LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa – xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Bắt nguồn từ
những năm 40 với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT), và đặc biệt là vòng đàm phán thứ 8- vòng đàm phán Uruguay với dấu
mốc lịch sử là sự ra đời của tổ chức Thương mại thế giới WTO, nó đã và đang tạo
nên một sự thay đổi lớn lao trong nền kinh tế thế giới
Vòng đàm phán Uruguay – “vòng đàm phán của các vòng đàm phán và là
vòng đàm phán tham vọng nhất trong tất cả các vòng đàm phán của GATT”. Nhắc
tới vòng đàm phán nổi tiếng này, người ta không thể không nhắc đến sự ra đời của
tổ chức thương mại thế giới WTO - sự kiện góp phần cho sự phát triển của kinh tế
thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng.
Từ khi thành lập WTO đến nay có rất nhiều vòng đàm phán và mỗi lần đàm
phán các nước thành viên lại đưa ra một chủ đề nhằm thúc đẩy buôn bán, thương
mại, dịch vụ...
Không nằm ngoài chủ đề đó, vòng đàm phán Doha của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) đàm phán về mục tiêu giảm bớt các rào cản thương mại trên toàn
thế giới, mở cửa thị trường hàng nông sản, phi nông sản, dịch vụ nhằm thúc đẩy
1
thương mại hóa toàn cầu, thực hiện thương mại công bằng đối với các nước đang
phát triển.
Sau đây bài thuyết trình của nhóm 6 xin được trình bày về hai vấn đề liên
quan đến hai vòng đàm phán trên. Vấn đề thứ nhất là “Đặc trưng của vòng đàm
phán Uruguay và kết quả của vòng đàm phán này?” Vấn đề thứ hai là tìm hiểu về
vòng đàm phán Doha và nguyên nhân thất bại của vòng đàm phán này.
VẤN ĐỀ 1: ĐẶC TRƯNG CỦA VÒNG ĐÀM PHÁN URUGUAY
Trước vòng đàm phán Uruguay, GATT đã có 7 vòng đàm phán, tuy nhiên
những kết quả trong các vòng đàm phán này chưa thỏa mãn yêu cầu phát triển của
thời đại, đặc biệt với những nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Và những
khó khăn mà GATT phải đối mặt chính là những nhân tố khiến cho các thành viên
của GATT tin rằng cần có những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống
thương mại đa biên.
Tháng 11 năm 1982, ý tưởng vòng đàm phán Uruguay được nhen nhóm tại
hội nghị cấp Bộ trưởng của các nước thành viên GATT ở Gevana. Tuy nhiên phải
mất bốn năm, cùng với sự tác động mạnh mẽ của những nước phát triển , vào tháng
9 năm 1986, vòng đàm phán Uruguay mới được chính thức bắt đầu tại Punta Del
Este (Uruguay).
2
I.
Mục tiêu của vòng đàm phán Uruguay:
Một chương trình làm việc đã được lên kế hoạch tạo nền tảng cho vòng đàm
phán Uruguay, cụ thể:
-
Tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc làm và
thu nhập trên toàn thế giới.
-
Giải quyết các vấn đề quan trọng bức xúc của chính sách thương mại, minh bạch
hóa thương mại quốc tế, đồng thời đưa ra một hệ thống giải quyết các tranh chấp
hoàn chỉnh và cơ chế đánh giá chính sách thương mại, nhằm đánh giá tổng thể
thường xuyên, rõ ràng, có hệ thống về các chính sách thương mại của các thành
viên GATT, mở rộng hệ thống thương mại tới một số lĩnh vực mới đặc biệt là
thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
-
Nhượng bộ cho xâm nhập thị trường của những sản phẩm nông sản nhiêt đới với
mục tiêu giúp đỡ các nước đang phát triển, tiếp cận thị trường, quy định về chống
bán phá giá và đề nghị thành lập một tổ chức mới.
-
Giảm thuế và các biện pháp trợ cấp xuất khẩu, giảm hạn ngạch và các hạn chế
nhập khẩu khác, về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
Chúng ta có thể thấy rằng những mục tiêu kể trên của vòng đàm phán
Uruguay không nằm ngoài mục tiêu chung của GATT, có điều nó đi sâu và cụ thể
hơn các vấn đề, tiếp cận tổng thể cho các cuộc thương lượng thương mại và cố
gắng giải quyết những vấn đề còn tồn đọng khúc mắc và tranh chấp giữa các nước,
trong đó có việc chỉnh lí và mở rộng các vấn đề đã được bàn tại vòng đàm phán
Tokyo trước đó. Như hiệp định về trợ giúp các biện pháp bù trừ, hàng rào kĩ thuật
trong thương mại, cấp giấy phép nhập khẩu….
3
II.
Nội dung đặc trưng của vòng đàm phán Uruguay
Cuộc đàm phán được bắt đầu tại Punta del Este Uruguay tháng 9 năm 1986.
Vòng đàm phán kéo dài gần 8 năm, kết thúc vào năm 1994 với sự tham gia của
125 nước. Chương trình đàm phán bao gồm hầu hết các vấn đề chính sách
thương mại còn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa
biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trí
tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực có tính nhạy cảm cao
như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc về điều khoản ban đầu của
GATT đều được rà soát lại.
Và có 6 hiệp định chính đặc trưng cho vòng đàm phán này. Trong đó hiệp định về
nông nghiệp và hiệp đinh Marakesh về thành lập WTO là quan trọng nhất.
1. Hiệp định về nông nghiệp
• Nội dung hiệp định
Sau những nỗ lực của các bên thì Hiệp định về nông nghiệp đã được ký kết
nhằm mục tiêu cải cách thương mại nông sản và làm cho các chính sách nông
nghiệp có định hướng thị trường hơn. Hiệp định nông nghiệp đề cập đến hai vấn
để chính:
-
Mở cửa thị trường nông nghiệp: thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan,
-
cắt giảm và ràng buộc thuế quan đối với các mặt hàng nông sản.
Quy định về khoản trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong nước đối với các mặt
hàng nông sản.
2. Hiệp định về dệt may
•
Nội dung hiệp định
-
Cam kết cắt giảm thuế đối với các sản phẩm công nghiệp của các nước cao
hơn hẳn các cam kết được đưa ra trong Vòng đàm phán Tokyo.
4
-
Các nước đã đồng ý cắt giảm theo giai đoạn những hạn chế trong Hiệp định
Ða sợi (MFA) trong khoảng thời gian 10 năm đến ngày l-1-2005.
3. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
•
Nội dung hiệp định
GATS được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống
thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình
lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó.
Tất cả các thành viên của WTO đều tham gia GATS. Các nguyên tắc cơ bản
của WTO về đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia cũng đều áp dụng với
GATS.
Hiệp định đưa ra những quy định về mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch
vụ, và việc mở cửa thị trường không có sự phân biệt đối xử giữa các nước. Đồng
thời, các nước phải công bố qui định chung và thông báo cho Hội đồng thương mại
dịch vụ những biện pháp có ảnh hưởng tới sự vận hành của GATS.
4. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS)
•
Nội dung hiệp định
Hiệp định TRIPS đã làm thay đổi bộ mặt của hệ thống sở hữu trí tuệ thế
giới. Theo hiệp định TRIPS mọi quốc gia thành viên của WTO phải xây dựng hệ
thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các tiêu chuẩn tối thiểu thống nhất. Các tiêu chuẩn
tối thiểu ấn định trong Hiệp định TRIPS nhằm bảo đảm cho mỗi quốc gia thành
viên có một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu quả.
Mỗi nước thành viên của WTO có nghĩa vụ dành cho công dân của nước
thành viên khác, theo nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc, sự bảo hộ
và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả.
5
Các lĩnh vực của sở hữu trí tuệ được điều chỉnh là: quyền tác giả và quyền
liên quan; nhãn hiệu hàng hoá, bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ; chỉ dẫn địa lý, bao
gồm cả tên gọi xuất xứ; kiểu dáng công nghiệp; patent, bao gồm cả bảo hộ giống
cây trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích hợp; và thông tin không được tiết lộ, bao
gồm cả bí mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm.
5. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS)
•
Nội dung hiệp định
Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa mà không áp dụng
cho các lĩnh vực khác. Hiệp định TRIMs cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi
phạm nguyên tắc "Đãi ngộ Quốc gia" và các biện pháp có tác dụng hạn chế
thương mại bao gồm:
-
Các biện pháp bắt buộc hay điều kiện về quy định một "tỷ lệ nội địa hóa" đối với
doanh nghiệp.
-
Các biện pháp "cân bằng thương mại" buộc doanh nghiệp phải tự cân đối về khối
lượng và trị giá xuất nhập khẩu, về ngoại hối....
6. Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO
• Nội dung hiệp định:
Các bên kí kết hiệp định này thừa nhận rằng:
-
Tất cả những mối quan hệ của họ trong lĩnh vực kinh tế và thương mại phải được
thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc mở rộng sản xuất,
thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn bảo đảm việc sử dụng tối ưu
nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì
môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù
6
hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát
triển kinh tế khác nhau.
-
Cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt
là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong
thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia đó,
-
Mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào những thoả
thuận tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản
trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan
hệ thương mại quốc tế.
III.
Kết quả của vòng đàm phán Uruguay
• Vòng đàm phán Uruguay kéo dài đến gần 8 năm, mãi đến ngày
4/12/1993 vòng đàm phán mới kết thúc và phải đến ngày
15/4/1994 mọi văn bản mới chính thức được ký kết ở Maroc. Tại
nhiều thời điểm vòng đàm phán tưởng chừng như sẽ thất bại bởi
sự bất đồng quan điểm giữa các nước tham gia, nhất là hai nhóm
nước phát triển và đang phát triển. Xuyên suốt cuộc đàm phán,
vấn đề khó khăn nhất chính là sự mâu thuẫn giữa Mỹ và EU, hai
trung tâm thương mại dịch vụ lớn nhất trên thế giới. Với sự nỗ
lực của giám đốc GATT và 125 nước thành viên tham gia, cuối
cùng, đến năm 1994 vòng đàm phán đã kết thúc, thông qua các
thỏa thuận quan trọng, dẫn đến việc ra đời của WTO và các hiệp
định thương mại liên quan.Chỉ trong vòng hai năm, các bên
tham gia đàm phán đã đi đến thoả thuận về một hệ thống miễn
giảm thuế quan đối với các sản phẩm nhiệt đới, chủ yếu do các
nước đang phát triển xuất khẩu. Các bên đàm phán đã sửa đổi
7
các điều luật liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp thương
mại và một số trong đó đã lập tức được đưa vào áp dụng. Các
nhà thương thuyết cũng đi đến quyết định là các nước thành viên
GATT phải báo cáo định kỳ về chính sách thương mại của mình.
Điều này được coi như một sáng kiến quan trọng bảo đảm tính
minh bạch cho các hệ thống thương mại trên toàn thế giới.
Vòng đàm phán thành công, người ta ước tính có đến 200 tỷ USD sẽ được tăng
thêm của nền kinh tế thế giới nhờ các chính sách mậu dịch tự do và hệ thống mậu
dịch quốc tế sẽ có những bước chuyển đổi quan trọng
• Vòng đàm phán Uruguay kết thúc giải quyết được các vấn đề như: Hạn chế
sự phát triển của chủ nghĩa bảo hộ mới ,xác định lại nguyên tắc của hệ
thống mậu dịch nhiều phía ,củng cố những vấn đề thuộc về thủ tục của
GATT và đạt tới một vài tự do trong mậu dịch dịch vụ và nông nghiệp
VẤN ĐỀ 2: VÒNG ĐÀM PHÁN DOHA VÀ NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI
TỔNG QUAN VỀ VÒNG ĐÀM PHÁN DOHA
I.
1.
Khái quát chung:
Doha chính là vòng đàm phán thứ 9 kể từ khi Hiệp định GATT ra đời năm
1947, tiếp nối vòng Uruguay. Bắt đầu từ tháng 11/2001 vòng đàm phán được
tiến hành ở Doha và Quarta và dự kiến sẽ kết thúc vòng đàm phán trước ngày
1/1/2005.
Các nội dung chính của Doha là:
•
Nông nghiệp: Giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan, giảm và tiến tới xóa
bỏ trợ cấp xuất khẩu, giảm trợ cấp trong nước.
•
Dịch vụ: Mở rộng các cam kết của Hiệp định Dịch vụ (GATS)
•
Hàng phi nông nghiệp: giảm thuế và hàng rào phi thuế.
8
•
Sở hữu trí tuệ: giải quyết mối liên hệ giữa sở hữu trí tuệ và y tế, chỉ dẫn địa lý,
nới lỏng quy định về sở hữu trí tuệ phục vụ cho việc phát triển
•
Thương mại và đầu tư: Xem xét lại Hiệp định Đầu tư (TRIMS)
•
Thương mại và chính sách cạnh tranh: minh bạch, không phân biệt đối xử, hợp
tác tự nguyện, hỗ trợ phát triển nguồn lực
•
Mua sắm chính phủ: thủ tục minh bạch
•
Tạo thuận lợi hóa cho thương mại: Xem xét lại và diễn giải chi tiết các Điều V,
VIII và X của GATT 1994.
•
Xem xét lại quy định của WTO về chống phá giá và chống trợ cấp (Điều VI
GATT 1994)
•
Xem xét lại quy định của WTO về các hiệp định thương mại khu vực (Điều
XXIV GATT 1994)
•
Xem xét lại quy định của WTO về cơ chế giải quyết tranh chấp
•
Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường: phân biệt giữa các biện pháp bảo
vệ môi trường với các rào cản thương mại, dán nhãn sản phẩm bảo vệ môi trường,
trợ cấp ngư nghiệp.
•
Thương mại điện tử
•
Các ưu đãi dành cho các nước đang phát triển: bao gồm các vấn đề về các nền
kinh tế có quy mô nhỏ, các nền kinh tế chậm phát triển, nợ chính phủ, chuyển giao
công nghệ, hợp tác và hỗ trợ phát triển nguồn lực, các ưu đãi đặc biệt và khác biệt.
2.
Diễn biến cuộc đàm phán và các vấn đề tồn tại:
Từ năm 2001 đến 2006, vòng đàm phán Doha đã trải qua 5 mốc quan trọng:
•
Tháng 11/2001: vòng đàm phán tiến hành ở Doha, Quarta
•
Năm 2003 tại Cancún: Đây là cơ hội đầu tiên bị bỏ lỡ khi các thành viên rà soát
lại quá trình đàm phán nhằm thúc đẩy mục tiêu bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế
quan để hỗ trợ các nước đang phát triển.
Biểu đồ cho thấy mức cắt giảm trần thuế suất đề suất áp dụng cho các quốc
gia có thuế quan tối đa cao nhất- các quốc gia đang phát triển (tính cho sản
9
phẩm bình quân theo tỷ trọng và bao gồm các miễn trừ), đặc biệt là thuế suất
áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo biểu đồ, do mức thuế suất trần đàm
phán cao hơn rất nhiều so với mức thuế mà các quốc gia đang thực tế áp dụng
do vậy dù mức đề suất cắt giảm lớn đáng kể thì vẫn không khắc phục được
các chênh lệch lớn trong giao dịch thương
mại giữa các quốc gia.
Hội nghị thất bại do bất đồng giữa các
nước giàu và nước nghèo xung quanh vấn
đề trợ cấp nông nghiệp. Các nước đang
phát triển tập hợp lại và hình thành 2 nhóm
đàm phán mới: Nhóm G20, gồm các nước
đang phát triển thu nhập trung bình và
nhóm G90, gồm các nước đang phát triển
có mức thu nhập thấp.
•
Năm 2004 tại Geneva: Các thành viên WTO thống nhất một Thỏa thuận khung
vào ngày 31/7/2004. Thoả thuận khung được xem là bước đệm để thiết lập các
phương thức đàm phán và luật lệ, quy định mới trong lĩnh vực đàm phán, là
nguyên tắc chỉ đạo cho quá trình đàm phán tiếp theo. Theo đó, cộng đồng EU,
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Braxin thống nhất sẽ xóa bỏ tất cả các khoản trợ cấp xuất khẩu
nông sản, giảm các khoản trợ cấp gây bóp méo thương mại và giảm thuế nhập
khẩu nông sản. Các nước phát triển cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt
hàng chế biến, tuy nhiên vẫn được bảo hộ một số ngành mũi nhọn.
•
Năm 2005 tại Hồng Kông: Mục tiêu ban đầu của phiên họp là đi đến thỏa thuận
cuối cùng của vòng đàm phán Doha đã thay bằng việc các nước giàu cam kết áp
dụng hạn ngạch và nhập khẩu tự do đối với tất cả các nước có thu nhập thấp và
cam kết đến năm 2013 sẽ thực hiện xóa bỏ các khoản trợ cấp xuất khẩu nông sản.
10
• Năm 2006 tại Geneva: Vòng đàm phán Doha diễn ra tháng 7/2006. Các nước tham
gia chủ chốt bao gồm Braxin và Ấn Độ (đại diện cho nhóm G20), EU, Hoa Kỳ và
Úc (đại diện cho nhóm Cairns các nước xuất khẩu nông sản) và Nhật Bản (đại
diện cho nhóm G10 các nhà nhập khẩu nông sản ròng). Tại hội nghị Geneva, các
nhà đàm phán không thể thống nhất quan điểm về vấn đề trợ cấp nông nghiệp và
chính sách giảm thuế nhập khẩu. Phía Hoa Kỳ thì cho rằng đã nhượng bộ quá
nhiều còn liên minh Châu Âu không chấp nhận cắt giảm thêm trợ cấp nông
nghiệp. Các nước còn lại cũng không muốn hạ thấp hàng rào bảo hộ nông sản của
mình. Điểu này dẫn đến việc Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy chính thức tuyên
bố đình chỉ vòng đàm phán Doha.
Sau nhiều vòng đàm phán từ năm 2001 đến năm 2008, Hội nghị Bộ trưởng WTO
thu hẹp tại Giơ-ne-vơ vào tháng 7 năm 2008 là thời điểm các thành viên WTO tiến
gần đích đàm phán nhất nhưng cuối cùng đàm phán lại tan vỡ do một số thành viên
quan trọng không thỏa thuận được những vấn đề then chốt nhất về nông nghiệp.
Năm 2010, tình hình liên quan đến đàm phán có một số chuyển biến tích
(i)
(ii)
(iii)
cực:
kinh tế thế giới tiếp tục có dấu hiệu phục hồi;
Hoa Kỳ tỏ ra quan tâm hơn đến vòng Đô-ha;
Đàm phán đã có những bước tiến nhất định về mặt kỹ thuật sau một
thời gian áp dụng phương pháp vừa đàm phán kỹ thuật, vừa đàm
phán phương thức (modalities).
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại những câu hỏi lớn liên quan đến ý đồ của
Hoa Kỳ và một số thành viên lớn như Trung quốc, Ấn độ, Bra-xin. Trong khi hầu
hết các nước đều kêu gọi đẩy mạnh đàm phán trên cơ sở những kết quả đã đạt được vào
tháng 12/2008, Hoa Kỳ tỏ ý không hài lòng và gợi ý có thể đàm phán lại các nội dung
này.
Cuộc đàm phán vẫn chưa đi đến được đích và rơi vào sự bế tắc.
11
II.
NGUYÊN NHÂN BẾ TẮC CỦA VÒNG ĐÀM PHÁN DOHA
Vòng đàm phán Doha kéo dài từ năm 2001 đến năm 2008 đã đưa ra nhiều
mục tiêu nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại và giúp các nước nghèo thu được
nhiều lợi ích hơn trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, dù đã nổ lực trong nhiều
cuộc đàm phán nhưng các nước vẫn không đi đến được một thỏa thuận thống nhất
bởi những bất đồng trong toan tính của mình. Những bất đồng này đã dẫn đến bế
tắc của cuộc đàm phán. Tuy nhiên, không chỉ đơn giản là các bất đồng mà còn rất
nhiều nguyên nhân khác dẫn đến sự bế tắc của đàm phán Doha:
•
Thứ nhất, bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ và sự thay đổi bộ máy chính quyền của
nước này đã làm gián đoạn đáng kế tiến trình đàm phán. Do chưa sẵn sàng về bộ
máy và chính sách nên từ đầu năm 2009 đến tháng 4 năm 2010 Hoa Kỳ không có
cả Đại sứ tại WTO và đại diện nông nghiệp và hầu như không tham gia thực chất
vào tiến trình đàm phán.
•
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu lớn nhất trong nhiều thập niên
khiến kinh tế thế giới chao đảo và trở nên bất ổn. Trong bối cảnh đó, các nước đều
bận tâm đối phó với những khó khăn kinh tế trong nước và áp lực đòi bảo hộ từ các
ngành công nghiệp trong nước và nghiệp đoàn ngày càng tăng lên.
•
Thứ ba, sự gia tăng các thỏa thuận thương mại song phương và khu vực cùng với
sự kéo dài quá lâu của vòng đàm phán Đô-ha khiến niềm tin vào hệ thống thương
mại đa phương bị lung lay. Vì vậy, những kết quả đạt được trong năm 2009 là khá
hạn chế.
•
Thứ tư, xung đột lợi ích giữa ba nhóm nước chủ yếu
•
Mỹ: cố gắng đảm bảo rằng mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực khác sẽ bồi
thường cho họ về những nhượng bộ trong cắt giảm trợ cấp nông sản.
12
•
Các nước xuất khẩu đang phát triển: muốn xuất khẩu ngày càng nhiều nông sản
sang các nước đang phát triển khác.
•
Các nước đang phát triển chủ chốt: cần bảo vệ người nông dân trước sự tràn ngập
của các mặt hàng nhập khẩu làm họ mất khả năng cạnh tranh.
•
Thứ năm, các nước phát triển đang cố gắng trì hoãn vòng đàm phán Doha vì vấn
đề an ninh lương thực, không thể phụ thuộc vào hàng nhập khẩu được.
• Thứ sáu, Cho dù các nước thành viên WTO đã nhất trí về vấn đề bảo hộ, song vẫn
còn những bất đồng lớn về một loạt vấn đề nhạy cảm khác:
•
Mỹ đang chịu sức ép buộc phải cắt giảm mạnh trợ cấp giá bông, song vẫn
chưa đưa ra được một đề xuất nào.
•
Các nước xuất khẩu đang phát triển cũng không hài lòng với những đề xuất
bảo vệ hàng nhập khẩu của các nước đang phát triển trước tác động toàn diện của
việc cắt giảm thuế nông sản đối với một số sản phẩm nhất định vì lý do an ninh
lương thực hoặc phát triển nông thôn.
•
EU muốn thắt chặt các quy định bảo vệ quyền sử dụng những địa danh đối
với các loại rượu vang và rượu mạnh, như sâm banh. Họ cũng muốn mở rộng cơ
chế bảo hộ này tới các sản phẩm khác liên quan đến tên khu vực, như Parm ham.
Một nhóm lớn các nước đang phát triển ủng hộ EU, và cũng muốn bảo vệ quyền sử
dụng các loại thực vật bản địa và phương pháp cổ truyền trong các sản phẩm như
dược phẩm.
Thất bại của Hội nghị WTO vừa qua đang đặt tổ chức này đứng trước nhiều
thách thức. Vấn đề đặt ra là một hiệp định chung cho vòng đàm phán Đoha còn
phải trì hoãn tới khi nào, trong khi thế giới đang phải đối phó với khủng hoảng
lương thực toàn cầu, luật lệ thương mại quốc tế thì vẫn dẫm chân tại chỗ. Thất bại
này đã mang lại cho WTO rất nhiều bài học kinh nghiệm và phản ánh một trật tự
thế giới mới, "Thế giới đa cực".
13