phát hiện xả chất thải chưa qua xử lý vào sông Thị Vải với 1 hệ
thống đường ống chằng chịt như trận đồ bát quái, với thủ đoạn tinh vi nên phải sau rất
nhiều tháng theo dõi Cục cảnh sát môi trường mới bắt được quả tang hành vi này.
Sau khị bị phát hiện bê bối về môi trường, Vedan đã bị UBND tỉnh Đồng Nai buộc tạm
dừng sản xuất khắc phục hiệu quả, cụ thể là rà sốt lại hệ thống xử lý nước thải. Và ơng
Yang Kun Xiang, Phó chủ tịch HĐQT, đại diện Cơng ty TNHH Vedan đã gửi lời xin lỗi
đến người dân Việt Nam vì hành động sai trái này của Cơng ty. Việc ô nhiễm môi trường
đã rõ ràng. Hậu quả thiệt hại đã được xác định. Nhưng đến nay trách nhiệm pháp lý của
Vedan đới với người bị thiệt hại vẫn chưa được làm rõ và nhà nước cũng chưa có cách xử
lý thật công bằng, đúng mức, hậu quả từ việc làm sai trái đó vẫn chưa được khắc phục.
Sau hàng năm trời đợi các cơ quan chức năng phân định, đá quả bóng trách nhiệm, nhiều
người đã khấp khởi khi thấy con số 150 tỷ đồng đã xác định Vedan buộc phải bồi thường.
Nhưng Vedan thiếu thiện chí khi cho rằng khoản tiền phải trả cho thiệt hại đã gây ra với
người dân là tiền “hỗ trợ” chứ không phải tiền “đền bù” để rồi cứ liên tục đưa ra cái giá
quá bèo bọt. Sau nhiều lần ký kèo trả giá, Vedan dường như đã giành phần thắng khi
Đông Nai đã chấp nhận khoản tiền hỗ trợ 15 tỷ so với con số 1600 tỷ đồng mà Hội đồng
nhân dân tỉnh Đồng Nai thống kê và yêu cầu bồi thường. Với TP HCM Giờ (TPHCM)
45,7 tỷ bằng con số 7 tỷ đồng. Sau nhiều lần thương lượng, Vedan cũng đã trả lời văn bản
của UBND TPHCM yêu cầu công ty này bồi thường nông dân Cần mới chỉ đồng ý hỗ trợ
10/53,6 tỷ mà Bà Rịa – Vũng Tàu đưa ra. Không chỉ con số đang teo tóp đi mà cách bồi
thường của Vedan còn thể hiện thái độ xem thường. Với việc công ty Vedan từ chối mức
bồi thường trên 54 tỷ đồng đối với TPHCM và trên 53 tỷ đồng với Bà Rịa – Vũng Tàu.
Hai địa phương này quyết tâm khởi kiện Cơng ty Vedan ra tịa. Tuy nhiên bà con tỉnh
Đồng Nai lại cùng nhất trí việc hỗ trợ và đề nghị nâng mức hỗ trợ lên 20 tỷ đồng vì cho
rằng khó khăn là người dân khơng có chứng cứ để khởi kiện. Sau khi được Đoàn luật sư
tỉnh Đồng Nai trực tiếp tư vấn thì người dân tỉnh Đồng Nai tiếp tục tiến hành làm hô sơ
để kiện Vedan.
Và cho đến những ngày cuối tháng 7/2010, nông dân 3 tỉnh thành ven sông Thị Vải đồng
loạt gửi đơn khởi kiện Vedan ra tòa án địa phương dù mức bồi thường đã được đại diện
phía Vedan “nhích” dần lên.
Trước thài độ cị kè nhích mức giá bồi thường của Vedan, người dân cả nước bức xúc. Và
sản phẩm của Vedan bắt đầu bị người tiêu dùng “tẩy chay” vào đầu tháng 8/2010. Không
chỉ trong các hệ thống kinh doanh siêu thị mà ngay tại các cửa hàng bán lẻ của Thủ đơ Hà
Nội cũng có dấu hiệu “quay lưng lại” với sản phẩm của Vedan. Các hệ thống siêu thị lớn
như Co.opmart, BigC sẽ không kinh doanh sản phẩm bột ngọt, hạt nêm mang nhãn hiệu
Vedan. Đồng thời cũng buộc Vedan phải có biện pháp thu hồi sản phẩm cho đến khi khắc
phục xong sự cố và giải quyết thỏa đáng cho bà con nông dân.
Lúc này vai trò của người tiêu dùng phát huy tác dụng. Trước thái độ cương quyết của
người tiêu dùng, ngày 9/8, Công ty Vedan đã chấp nhận bồi thường 100% thiệt hại cho
nông dân TP.HCM là 45,74 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là 53,619 tỷ đồng theo
con số thống kê của Viện TN&MT thuộc ĐH Quốc gia TP.HCM đưa ra trước đó. Riêng
con số thiệt hại của tỉnh Đồng Nai là 119,581 tỷ đồng sẽ được các cơ quan chức năng tỉnh
Đồng Nai Và Vedan cùng tính tốn tiếp.
Sau gần 2 năm bị phát hiện xả chất thải không qua xử lý ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm
môi trường, làm thiệt hại kinh tế cho nông dân khu vực, Vedan đã phải chấp nhận bồi
thường thiệt hại đúng bằng 100% số tiền yêu cầu của người dân 3 tỉnh, thành phố là gần
220 tỷ đồng.
2.2.
Những tổn thất do Vedan gây ra mà xã hội đang phải gánh chịu
Thành lập từ 1954, công ty thực phẩm Vedan, 100% vốn của Đài Loan, đã gây ra nhiều
vụ ồn ào về ô nhiễm môi trường. Nhà máy của Vedan chuyên làm bột ngọt và bột mỳ
nằm sát sông Thị Vải, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, đã từng gây ra hiện tượng tôm
các chết hàng loạt.
Không chỉ sông Thị Vải mà tồn tuyến lưu vực sơng Đồng Nai, từ lâu đã được báo động
là ô nhiễm do nước thải các nhà máy sản xuất của 56 khu công nghiệp và khu chế xuất
đang hoạt động.
Theo kết quả điều tra và khảo sát của Cục Bảo vệ môi trường, nước sông Đồng Nai, đoạn
từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại, đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ
lửng, đáng chú ý đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5492-1995. Tại đây,
chất rắn lơ lửng thường vượt tiêu chuẩn 3-9 lần, giá trị COD (nhu cầu oxy hóa học) vượt
1,8-2,8 lần. Một số khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường Tp.HCM gần đây, cũng
cho những con số tương tự về mức độ ơ nhiễm của hệ thống sơng Sài Gịn (thuộc lưu vực
Đồng Nai). Cũng theo kết quả khảo sát này, các sơng khác trong tồn lưu vực, chất lượng
nước cũng đang bị suy giảm trầm trọng.
Ơ nhiễm nhất trong tồn bộ lưu vực đó là sơng Thị Vải, trong đó có một đoạn sơng dài
trên 10km gọi là “dịng sơng chết”. Đây là đoạn sông từ sau khu vực hợp lưu Suối Cả sông Thị Vải khoảng 2km đến khu cơng nghiệp Mỹ Xn.
Hình ảnh nước thải của Vedan ra sông Thị Vải
Tại đây, nước bị ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hơi thối cả ngày
lẫn đêm, cả khi thủy triều. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, giá
trị DO ở đây thường xuyên dưới 0,5mg/l, có nơi chỉ 0,04mg/l. Với giá trị DO gần như
bằng 0 như vậy, các lồi sinh vật hầu như khơng có khả năng sinh sống, các nhà khoa học
đã gọi đoạn sông này là “đặc sệt sự chết”.
Việc xả nước thải chưa qua xử lý của công ty Vedan là ngun nhân chính làm sơng Thị
Vải bị ô nhiễm trầm trọng, chiếm khoảng 89%, trên chiều dài 10-11km. Phần cịn lại do
nước thải của các khu cơng nghiệp, doanh nghiệp khác trong khu vực gây nên.
Vùng ảnh hưởng nặng gồm một phần các xã Phước An, Long Thọ (huyện Nhơn Thạch)
và các xã Long Phước, Phước Thái (huyện Long Thành) của tỉnh Đồng Nai; các xã Mỹ
Xuân, thị trấn Phú Mỹ, Tân Phước thuộc huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tổng diện tích tự nhiên vùng này là 157,9km2 trong đó có hơn 1.990 ha đất nuôi trồng
thủy sản. Vùng này bị ảnh hưởng do nồng độ các chất ô nhiễm như DO, BOD5, COD,
NH4+, NO2-…đủ gây chết hoặc làm chậm sự phát triển của thủy sản tự nhiên hoặc nuôi
trồng với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc từ 85% trở lên.
Phần ảnh hưởng nhẹ gồm một phần xã Phước An (Nhơn Trạch – Đồng Nai), một phần xã
Tân Phước và Phước Hòa (Tân Thành, Bà Rịa – Vũng Tàu) và một phần xã Thành An
(Cần Giờ - TP.HCM). Vùng này cũng bị ảnh hưởng do các chất ô nhiễm DO, BOD5,
COD, NH4+, NO2- không phù hợp với điều kiện nuôi trồng thủy sản hoặc ảnh hưởng đến
sự phát triển của thủy sản tự nhiên với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc
từ 50%.
2.3.
Phân tích tác động ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra cho xã hội
Biểu đồ Ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra
Gọi MEC là Chi phí ngoại ứng biên mà người nơng dân phải chịu.
MPC là Chi phí tư nhân biên, tức là mọi khoản chi phí để thực hiện sản xuất của Vedan.
MB là Lợi ích biên mà Vedan thu được, ứng với từng mức sản lượng.
MSC là đường chi phí biên đối với xã hội, gồm 2 bộ phận cấu thành: Chi phí tư nhân biên
của nhà máy MPC, chi phí ngoại ứng biên mà người nơng dân phải gánh chịu MEC.
Theo đồ thị ta thấy:
Cơng ty Vedan vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì họ sẽ sản xuất có hiệu quả nhất tại
điểm MB=MC. Vì MC mà Vedan quan tâm là MPC nên họ sẽ sản xuất tại điểm B, tại đó
MB=MPC. Do đó là sản lượng tối ưu của thị trường.
Sản lượng tối ưu của xã hội được xác định tại điểm A với sản lượng sản xuất là <, tại đó
MB=MSC.
- Chi phí mà xã hội bỏ thêm để sản xuất thêm lượng đến là diện tích hình thàng AB. Vậy
nên tổn thất xã hội phải chịu là diện tích tam giác ABC.
Hoặc có thể phân tích theo cách khác:
- Vì lợi ích rịng mà Vedan thu được khi sản xuất thêm một đơn vị sản lượng là khoảng
cách dọc giữa đường MB và MPC nên tổng lợi nhuận tăng thêm khi Vedan duy trì sản
lượng từ đến là tam giác ABE. Những người nuôi thủy sản tại khu vực sông Thị Vải sẽ
bị thiệt do Vedan gây ra được xác định bởi MEC. Khi sản lượng mà Vedan tăng từ đến
là diện tích hình thang AB. Vì diện tích hình thang này đúng bằng diện tích hình thang
ACBE nên sau khi bù đắp phần lợi nhuận tăng thêm của Vedan thì xã hội vẫn bị thiệt
phần diện tích ABC.
III. Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra
3.1. Những giải pháp dựa trên lý thuyết
3.1.1. Các giải pháp tư nhân
- Quy định quyền sở hữu tài sản:
+ Nếu nhà máy sở hữu dịng sơng:
Nhà máy sẵn sang khơng sản xuất thêm hàng hóa nếu người nơng dân đền bù cho họ một
số tiền khơng thấp hơn lợi ích rịng mà họ thu được từ việc sản xuất (MB – MPC). Và
người nông dân sẵn sàng đền bù số tiền mà họ phải bỏ ra không lớn hơn mức thiệt hại mà
học phải chịu từ việc sản xuất của nhà máy (MEC). Giao dịch đền bù sẽ được thực hiện
tại đơn vị sản lượng j nào đó thỏa mãn:
MEC tại j ≥ Mức đền bù ≥ MB – MPC tại j
+ Nếu người nơng dân sở hữu dịng sơng (trường hợp Vedan)
Nhà máy sẵn sang đền bù cho người nông dân mức đền bù khơng lớn hơn lợi ích mà họ
thu được từ việc sản xuất (MB – MPC). Và người nông dân sẵn sàng chấp nhận mức đền
bù nếu nó khơng nhỏ hơn thiệt hại mà họ phải chịu. Kết quả trong trường hợp này sẽ
ngược lại với bất đẳng thức trên:
MEC tại j ≤ Mức đền bù ≤ MB – MPC tại j
- Sát nhập là một cách để giải quyết ngoại ứng. Nếu người nông dân và công ty Vedan
liên kết lại với nhau thì lợi nhuận của liên doanh giữa hai bên sẽ cao hơn tổng mức lợi
nhuận đơn lẻ của từng bên khi chưa liên kết. khi đó, liên doanh sẽ phải cân nhắc lợi ích
của cả 2 hoạt động và dừng lại ở mức sản lượng tối ưu xã hội vì đó cũng là điểm mà lợi
nhuận của liên doanh là lớn nhất.
Người nông dân và cơng ty Vedan có thể liên kết lại bằng cách là các nông, thủy phẩm
của người nông ngư dân là nguyên liệu để chế biến sản phẩm của Vedan. Vedan nên đa
dạng hóa các loại hình sản phẩm của mình để có thể tận dụng được nguyên liệu thu mua
từ người dân…
- Dùng dư luận xã hội:
Trong trường hợp của Vedan thì sức mạnh của dư luận xã hội đã phát huy đầy đủ tác
dụng của nó. Bằng chứng là mọi người dân Việt Nam – với tư cách là các cấp chính
quyền, giới truyền thơng, các luật sư cho tới người tiêu dùng đều đứng về phía người
nơng dân. Giới truyền thông liên tục đăng tải các thông tin về diễn biến vụ việc ơ nhiễm
này, các cấp chính quyền tìm cách đưa ra chứng cứ để đưa ra khung hình phạt cao nhất
đối với Vedan, các luật sư thì tư vấn cho người dân khởi kiện Vedan, người tiêu dùng thì
tẩy chay sản phẩm của Vedan. Khi đó, Vedan đã buộc phải chấp nhận các khung hình
phạt và chấp nhận bồi thường 100% cho người dân.
3.1.2. Các giải pháp của chính phủ
- Đánh thuế:
Khi chịu thuế này đường MPC của nhà máy sẽ dịch chuyển song song lên thành MPC + t.
Để tối đa hóa lợi nhuận nhà máy sẽ đặt MB = MPC + t, tức là giảm sản lượng sản xuất.
MEC tại mức sản lượng tối ưu xã hội chính là đoạn A, hay cũng là đoạn AE. Để khơng có
tổn thất xã hội thì thuế đánh tối đa là t = MEC. Khi đó chính phủ sẽ thu thêm được một
khoản thuế là t., khoản thuế này sẽ được chính phủ sử dụng để đền bù cho người nông
dân.
- Trợ cấp:
Giả sử với mỗi đơn vị sản lượng nhà máy ngừng sản xuất chính phủ sẽ trợ cấp cho họ một
khoản bằng AE. Khi đó nhà máy sẽ cân nhắc xem mức trợ cấp với lợi ích biên rịng khi
sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Theo hình vẽ, với tất cả các đơn vị sản phẩm từ đến ,
ta có thể thấy mức lợi ích biên rịng của nhà máy luôn thấp hơn mức trợ cấp nên nhà máy
sẽ không sản xuất những đơn vị sản phẩm này nữa.
Nếu những đơn vị sản lượng từ trở xuống thì mức trợ cấp lại ít hơn lợi ích biên rịng, nên
chính sách trợ cấp khơng cịn hấp dẫn nhà máy nữa. Nhà máy sẽ dừng sản xuất tại
Giải pháp này đi ngược lại các quan điểm đạo đức xã hội, hơn nữa nó có thể lơi kéo các
nhà sản xuất khác vào nên khơng được sử dụng.
- Hình thành thị trường về ơ nhiễm:
Trong trường hợp này, chính phủ sẽ trao cho nhà máy các giấy phép xả thải. Có 2 hình
thức trao giấy phép xả thải cho nhà máy:
+ Thứ nhất, chính phủ sẽ cho các doanh nghiệp đấu giá để mua các giấy phép xả thải này.
Mức giá của những giấy phép này sẽ là mức cân bằng thị trường sao cho lượng ô nhiễm
đúng bằng mức chính phủ mong muốn.
Chính phủ tuyên bố bán đấu giá giấy phép xả thải, cung cấp giấy phép xả thải là đường
thẳng đứng tại điểm . Đường cấp giấy phép là đường dốc xuống. Mức giá cho mỗi giấy
phép là .
+ Thứ hai, thay vì đấu giá, chính phủ sẽ phát không cho các nhà máy một số lượng giấy
phép xả thải nhất định. Nếu nhà máy muốn thải thêm ra mơi trường thì sẽ phải mua số
giấy phép này từ các nhà máy khác. Kết quả cũng tương tự như trường hợp 1.
- Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải:
Theo cách này, mỗi hãng sản xuất sẽ bị yêu cầu chỉ được gây ô nhiễm ở một mức nhất
định, gọi là mức chuẩn thải, nếu không sẽ bị đóng cửa.
Trục hồnh thể hiện mức khí thải mà các nhà máy thải ra mơi trường. Đường MB là lợi
ích biên của mỗi hãng khi gây ơ nhiễm.
Nếu chính phủ áp đặt một mức chuẩn thải, chỉ cho phép các hãng được xả thải đến mức ,
hãng X phải giảm mức xả thải từ xuống , còn hãng Y lại được tăng mức thải từ lên đến .
Mức chuẩn thải này khơng hiệu quả vì nó đã khiến X giảm mức gây ô nhiễm xuống dưới
mức hiệu quả.
Tại , M < MS nên tổn thất phúc lợi là tam giác ABC. Nếu áp dụng phí xả thải ở mức thì
hãng sẽ sản xuất ở điểm C và sự phi hiệu quả biến mất.
Tương tự với hãng Y sẽ xả thải nhiều hơn mức hiệu quả vì tại , M > MS. Tổn thất phúc
lợi xã hội là tam giác FGH. Tổn thất này sẽ khơng cịn nếu áp dụng phía xả thải là /tấn.
3.2. Giải pháp thực tế
Trong vụ sai phạm của Vedan, các cơ quan ban ngành của Chính phủ đã chính thức vào
cuộc để làm rõ những sai phạm của cơng ty này và có những xử phạt thích đáng. Thủ
tướng chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương và kiên quyết
tổ chức thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đối với
Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam.
Thủ tướng cũng chỉ đạo, các cơ quan này phải trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các biện pháp xử lý này, báo cáo kết quả lên Thủ tướng.
Thủ tướng Chính phủ lưu ý, phải đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao
động tại công ty và tổ chức, các cá nhân khác có liên quan khi xử lý vụ Vedan. Thủ tướng
cho phép Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam tiếp nhận và sử dụng đúng quy định khoản
tiền thu được từ việc xử phạt vi phạm hành chính, truy thu phí bảo vệ mơi trường trốn
nộp…của Cơng ty Vedan gây ô nhiễm trên lưu vực sông Thị Vải.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc lưu vực hệ thống
sông Đồng Nai khẩn trương xây dựng và thực hiện các dự án thuộc đề án tổng thể xử lý,
khắc phục ô nhiễm môi trường lưu vực sơng Đồng Nai, trong đó có sơng Thị Vải.
Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan rà soát, nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ xem
xét, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ mơi
trường; bảo đảm sự đồng bộ, tính hiệu lực, hiệu quả với chế tài mạnh, có tính răn đe cao,
phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương kiên quyết khơng vì lợi nhuận
trước mắt mà coi nhẹ, buông lỏng vấn đề bảo vệ môi trường. Nhất thiết phải kết hợp chặt
chẽ và hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển
bền vững đất nước.
Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cần chỉ đạo đảy mạnh hơn nữa việc thực thi pháp
luật về bảo vệ môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước; tăng cường lực lượng cán bộ,
đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật để công tác kiểm tra, thanh tra và xử
phạt vi phạm đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới.
Bên cạnh việc chỉ đạo xử lý kiên quyết vụ Vedan của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài
nguyên & Môi trường đã văn bản gửi UBND các tỉnh, thành: Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng
Nai, TP.HCM và Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam về việc kiểm tra tình hình
khắc phục hậu quả vi phạm của Công ty Vedan theo chỉ đạo của Thủ tướng CHính phủ.
Bộ TN – MT đã làm việc với Cơng ty CPHH Vedan Việt Nam về tình hình giải quyết đền
bù thiệt hại về kinh tế và môi trường, trách nhiệm chi trả kinh phí và hỗ trọ thiệt hại theo
quy định của pháp luật cho các tổ chức, cá nhân liên quan do hành vi vi phạm về bảo vệ
môi trường của Công ty CPHH vedan Việt Nam gây ra đối với sông Thị Vải.
Ngày 6/10/2008, Chánh Thanh tra Bộ Tài Nguyên & Môi trường Lê Quốc Trung đã ký
quyết định “xử phạt vi phạm hành chính và bảo vệ môi trường” đối với Công ty Cổ phần
Hữu hạn Vedan Việt Nam, số tiền 267.500.000 đồng đối với các hành vi xả nước thải
vượt tiêu chuẩn chưa qua xử lý ra sơng Thị Vải và khơng nộp phí BVMT đối với nước
thải cơng nghiệp…
Tạm đình chỉ hoạt động một số nhà máy
Theo Thanh tra Bộ TN&MT, hành vi vi phạm pháp luật về BVMT của Công ty Vedan là
hành vi tái phạm, mang tính hệ thống, có tổ chức và kéo dài, có biểu hiện coi thường pháp
luật Việt Nam, gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với sông Thị Vải và mơi trường xung
quanh. Trong đó có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 8 và
khoản 9 điều 9, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sô 44/2002/PL-UBTVQH 10
ngày 02 tháng 7 năm 2002 về việc xử lý vi phạm hành chính.
Cũng theo Thanh tra Bộ TN&MT, đối với các hành vi vi phạm hành chính khơng xử phạt
tiền do hết thời hiệu xử phạt, vẫn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả gồm: Không
đăng ký cam kết bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
đối với trại chăn nuôi heo; không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây
dựng và đưa cơng trình vào hoạt động đối với dự án đầu tư nâng công suất đối với phân
xưởng sản xuất Xút – Axit.
Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa cơng trình vào
hoạt động đối với Dự án đầu tư nâng công suất đối với các Nhà máy: bột ngọt từ 5.000
tấn/tháng lên 15.000 tấn/tháng, tinh bột biến tính từ 2.000 tấn/tháng lên 4.000 tấn/tháng,
Lysine từ 1.200 tấn/tháng lên 1.4000 tấn/tháng, bột gia vị cao cấp 20 tấn/tháng, PGA 700
tấn/năm (rắn) và 280.000 tấn/năm (lỏng), cảng 12.000 tấn.
Thanh tra Bộ TN&MT yêu cầu Vedan phải tiến hành ngay các biện pháp khắc phục hiệu
quả. Cụ thể, chấm dứt hoạt động xả chất thải (dịch thải lên men, nước thải, dung dịch bùn
thải) không đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường cho phép (quy chuẩn kỹ thuật về mặt
chất thải) ra mơi trường.
Tạm đình chỉ hoạt động sản xuất có phát sinh nước thải và dịch thải lên men của Nhà máy
sản xuất tinh bột biến tính; Nhà máy sản xuất bột ngọt và Lysine; Trại chăn nuôi heo và
các nhà máy khác của cơng ty cho tới khi có biện pháp xử lý nước thải và dịch thải lên
men đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Công ty chỉ được phép hoạt động trở lại khi có văn
bản kết luận đã hồn thành các biện pháp xử lý ơ nhiếm môi trường của Tổng cục Môi
trường.
Dỡ bỏ hệ thống cống “ngầm”, bồi thường thiệt hại
Ngoài ra, Thanh tra Bộ cũng áp dụng các biện pháp “mạnh tay” khác: trong vịng 1 tháng,
Vedan phải gỡ bỏ tồn bộ hệ thống cống ngầm và thiết bị bơm từ khu vực sản xuất ra
sơng Thị Vải; cải tạo tồn bộ hệ thống thu gom, xử lý chất thải lỏng (dịch thải sau lên
men, nước thải công nghiệp, nước thải sinh học, bùn thải lỏng) bảo đảm quy chuẩn kỹ
thuật về chất thải theo quy định; hệ thống thu gom, xử lý chất thải lỏng của công ty phải
đáp ứng các yêu cầu BVMT.
u cầu Cơng ty Vedan có trách nhiệm thực hiện đền bù thiệt hại về kinh tế và môi
trường do hành vi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sông Thị Vải; chịu trách nhiệm
bảo đảm quyền lợi cho hơn 2.000 lao động đang làm việc tại công ty và các tổ chức các
nhân, hộ gia đình đã ký hợp đồng kinh tế cung cấp nguyên liệu trong thời gian bị tạm
đình chỉ hoạt động sản xuất do hành vi vi phạm pháp luật của công ty gây ra.
Công ty Vedan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
xác định các vi phạm của một số cá nhân của Công ty (Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc
và một số cá nhân có liên quan) khi có yêu cầu của Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
Thanh tra Bộ cũng đề nghị Bộ trưởng Bộ TN&MT thu hồi giấy phép xả nước thải vào
nguồn nước cho tới khi thực hiện xong các biện pháp BVMT theo quy định của pháp luật
mới xem xét cấp lại.
Trong trường hợp Vedan không chấp hành đầy đủ các quyết định trên, tiếp tục gây ô
nhiễm môi trường lưu vực sông Thị Vải, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai căn cứ thẩm
quyền ra quyết định xử lý đối với cơng ty này ở hình thức cao hơn theo quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường như: tạm thời đình chỉ hoạt động sản xuất của cơng ty cho đến
khi thực hiện xong biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết; buộc di dời cơ sở đến vị trí xa
khu dân cư và phù hợp với sức chịu tải của môi trường; cấm hoạt động.
Quyết định xử phạt hành chính 200 triệu đồng đối với việc Vedan gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng sông Thị vải 14 năm được coi là mức hình phạt cao nhất hiện nay,
song nhiều người lại cho rằng “chẳng bõ bèn gì”.
Trách nhiệm của Vedan cịn nhiều. Ví dụ truy thu phí nước thải, đền bù cho những hộ dân
ven sông Thị Vải bị thiệt hại sinh kế, đền bù cho các hộ trồng sắn sử dụng “phân bón”
vegadro, đóng góp làm sạch mơi trường cho sơng Thị Vải.
Ngồi ra, DN này có thể cịn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định ở chương 17 Bộ
Luật Hình sự Việt Nam…
→ Cơng ty Vedan chấm dứt việc xả chất thải không đạt tiêu chuẩn quy định vào nguồn
nước, đồng thời phải tiến hành xử lý, khắc phục được hậu quả ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng do Công ty gây ra và duy trì được sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm,
bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Tình hình khắc phục hậu quả vi phạm của Công ty Vedan
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TN&MT đã phối hợp với UBND tỉnh
Đồng Nai và các Bộ, ngành có liên quan kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc khắc phục hậu
quả vi phạm của Cơng ty Vedan. Tính đến hết ngày 31/12/2009, Cong ty Vedan đã thực
hiện đúng một số nội dung, yêu cầu về bảo vệ môi trường theo như cam kết, cụ thể:
a) Đã nộp tiền phạt vi phạm hành chính 267.500.000 đồng;
b) Đã nộp 127.268.067.520 đồng tiền phí bảo vệ mơi trường truy thu theo Quyết định số
131/QĐ-XPHC ngày 6/10/2008 của Chánh Thanh tra Bộ TN&MT về xử phạt vi phạm
hành chính;
c) Đã thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm theo Kết luận kiểm tra số
427/KLKTr-TCMT ngày 29/5/2009 của Tổng cục Mơi trường, với khoản kinh phí đã đầu
tư là 33.187.516 USD, cụ thể bao gồm:
- Tháo bỏ toàn bộ các tuyến ống ngầm dài trên 2.200m, 4 máy bơm và 3 họng xả chất thải
ngầm cắm sâu 10m xuống sông Thị Vải; dừng việc thải nước thải vào hệ thống 21 hồ sinh
học và bơm nước thải từ 21 hồ này vào hệ thống xử lý, đảm bảo chất lượng nước tại các
hồ đã được làm sạch; lắp đặt công tơ điện riêng biệt và đồng hồ đo lưu lượng của hệ
thống xuất khẩu CMS ra tàu thủy; lập nhật ký vận hành của các hệ thống xử lý nước thải;
- Hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp 3 hệ thống xử lý nước thải hiện hữu (4.000 /ngày);
xây dựng mới 2 hệ thống xử lý nước thải sản xuất (5.000 /ngày) và 1 hệ thống xử lý nước
thải sinh hoạt (300 /ngày), với tổng công suất thiết kế hiện nay là 9.300 /ngày; lắp đặt 3 hệ
thống quan trắc tự động, đảm bảo nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
(QCVN);
- Xây dựng và lắp đặt mới 4 dây chuyền sản xuất phân bón (nâng tổng số lên 8 dây
chuyền), 1 máy cô đặc dịch thải sau lên men TVR (nâng tổng số lên 2 máy) và các tồn tại
về môi trương khác theo đúng cam kết.
d) Hiện nay, Công ty Vedan vẫn tạm dừng hoạt động của 4 nhà máy: Lysine, khoai mỳ
tươi (là 2 nhà máy phát sinh nước thải và dịch thải sau lên men rất khõ xử lý), PGA và
phát điện 12 MW; đang từng bước nâng công suất của các nhà máy khác lên công suất tối
đa. Bộ TN&MT vẫn tiếp tục phối hợp với các địa phương kiểm sốt chặt chẽ các nguồn
thải của Cơng ty Vedan, đảm bảo các nguồn thải được xử lý đạt QCVN.
đ) Công ty Vedan vẫn đảm bảo việc làm và thu nhập cho 2.500 người lao động bằng cách
bố trí lại sản xuất và tổ chức đào tạo lại, với mức lương bình quân trren 2,5 triệu
đồng/người (chưa bao gồm tiền ăn, phương tiện và tăng ca); thực hiện việc thu mua các
sản phẩm nông nghiệp theo hợp đồng kinh tế.
e) Công ty Vedan cam kết chịu trách nhiệm chi trả bồi thường thiệt hại về kinh tế và môi
trường, đồng thời hỗ trợ người dân trong khu vực bị ảnh hưởng do chất thải của Công ty
gây ra theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây thái độ và tinh
thần trách nhiệm giải quyết bồi thường thiệt hại cho người dân của Công ty Vedan chưa
thật sự nghiêm túc.
IV. Kết luận
Đến nay vụ việc Vedan đã đi đến hồi cuối với một kết thúc mà phần thằng nghiêng về lẽ
phải, sự đúng đắn và pháp luật được thực thi. Vedan phải chấp nhận đền bù toàn bộ thiệt
hại tương đương 119,5 tỷ đồng số liệu do Viện TN&MT đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt
hại cho nông dân 3 tình TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai cùng với việc khắc
phục toàn bộ những sự cố đã xảy ra, đầu tư những trang thiết bị hợp chuẩn để bảo vệ và
gìn giữ mơi trường. Nhưng vẫn còn rất nhiều câu hỏi được đặt ra đối với các cấp, các
ngành: tại sao chỉ khi vụ Vedan xả chất thải ra sông Thị Vải là vụ gây ô nhiễm môi
trường được Cục Cảnh sát môi trường – Bộ Công an phối hợp với Bộ TN&MT vụ việc
mớ được phát hiện ngày 13/9/2008? Công tác quản lý môi trường của các địa phương
đâu?
Qua sự việc trên ta nhận thấy rõ rằng cần có một cơ chế quản lý chặt chẽ hơn khi cấp giấy
phép hoạt động cho những công ty nước ngoài khi đầu tư ở VN. Chúng ta cần biết rõ họ
kinh doanh, hoạt động sản xuất lĩnh vực gì, có gây tác hại cho VN khơng…Để biết được
điều đó, cần có ban chun mơn thẩm định hồ sơ và chức năng hoạt động khi họ đăng ký
làm ăn tại VN. Song song với nó là cơ chế quản lý, giám sát hoạt động của những cơng ty
đó thật chặt chẽ, bám sát. Chính việc thiếu sự thẩm tra hồ sơ, chức năng hoạt động của
những công ty như Vedan, cùng sự buông lỏng quản lý, giám sát…đã gây ra “hiện tượng
Vedan”. Những thiệt hại mà Vedan gây ra thực sự là lời cảnh báo cho cac doanh nghiệp
nước ngồi về ý thức bảo vệ mơi trường khi đầ tư vào VN.