Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

báo cáo phương pháp nghiên cứu lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.79 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tìm hiểu một bộ môn khoa học, cũng như bất cứ một sự kiện lịch sử nào, bao giờ cũng xem xét theo quan
điểm biện chứng mà Lênin đã nêu ra: từ đâu mà có, đã trải qua những giai đoạn phát triển nào để trở thành như ngày
nay và tương lai sẽ đi đến đâu.
Bất cứ người nghiên cứu lịch sử nào cũng phải đặt và giải quyết những vấn đề phương pháp luận theo quan
điểm của một giai cấp nhất định. Trong ý nghĩa và mức độ nhất định, phương pháp luận là một nhân tố quan trọng, có
tính quyết định đối với sự thành công của người nghiên cứu, học tập lịch sử, tức là đạt được chân lý khách quan về
hiểu biết một cách tương đối quá khứ.
Tuy nhiên, việc nắm vững và vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận phải rất sáng tạo, khắc phục những
sai sót, về mặt công thức, giáo điều, chủ quan phiến diện. Bởi vì, chúng ta đã xác định rằng, phương pháp luận mácxít
– lêninnit được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, song không đồng nhất phương pháp luận lịch
sử với duy vật lịch sử. Ngoài những kiến thức cơ bản về duy vật lịch sử, phương pháp luận còn bao gồm nhiều kiến
thức về logic học, nhận thức luận… đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử. Những vấn đề lịch sử cụ thể vừa là cơ sở
để nhận thức phương pháp luận sử học, vừa là thể hiện kết quả của việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
vào tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử.

1


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
1.1.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử là gì?
Là việc sử dụng các yếu tố lịch sử và logic để khôi phục lại, dựng lại tiến trình phát triển của lịch sử loài
người với đầy đủ hình ảnh, muôn màu, muôn vẻ của nó, giải thích, đánh giá và tìm ra quy luật của nó.

1.2.

Mục tiêu, đối tượng của phương pháp nghiên cứu lịch sử.
1.2. 1. Mục tiêu


Đề tài nghiên cứu một số vấn đề phương pháp nghiên cứu lịch sử, từ đó làm rõ ý nghĩa của vấn đề đó với việc nghiên
cứu lịch sử.
1.2.2. Đối tượng
a. Quan niệm về đối tượng của sử học trong thời cổ đại, phong kiến và tư bản chủ nghĩa.
Việc chuyển từ xã hội không giai cấp sang xã hội có giai cấp đã làm cho quan niệm về lịch sử nói chung về
đối tượng sử học nói riêng, mang tính chất giai cấp. Tính giai cấp này cũng biến chuyển cùng với sự phát triển của
các giai cấp trên vũ đài lịch sử.
Thấm nhuần hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, sử học phong kiến xem hiện tượng lịch sử là kết quả sự can
thiệp của sức mạnh của Trời vào đời sống con người, quá trình lịch sử do ý Trời định đoạt. Theo thuyết thiên mệnh
này, đối tượng của sử học là vua chúa. Nếu như trung tâm của sử học cổ đại là đời sống chính trị của giai cấp chủ nô
thì việc ghi chép về đời sống của các vua chúa, các tầng lớp trên của giai cấp phong kiến, cuộc tranh giành của phong
kiến …lại là nội dung chủ yếu trong các cuốn biên niên sử thời trung đại. Trong các tác phẩm sử học thời cổ đại,
trung đại khó mà tìm thấy được các tài liệu về tình hình đời sống của nô lệ, nông nô, về các cuộc đấu tranh của họ.
b. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đối tượng của sử học.
Mác và Ăngghen đã hoàn thành quan niệm duy vật về lịch sử và đã thực sụ làm một cuộc cách mạng trong
khoa học lịch sử. Bởi vì, “việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử, hay nói đúng hơn, sụ áp dụng và mở rộng
chủ nghĩa duy vật một cách triệt để vào lĩnh vực những hiện tượng xã hội đã loại bỏ được hai khuyết điểm cơ bản của
những lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận lịch sử này giỏi lắm thì cũng chỉ nhìn đến những động cơ tư
tưởng trong hoạt động lịch sử của người ta, chứ không tìm xem cái gì phát sinh ra những động cơ ấy, không nắm lấy
những quy luật khách quan chi phối sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không thấy rằng trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là những lý luận trước kia đã bỏ quên chính ngay
hành động của quần chúng nhân dân; còn chủ nghĩa duy vật lịch sử thì lần đầu tiên đã giúp chúng ta có thể nghiên
cứu với sự chính xác của khoa học tự nhiên những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của
điều kiện ấy.
Quan niệm duy vật về lịch sử cho chúng ta thấy rằng, lịch sử xã hội bắt đầu khi con người và tập đoàn người
lần đầu tiên xuất hiện trên quả đất và cũng từ đó lịch sử xã hội là lịch sử con người. Nội dung của lịch sử xã hội là
hoạt động của con người. Nội dung của lịch sử xã hội là hoạt động của con người theo đuổi một mục đích nhất định.
Con người là chủ thể của lịch sử.Từ khi xã hội xuất hiện thì cũng bắt đầu sự sáng tạo lịch sử của con người.
Sự sáng tạo đó là nội dung của lịch sử. Con người tạo ra mọi giá trị tinh thần và vật chất, đấu tranh, chinh phục và cải
tạo thiên nhiên, đấu tranh chống mọi áp bức bất công trong xã hội. Vì vậy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-


2


Lênin nhiều lần chỉ rõ, lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quần chúng nhân dân, lịch sử của những phương thức
sản xuất kế tiếp nhau và từ khi xã hội phân chia thành giai cấp thì lịch sử còn là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Xã hội loài người tiến không ngừng theo con đường đi lên thể hiện ở trình độ, tính chất của việc sản xuất, ở
những thay đổi các chế độ xã hội, ở sự phát triển khoa học, văn hóa…Con đường đi lên này không phải là con đường
thẳng mà là con đường khúc khuỷu, có lúc tạm thời thụt lùi, nhưng nói chung phát triển đi lên không ngừng. Sự phát
triển ấy phong phú, phức tạp, toàn diện và tuân theo những quy luật khách quan.
Những quan điểm mácxit về lịch sử như vậy đã vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, đã
khai sinh một nền sử học thật sự khoa học, và đối tượng của nó là lịch sử xã hội loài người được xem là một quá trình
thống nhất và bị những quy luật chi phối, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có rất nhiều mâu thuẫn.
Vậy đối tượng của khoa học lịch sử, theo quan điểm mácxít không phải là những hiện tượng riêng rẽ về một
cá nhân nào, dù là lỗi lạc, không phải là những sự kiện tách rời khỏi sự phát triển chung, hợp quy luật của xã hội loài
người. Đối tượng của khoa học lịch sử là quá trình phát triển thực tế của xã hội loài người, cũng như từng nước, từng
dân tộc trong toàn bộ tính thống nhất, tính phức tạp, tính muôn màu muôn vẻ của nó, nói khác đi là sự chuyển biến cụ
thể của các phương thức sản xuất trong lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc, là sự biểu hiện cụ thể, phong phú cuộc
đấu tranh giai cấp trong lịch sử, là sự thể hiện một cách sinh động vai trò sáng tạo, quyết định của quần chúng nhân
dân lao động đối với lịch sử.
Trên cơ sở quan niệm mácxít về đối tượng sử học như vậy, chúng ta phải tìm hiểu sâu hơn, chi tiết hơn một số
vấn đề thuộc về phạm vi đối tượng, mà trong thực tế nhiều nhà nghiên cứu, lý luận lịch sử chưa hoàn toàn nhất trí.
1.3.

Nhiệm vụ, chức năng của phương pháp nghiên cứu lịch sử
1.3.1.Nhiệm vụ

Nhiệm vụ của khoa học lịch sử do chức năng của nó và tình hình nhiệm vụ chính trị cụ thể ở mỗi giai đoạn lịch sử,
của mỗi một nước quy định. Sử học là một khoa học nên phải phục vụ lợi ích của con người. Bởi vì đặc điểm của
khoa học mácxít là không những giải thích thế giới mà còn còn chỉ ra con đường để cải tạo thế giới nữa. Lênin đã

nhấn mạnh ý nghĩa của chủ nghĩa Mác là ở chỗ nó kết hợp chặt chẽ và cao độ giữa tính khoa học với tính cách mạng.
Mục đích của khoa học theo chủ nghĩa Mác là giúp cho cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức thắng lợi: “Mác cho
rằng, nhiệm vụ trực tiếp của khoa học là nêu ra một khẩu hiệu đấu tranh chân chính, nghĩa là phải biết trình bày, một
cách khách quan cuộc đấu tranh đó là sản phẩm của một hệ thống quan hệ sản xuất nhất định, là phải biết, hiểu rõ tính
tất yếu của cuộc đấu tranh đó, nội dung của nó, tiến trình và các điều kiện phát triển của nó”.
Đối với chúng ta, nghiên cứu, học tập lịch sử không phải chỉ biết quá khứ, mà trên cơ sở hiểu biết quá khứ, hiểu sâu
sắc hiện tại, hành động tích cực trong hiện tại, tiên đoán sự phát triển của tương lai và đấu tranh cho sự thắng lợi tất
yếu của tương lai. Ở đây có sự thống nhất giữa hành động cách mạng và nghiên cứu học tập lịch sử. Người cách
mạng phải hiểu biết quá khứ, phải sử dụng những tri thức lịch sử làm vũ khí đấu tranh cách mạng. Người nghiên cứu
lịch sử phải tham gia hoạt động cách mạng mới hiểu sâu sắc quá khứ, và quá khứ thuộc về những kẻ xây dựng tương
lai.
Mác, Ăngghen, Lênin, các lãnh tụ của cách mạng như chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng
đều sử dụng tri thức lịch sử làm vũ khí đấu tranh và Người am hiểu sâu sắc, đúng đắn lịch sử. Các vị ấy đã biết kết
3


hợp khéo léo cái quá khứ (truyền thống, kinh nghiệm lịch sử ) cái hiện tại (cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt) cái
tương lai (sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội) là một khối:
Thứ nhất, khi nghiên cứu vạch ra chính sách và sách lược cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân tìm trong lịch sử
những kinh nghiệm, những hiểu biết cần thiết để lấy câu trả lời cho những vấn đề cấp bách của hiện tại. Trong quyển
“Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh nêu rõ là phải “đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi, đem
phong trào cách mạng thế giới nói cho đồng bào ta rõ”.
Thứ hai, sự hiểu biết lịch sử quá khứ một cách sâu sắc là một trong những cơ sở để kiểm tra sự đúng đắn của chính
sách, sách lược mà Đảng đã đề ra. Ví như, nói về tính chất đúng đắn của nhà nước xô viết, Lênin đã lấy những kinh
nghiệm lịch sử để kiểm chứng: “Những thời đại cách mạng mở đầu từ thế kỷ XIX đã làm nảy sinh một kiểu cao nhất
của nhà nước dân chủ, của nhà nước mà trong một số mặt, theo sự miêu tả của Ăngghen, không còn là nhà nước nữa,
không phải là nhà nước theo đúng nghĩa của danh từ. Đó là nhà nước kiểu Công xã Pari. Chính cách mạng Nga năm
1905 và năm 1917 đã bắt đầu xây dựng nên một nhà nước kiểu như vậy.
Thứ ba, nếu xem xét quá trình lịch sử theo sơ đồ: quá khứ – hiện tại – tương lai thì sử học bao giờ cũng đứng ở khâu
giữa. Nhà sử học thuộc về hiện tại, là con đẻ của thời đại mình, của giai cấp, nên phải phục vụ cho giai cấp mình, cho

nên khi sử dụng tri thức lịch sử quá khứ để biểu hiện hiện tại, là phải rèn luyện khả năng tiên đoán một cách khoa học
bước phát triển của sự kiện, của quá trình lịch sử.
Thứ tư, chứng minh tính chất đúng đắn, tính thực tiễn khách quan của đường lối, chính sách của Đảng là một nhiệm
vụ quan trọng của khoa học lịch sử. Như chúng ta đã biết, đường lối chính sách của Đảng là thực tiễn cách mạng ở
một nước, ở một giai đoạn nhất định và là sự tổng kết lịch sử quá khứ, cho nên cơ sở thực tiễn của nó và nhà sử học
khi dùng sự kiện lịch sử chứng minh đường lối chính sách của Đảng không phải việc làm miễn cưỡng mà là công tác
khoa học, có ý nghĩa thiết thực nâng cao hiệu lực thực tiễn đường lối, chính sách.
Thứ năm, Tri thức lịch sử là một phương tiện giáo dục tư tưởng Cộng sản chủ nghĩa cho quần chúng rất tốt. Nó giáo
dục cho nhân dân lòng tin vào chính nghĩa, vào chân lý, tin vào thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa Cộng sản, tin vào khả
năng sáng tạo vô tận của quần chúng nhân dân, nó tác dụng rất tốt trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần quốc
tế vô sản, lòng yêu quý lao động rèn luyện ý thức và năng khiếu thẩm mỹ biết thưởng thức cái đẹp chân chính…
Thứ sáu, trong khi góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng cơ bản trên ,những người làm công tác sử học cũng làm
cho cho khoa học sử học phát triển. Khoa học lịch sử cũng như các khoa học xã hội khác có liên quan mật thiết với
cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ngày càng diễn ra vô cùng gay go, phức tạp và trên
trận địa này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa chỉ được phép thắng lợi chứ không thể “chung sống hòa bình” với tư tưởng tư
sản đế quốc.
Tóm lại, cũng như vấn đề đối tượng, các vấn đề chức năng, nhiệm vụ của khoa học lịch sử là những vấn đề phương
pháp luận mà người làm công tác sử học phải nắm vững vì nó xác định những vấn đề cơ bản, chi phối mọi hoạt động
nghiên cứu khoa học lịch sử. Nó làm sáng tỏ các vấn đề “Nghiên cứu cái gì?”, “Nghiên cứu để làm gì?”. Thực chất
của vấn đề đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của sử học xét cho đến cùng là nhằm vào mục tiêu của cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh cách mạng, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, văn minh, tiến bộ.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ, nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước: “Khoa học
xã hội và nhân văn hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp
4


luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng con
người, phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới của Việt Nam”. Sử học Việt Nam
phải thực hiện các nhiệm vụ này theo chức năng của mình.
1.3.2. Chức năng của khoa học lịch sử

a. Chức năng của lịch sử.
- Chức năng của lịch sử là một khoa học, giống như các bộ môn khác có chức năng của mình, đó là những
công việc phải làm xuất phát từ bản thân sự tồn tại, đặc trưng của nó, mà không một khoa học nào có thể thay thế
được. Thủ tiêu chức năng của mình tức là thủ tiêu bản thân khoa học ấy.
Nghiên cứu quá khứ không phải và không bao giờ là mục đích cuối cùng của khoa học lịch sử, bởi vì nếu chỉ
ghi chép một cách đơn giản và máy móc những gì đã xảy ra trong xã hội loài người trước đây thì sẽ làm cho người ta
mất thú vị và chẳng có ích gì cả. Chính các sử gia tư sản dựa vào quan niệm “lịch sử chỉ là những câu chuyện về quá
khứ” để phủ nhận sự tồn tại của nó, vì theo họ sử học không có ý nghĩa thực tiễn, không có ảnh hưởng gì đến đời
sống. Luận điểm này không có căn cứ, chỉ nhằm hạ thấp chức năng của khoa học lịch sử để phủ nhận sự tồn tại của
bản thân nó.
Khoa học lịch sử không trực tiếp liên quan đến quá trình sản xuất và phục vụ sản xuất như khoa học tự nhiên
và khoa học kỹ thuật, cũng không giống như các chính trị kinh tế học, nhà nước và pháp quyền có ảnh hưởng trực
tiếp đến cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Nhưng khoa học lịch sử có tác dụng quan trọng đến sự phát triển xã hội, cho
nên, nó là cơ sở duy nhất đáng tin cậy để phát hiện những quy luật chung vận động trong xã hội và sự nhận thức
những quy luật này lại có ý nghĩa thiết thực đối với sự tiến bộ xã hội.
Vì vậy, chức năng của khoa học lịch sử là miêu tả một cách khoa học hiện thực khách quan và trên cơ sở sự
miêu tả này mà phân tích, giải thích tính phong phú và đa dạng của hình thức cụ thể của các quá trình lịch sử đã phát
hiện được quy luật chung về sự phát triển xã hội loài người.
Trên cơ sở sự miêu tả và phân tích hiện thực khách quan, khoa học lịch sử nêu ra những quy luật nào?trước
hết khoa học lịch sử có thể phát hiện những quy luật chung của sự phát triển của xã hội, những quy luật cá biệt và đặc
thù của một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế – xã hội. Nhận thức các quy luật chung để hiểu sự phát triển của
toàn bộ xã hội loài người. Nghiên cứu những quy luật cá biệt và đặc thù sẽ giúp chúng ta nhận thức được sâu sắc hơn
quy luật phát triển chung nhất, nhận thức quy luật chung sẽ giúp chúng ta nghiên cứu những quy luật đặc thù và cá
biệt.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác đã dựa trên cơ sở của sự phát triển khoa học lịch sử và các khoa học xã hội khác
trong những thế kỷ trước đây đã xác định đúng chức năng của khoa học lịch sử.

5



Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC LỊCH SỬ.
2.1 Quá trình phát triển
2.1.1.Triết lý lịch sử trước Mác.
Khoa học lịch sử xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng chỉ trở thành một khoa học chân chính từ khi chủ nghĩa Mác
ra đời, khi duy vật lịch sử là cơ sở lý luận của phương pháp luận sử học.
Lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội, tất nhiên nó có tính chất giai cấp rõ rệt, phục vụ cho những mục đích
chính trị nhất định. Mỗi thời đại mỗi giai cấp có quan niệm, có cách nhìn khác nhau về nghiên cứu, sưu tầm và giải
thích sự kiện lịch sử. Từ trước đến nay các sử gia giải thích lịch sử lòa người đều dựa trên những vấn đề cơ bản, chủ
yếu là của triết học đang tranh cãi giữa hai trường phái duy tâm và duy vật, đó là cơ sở phương pháp luận của họ.
a. Triết học cổ đại chưa hình thành phương pháp luận của các nghành khoa học, nhưng đã có cơ sở triết học
của phương pháp luận.
Quan niệm thần học về lịch sử được xác nhận xã hội phát triển theo “mệnh trời”, theo “ý của Thượng đế”. Đó
là cơ sở lý luận của sử học phong kiến. Quan niệm này không những không phản ánh khoa học mà còn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn. Nếu nói rằng Thượng đế điều khiển sự phát triển của xã hội, bắt con người hoạt động theo ý muốn
của mình thì quả con người chỉ là cái máy, không có trách nhiệm gì với lịch sử. Như vậy thật vô lý! Nếu thừa nhận
con người hoạt động theo ý mình, sáng tạo ra lịch sử thì còn đâu là Thượng đế, là định mệnh, còn gì là Tôn giáo. Vì
thế giới nghiên cứu sử học phong kiến để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị vẫn bám vào quan niệm thần học về
lịch sử.
b. Triết học thời cận đại với Bêcơn và Đềcactơ đã sử dụng toán học làm mẫu mực để xây dựng một hệ thống
phương pháp nguyên tắc lý luận chỉ đạo việc nghiên cứu kho học, nhưng phương pháp luận này cũng như cơ sở triết
học của nó mang nặng tính chất máy móc.
c. Triết học lịch sử của phái duy tâm cổ điển Đức xem sự phát triển xã hội như quá trình bên trong, hợp quy
luật của nó. Song sự tất yếu đó không phải ở bản thân lịch sử, mà từ ngoài đưa vào, bắt nguồn từ triết học. Tính chất
của quy luật lịch sử theo quan niệm của Kant, Nisso.. như một cái gì tuyện đối không liên quan đến hoạt động thực tế
của con người, họ phủ nhận khả năng tác động con người một cách có ý thức vào sự phát triển lịch sử. Điều đó làm
cho quá trình lịch sử trở nên hoàn toàn có tính chất “định mệnh”, thần bí.
Quan điểm của Hêghen là đỉnh cao nhất của triết lý sử học tư sản, Mác và Ăngghen bài xích chủ nghĩa duy
tâm Hêghen, song rất quý trong triết lý lịch sử của ông. Ăngnghen nói rằng cách tư duy của Hêghen khác hẳn với các
nhà triết học khác ở chỗ quan điểm lịch sử. Mặc dù hình thức của nó rất trừu tượng và duy tâm, xong nó vạch được
sự phát triển hợp quy luật lịch sử thế giới. Hêghen là người đầu tiên đã chỉ ra sự phát triển và mối liên hệ nội tại của

lịch sử. Hiện nay chúng ta có thể rút ra trong triết lý lịch sử của Hêghen những quan điểm cơ bản đúng đắn.
2.1.2. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác và bước ngoặt cách mạng trong phương pháp luận sử học .
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một bước ngoặt vĩ đại, cách mạng trong sự phát triển của khoa học xã hội nói
chung và sử học nói riêng.

6


Quan điểm duy vật của Mác được vận dụng vào việc nghiên cứu lịch sử đã hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng thần
học, duy tâm, siêu hình và dựa vào thực tiễn lịch sử. Duy vật lịch sử không thừa nhận “một lực lượng siêu nhân” nào,
một Thượng đế hay ý chí một vĩ nhân nào sáng tạo ra lịch sử. Chính con người tạo ra lịch sử. “lịch sử không làm nên
cái gì cả, lịch sử không có cái gì phong phú cả, lịch sử không chiến đấu trong một trận đánh nào cả, không phải lịch
sử mà chính bản thân con người, con người thực là những kẻ làm ra tất cả và chiến đấu vì tất cả”. lịch sử “không phải
là một cá nhân đặc biệt sử dụng con người làm phương tiên để đạt mục đích riêng của mình. lịch sử không phải là cái
gì khác là những hoạt động con nguời theo đuổi mục đích của mình”.
Chủ nghĩa Mác đã soi sáng cho việc nghiên cứu lịch sử một cách thực sự khoa học, mở một triển vọng to lớn
cho sự phát triển của khoa học lịch sử, phương pháp luận sử học mácxit, phân biệt về nguyên tắc với khoa học lịch sử
và triết lý lịch sử tư sản.
Phương pháp luận sử học mácxit – lêninnit là một trong những thành tựu to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
được kiểm tra trong thực tiễn nghiên cứu và đã có khả năng giúp khoa học lịch sử trở thành một khoa học chân chính
để giải quyết những vấn đề quan trọng do thực tại lịch sử đặt ra.

7


2.2. Một số phương pháp nghiên cứu lịch sử.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là hai phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu lịch sử nói chung
và nghiên cứu lịch sử đảng nói riêng. Kết quả và chất lượng mỗi công trình nghiên cứu lịch sử phụ thuộc rất
nhiều vào việc kết hợp chặt chẽ và vận dụng nhuần nhuyễn hai phương pháp này.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là sự vận dụng các phạm trù "lịch


sử" và "lôgích" vào công

tác nghiên cứu, coi đó là phương tiện để đạt mục đích nghiên cứu và đây là những phương pháp quan trọng
của ngành sử học. Trước khi đi sâu vào việc vận dụng kết hợp hai phương pháp trên, chúng ta cần nắm được
đặc trưng và tính độc lập tương đối của từng phương pháp.
2.1.1.Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng lịch
sử theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, có lớp lang sau trước, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ điều
kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng
với các sự vật xung quanh.
Khi nghiên cứu bất cứ một hiện tượng xã hội nào như chế độ chính trị, chiến tranh, nghệ thuật lãnh đạo chỉ
đạo cách mạng,... phương pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và hình thành ra chúng, làm rõ
quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện của các hiện tượng xã hội này. Đồng
thời đặt quá trình phát triển của hiện tượng trong mối quan hệ nhiều hiện tượng tác động qua lại, thúc đẩy
hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Bằng phương pháp lịch sử, có thể cho phép
chúng ta dựng lại bức tranh khoa học của các hiện tượng, các sự kiện lịch sử đã xảy ra. Vì thế, có thể nói rằng
phương pháp lịch sử đã trở thành một mặt không thể tách rời của phương pháp biện chứng duy vật.
Đặc trưng của phương pháp lịch sử là:
1/ Tuân thủ nguyên tắc niên biểu, nghĩa là trình bày quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng
theo đúng trình tự vốn có của nó. Phương pháp lịch sử trình bày một sự vật, hiện tượng có đầu đuôi, có thời
gian xuất hiện, hình thành và các bước vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Chỉ trên cơ sở tuân thủ
theo nguyên tắc niên biểu mới thấy được tính liên tục trong vận động, phát triển của một hiện tượng cần
nghiên cứu, và từ đó mới có thể rút ra được tính chất, đặc điểm, xu hướng và quy luật vận động của chúng.
2/ Làm rõ sự phong phú, muôn hình muôn vẻ của sự vận động, phát triển của lịch sử - nghiên cứu lịch sử phải
tỉ mỉ, công phu, phải xem xét các mặt biểu hiện của nó, không được đơn giản, càng không được cắt xén làm
cho lịch sử trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. Đúng như Lênin đã viết: "Lịch sử bao giờ cũng phong phú về nội dung,
cũng đa dạng về nhiều mặt, cũng sinh động hơn điều mà chúng ta hình dung được" . Thí dụ như: Quy luật phổ
biến của cách mạng Việt Nam là toàn dân vũ trang, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm

nòng cốt. Những biểu hiện của quyluật này trong thực tiễn lịch sử của hai cuộc kháng chiến lại rất phong phú
đa dạng và hết sức sinh động, không giống nhau cả về hình thức và nội dung. Tính rộng khắp và sâu sắc của
toàn dân đánh giặc trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) đã có bước phát triển mới, cao hơn với hình
thức phong phú, sáng tạo hơn thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nếu không đầu tư công sức nghiên cứu tài liệu
8


thực tiễn sẽ không làm sáng tỏ được bước phát triển mới của quy luật này.
Tuy vậy, khi chúng ta trình bày các sự vật, hiện tượng lịch sử phải tránh sa vào liệt kê hiện tượng, sự kiện,
dồn đống tư liệu mà không chú ý đến sự vận động "lôgích" của các sự kiện, hiện tượng để chỉ ra xu hướng
vận động có tính quy luật của chúng. Cho nên, phản ánh sự phong phú, đa dạng của nội dung lịch sử không
đồng nghĩa với tập hợp thật nhiều sự kiện vụn vặt, lắp ghép theo trình tự thời gian. Làm như vậy, không bao
giờ có thể tạo ra được một bức tranh khoa học, phản ánh đúng lịch sử và quy luật vận động của nó.
3/ Một đặc trưng nữa là phải bám sát và phản ánh đúng các bước phát triển quanh co, thậm chí thụt lùi tạm
thời của lịch sử, bởi lẽ trong sự phát triển phong phú, muôn màu, muôn vẻ của xã hội loài người, không phải
lịch sử tiến lên theo con đường bằng phẳng, mà các bước phát triển của lịch sử diễn ra có lúc nhanh, lúc chậm,
lúc thuận, lúc nghịch, có khi quanh co hoặc thụt lùi. Tái hiện lịch sử phải trung thực, phản ánh đúng tiến trình
vận động của nó, không được tùy tiện lược bỏ những khuyết điểm, hạn chế và những bước thụt lùi. Chỉ có
được như vậy, việc nghiên cứu lịch sử mới thực sự rút ra được những bài học bổ ích.
Phương pháp lịch sử giúp chúng ta có thể đi sâu tái dựng được cả không khí lịch sử, cả tâm lý và tình cảm của
con người trong những sự vật, hiện tượng tiêu biểu. Như chúng ta đã biết, lịch sử diễn biến, phát triển thông
qua các sự vật, hiện tượng lịch sử. Phương pháp lịch sử không phải chỉ là trình bày nhiều sự vật, hiện tượng
mà phải biết lựa chọn, trình bày các sự vật, hiện tượng tiêu biểu, điển hình. Những sự vật, hiện tượng đó là
những biểu hiện tập trung nhất phản ánh quy luật vận động của lịch sử. Thí dụ, trong vô vàn cuộc nổi dậy của
nhân dân miền Nam thời kỳ 1958-1960 thì khởi nghĩa Trà Bồng (8/1959, đồng khởi Bến Tre 1/1960, Tua HaiTây Ninh 1/1960,... là những sự kiện tiêu biểu, điển hình hơn cả của phong trào cách mạng giai đoạn đó. Khi
nghiên cứu các sự kiện quan trọng này, không những phải làm sáng tỏ điều kiện hình thành và diễn biến của
sự kiện mà còn phải đi sâu tìm hiểu để làm rõ sắc thái riêng của từng sự kiện, mô tả được tâm lý, tình cảm của
quần chúng nhân dân và cả không khí sôi động, hào hùng của cuộc đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ. Một thí
dụ nữa, trong cuộc đồng khởi Bến Tre, việc dựng lại không khí đấu tranh hừng hực vùng lên của quần chúng
nhân dân,... là rất cần thiết, làm cho lịch sử sống lại, mang sức truyền cảm lớn lao. Xây dựng lại sự kiện sơ

sài, giản đơn, thiếu con người và tình cảm của họ sẽ sa vào những phản ánh chung chung, làm giảm đi tính
sinh động của bản thân lịch sử.
4/ Vận dụng phương pháp lịch sử trong nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời gian xẩy ra sự vật, hiện
tượng, con người đã tham gia vào sự kiện, hiện tượng đó, bởi vì các yếu tố này là những dấu ấn quan trọng
của lịch sử. Nó đảm bảo tính khách quan và xác thực trong tái hiện lịch sử, nhất là khi trình bày các sự kiện
tiêu biểu của các cuộc đồng khởi nêu trên, các hoạt động đánh dấu bước ngoặt của lịch sử hoặc cuộc tổng tiến
công chiến lược làm chuyển biến cục diện cách mạng chẳng hạn. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử rất phong
phú đòi hỏi giới sử học phải nắm chắc phương pháp lịch sử để khai thác nó một cách triệt để và sâu sắc. Dĩ
nhiên, phương pháp lịch sử, như trên đã trình bày, không chỉ là đơn thuần trình bày tiến trình phát triển của
lịch sử bằng cách sưu tầm và liệt kê nhiều sự kiện, hiện tượng. Quan trọng hơn là phải đầu tư tìm hiểu, vạch ra
được cái "lôgích" phát triển của các sự kiện, có nghĩa là tìm quy luật phát triển của lịch sử.
9


Phương pháp lịch sử có ưu thế trong việc nghiên cứu lịch sử nhưng chỉ riêng phương pháp lịch sử thì chưa thể
tạo nên một công trình nghiên cứu lịch sử có tính lý luận và khoa học. Bởi vậy, cần vận dụng có hiệu quả
phương pháp lôgích và các phương pháp khác trong nghiên cứu lịch sử.
2.1.2. Phương pháp lôgích
Phương pháp lôgích là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, nhằm vạch
ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Khác với phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgích không đi vào toàn bộ diễn biến, những bước quanh co, thụt lùi của lịch sử; nó bỏ qua những cái
ngẫu nhiên có thể xảy ra trong lịch sử mà nắm lấy bước phát triển tất yếu, nắm lấy cái cốt lõi của sự phát
triển, nghĩa là nắm lấy quy luật lịch sử. Như vậy, phương pháp lôgích cũng phản ánh quá trình lịch sử nhưng
phản ánh dưới hình thức trìu tượng và khái quát bằng lý luận. Có nghĩa là, phương pháp lôgích trình bày các
sự kiện một cách khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ các chi tiết không cơ bản. Đó là hình
thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử.
Phương pháp lôgích theo Ăngghen, không phải là cái gì khác là phương pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát
khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng
phải bắt đầu từ đó. Và sự vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử
dưới một hình thức trìu tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn

nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có
thể xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thái cổ
điển của nó .
Phương pháp lôgích sử dụng các luận điểm khoa học trong tư duy nhằm lý giải, khái quát, đánh giá và rút ra
những kết luận từ các sự kiện lịch sử. Vận dụng phương pháp lôgích trong nghiên cứu lịch sử cần tuân thủ
những yêu cầu sau:
1/ Tránh máy móc và định kiến
Cần chú ý trong nghiên cứu lịch sử, khi sử dụng các luận điểm khoa học phải coi đó chỉlà các phương tiện,
công cụ của tư duy lôgích, chứ không phải cái có sẵn để định hình hco lịch sử theo ý muốn chủ quan của
người nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu phải dùng các luận điểm đểphát hiện ra "lôgích" phát triển của lịch sử
chứ không được đưa ra một cái khung lôgích phát triển rồi gán cho lịch sử. Trong các quy luật vận động của
lịch sử có quy luật phổ biến và quy luật đặc thù (riêng). Chung ta nắm chắc quy luật phổ biến để xem xét các
sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhưng lại phải đi sâu vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm tìm ra quy luật đặc
thù của chúng. Thí dụ: Nói đến chiến tranh nhân dân thì quy luật phổ biến của nó là đấu tranh toàn diện và
đông đảo quân fhcúng tham gia. Nhưng chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng vận động
và phát triển trong điều kiện lịch sử của đất nước và con ngươì Việt Nam nên nó có những biểu hiện riêng,
phát triển với những nét đặc thù riêng không giống như chiến tranh nhân dân ở các quốc gia, dân tộc khác.
Nếu nghiên cứu lịch sử mà không làm rõ được những nét riêng đó thì khái quát lôgích chỉ dừng lại ở những
10


biểu hiện của quy luật chung, không rút ra được điều gì bổ ích của chiến tranh nhân dân vô cùng phong phú,
sáng tạo của dân tộc ta. Xét cho cùng thì làm rõ được tính phổ biến, cũng như tính đặc thù của lịch sử, có
nghĩa là các nhà nghiên cứu đã khái quát đúng đắn được quy luật của lịch sử cụ thể, tránh được sự chủ quan
và định kiến trong nghiên cứu.
2/ Trên cơ sở những diễn biến của lịch sử thì khái quát lôgích mới có căn cứ. Tách rời diễn biến lịch sử, chỉ
dùng khái quát lôgích thay thế cho phương pháp lịch sử thì thường dẫn đến những suy luận trìu tượng, nhận
xét chung chung, thậm chí kết luận sai lệch nữa. Do vậy, người nghiên cứu cần chú ý tránh sự hời hợt trong
nghiên cứu, phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử rồi vội vã rút ra các kết luận nông cạn, thậm chí sai lệch,
đồng thời cũng cần phải tránh sự khái quát thiếu hẳn các sự kiện, hiện tượng lịch sử làm cơ sở cho những

điểm kết luận.
Như vậy, có nghĩa là phương pháp lôgích là sự phân tích khoa học biện chứng của sự phát triển thực tế của sự
vật, hiện tượng chứ không phải rút một khái niệm này từ một khái niệm khác một cách tư biện . Sự phù hợp
giữa lôgích và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận của lôgích biện chứng mácxít. Bởi lẽ muốn hiểu
được bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu sự phát sinh, phát triển của nó. Ngược lại, chỉ có nắm được
bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn.
Dựng lại cái lôgích khách quan của sự phát triển của sự vật, hiện tượng là nhiệm vụ của phương pháp lôgích.
Muốn vậy, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải bắt đầu từ hình thức phát triển tương đối hoàn thiện và chín
muồi nhất của nó chứ không thể tùy tiện. Nếu lịch sử chính là bản thân cuộc sống thì lôgích là bản chất của
cuộc sống do nghiên cứu lý luận chỉ ra.
Không có sự khác nhau về nguyên tắc giữa lịch sử và lôgích. Vấn đề là ở chỗ sự kết hợp giữa chúng một cách
nhuần nhuyễn trong nghiên cứu sao cho đối tượng được dựng nên với một diện mạo lịch sử trung thực, đúng
như bản thân nó vốn có và trong đó nổi bật lôgích về sự vận động, sinh thành, phát triển của nó. Giải thích
tính thống nhất giữa hai phương pháp, khi bàn về phương pháp lôgích, Ph. Ăngghen đã viết: "Về bản chất,
phương pháp lôgích không phải là cái gì khác mà chính là phương pháp lịch sử đã được giải thoát khỏi hình
thức lịch sử, không bị phụ thuộc vào cái hoàn cảnh ngẫu nhiên, pha trộn..." và phương pháp lôgích "hoàn toàn
không nhất định đóng khung trong phạm vi trìu tượng thuần túy. Trái lại, nó đòi hỏi phải có sự minh họa lịch
sử. Như vậy, có thể hiểu rằng, phương pháp lịch sử đã chứa đựng tính "lôgích" của sự phát triển lịch sử; còn
phương pháp lôgích đã bao hàm phương pháp lịch sử. Hai phương pháp này kết hợp chặt chẽ với nhau, và
trong bản thân phương pháp này đã có sự thâm nhập của phương pháp kia, không thể vận dụng từng phương
pháp tách rời nhau.
Tóm lại, xem xét từng phương pháp, ta thấy được các yêu cầu và tính độc lập tương đối của mỗi phương pháp
nhưng cả hai phương pháp lịch sử và lôgích đều thống nhất ở mục tiêu là làm sáng tỏ quy luật khách quan của
sự phát triển lịch sử. Trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử phải vận dụng được tính thống nhất trong sự khác
biệt của chúng. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong
nghiên cứu, biên soạn lịch sử có một ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Nó tránh cho ta mắc phải cách
xem xét một chiều khi nghiên cứu lịch sử, ngăn ngừa chủ quan, máy móc. Nó cũng giúp ta tránh tình trạng ôm
11



đồm, chỉ liệt kê tài liệu và ngăn ngừa cả kiểu lý luận suông không cần thiết.

2.1.3. Phương pháp phân tích so sánh
Phương pháp này là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Đó là sự so sánh
giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện, hoàn cảnh xác định chi phối chúng, cho phép
nhìn rõ nét tương đồng và sự khác biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung bản chất hoặc những
dấu hiệu phân biệt cái riêng này với cái riêng khác.
Phương pháp phân tích so sánh cũng có thể dựa trên những cái mốc của sự kiện và thời gian của cùng một cái
trục vận động lịch sử để tìm ra sự phát triển khác nhau của cùng một đối tượng, chỉnh thể trong những thời
điểm và hoàn cảnh khác nhau.
2.1.4. Phương pháp lịch đại
Trong số các phương pháp riêng để nhận thức lịch sử có phương pháp lịch đại. Phương pháp này cho phép
nghiên cứu quá khứ lần theocác giai đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa vào quan niệm của chủ nghĩa MácLênin về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, dựa vào quan niệm biện chứng cho rằng trong một
quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình nó những đặc điểm và những yếu tố của giai
đoạn trước. Quan niệm rằng, đối với mỗi hiện tượng cũng như đối với mỗi hệ thống đều chứa đựng những yếu
tố của các giai đoạn trước và các giai đoạn tiếp sau, đã mở ra con đường, nhằm vạch ra khuynh hướng phát
triển, cũng như hiểu rõ được những việc đã qua của nó. Một trong những cách hiểu quá khứ là dựa vào những
mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng. Giới sử học có khả năng đánh giá hiện tượng quá khứ theo các kết
quả và hậu quả mà nguyên nhân của chúng là hiện tượng đó, có nghĩa là nghiên cứu nó, theo cách nói của
Lênin, "trong mối liên hệ với những kinh nghiệm lịch sử cụ thể" . Tuy nhiên, tác dụng của phương pháp lịch
đại bị hạn chế khi nghiên cứu các hiện tượng xảy ra gần với ta và có ưu thế khi nghiên cứu các hiện tượng xa
xôi.
2.1.5. Phương pháp đồng đại
Phương pháp riêng để nhận thức lịch sử thứ hai là phương pháp đồng đại. Phương pháp này mở ra khả năng
nhận thức rộng lớn. Thực chất của nó là xác định các hiện tượng, quá trình khác nhau xảy ra cùng một thời
điểm (có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch
sử ; so sánh được cái gì đã xảy ra trong cùng một thời gian, ở các nước khác nhau, ở các vùng khác nhau trong
một nước, ở các tổ chức đảng khác nhau, cũng như so sánh các quá trình có tính chất khác nhau xảy ra trên
cùng một lãnh thổ (thí dụ như phong trào công nhân, phong trào nông dân, phong trào trí thức, phong trào
trong quân đội, v.v...). Thực hiện phương pháp đồng đại này, thường thường chúng ta dùng các bảng đối

chiếu niên đại.
Sự kết hợp lịch đại và đồng đại trong nghiên cứu sự phát triển của một đối tượng, của những đối tượng khác
trở nên cần thiết một cách khách quan. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nghiên cứu quá trình hình thành
12


tư tưởng, chuyển đổi thế giới quan của một nhân vật lịch sử, hoặc những cống hiến khác nhau của những nhân
vật lịch sử khác nhau trong cùng một thời đại cũng như trong những thời đại lịch sử khác nhau.
2.1.6. Phương pháp phân kỳ
Phương pháp này cho phép giới sử học nghiên cứu sâu sắc các quá trình lịch sử, làm sáng tỏ nội dung và đặc
điểm của các giai đoạn phát triển của chúng, ghi lại các thời kỳ biến đổi về chất của chúng, mà tính chất của
sự biến đổi đó thể hiện trong các khuynh hướng và các quy luậtls chủ yếu của chúng. Cho nên, phương pháp
phân kỳ phải được coi làmột trong các phương pháp chủ yếu, riêng biệt của việc nhận thức lịch sử.Không
được lẫn lộn phương pháp này với phương pháp nhận thức lịch sử có tính chất khoa học phổ cập, là phương
pháp nghiên cứu quá trình phát triển theo thời gian. Vấn đề là ở chỗ, phương pháp phân kỳ là phương pháp
riêng của khoa học lịch sử, là phương tiện nghiên cứu sâu sắc các sự kiện lịch sử, và là phương pháp vạch rõ
được nội dung khách quan của chúgn, nhưng không phải chỉ theo thời gian của các sự kiện, hiện tượng, mà
còn căn cứ vào cả cái điển hình của các sự kiện, khi áp dụng phương pháp lịch sử trong các khoa học khác.
2.1.7. Phương pháp thống kê
Trong các phương pháp của các môn phụ cận, trước hết ta phải chú ý nhiều đến phương pháp thống kê.
Phương pháp này cho phép thông qua tất cả các bản thống kê về số lượng, (được nghiên cứu nhờ sự giúp đỡ
của các thủ thuật và các hệ phương pháp riêng) vạch ra tính quy định thuộc về tính chất của các hiện tượng và
quá trình lịch sử. Không phải ai khác, mà chính Lênin đã chỉ ra là có thể áp dụng rộng rãi phương pháp này,
một phương pháp ra đời trong ngành thống kê - kinh tế để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
2.1.8. Phương pháp nghiên cứu xã hội cụ thể
Cùng với phương pháp thống kê, ta phải kể đến phương pháp nghiên cứu xã hội cụ thể. Phương pháp này
buộc nhà sử học phải theo dõi trực tiếp các hiện tượng và quá trình của đời sống xã hội nhờ các phương pháp
riêng. Phương pháp này được sử dụng trước hết trong xã hội học, theo bản chất của nó, hoàn toàn có thể áp
dụng vào việc nghiên cứu lịch sử, bởi lẽ nó cho phép nghiên cứu sự tác động của các quy luật chung trong
hình thức lịch sử cụ thể mà chúng xuất hiện. Trong công tác nghiên cứu lịch sử đảng, phương pháp này không

phải chỉ là phương tiện có hiệu lực làm cho việc nghiên cứu trở nên hợp thời, mà nó còn cho phép bổ sung về
cơ bản những chỗ thiếu hổng trong tư liệu, đặc biệt khi viết về hoạt động của Đảng trong điều kiện hiện nay.

13


PHẦN KẾT LUẬN.
“Vấn đề phương pháp là vấn đề của chúng ta” (của những người học tập và nghiên cứu lịch sử) đúng như sự
khẳng định của Gulưga nhà triết học lịch sử Xô viết trước đây. Bởi vì, bất cứ người nghiên cứu lịch sử nào cũng phải
đặt và giải quyết những vấn đề phương pháp luận theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Trong ý nghĩa và mức
độ nhất định, phương pháp luận là một nhân tố quan trọng, có tính quyết định đối với sự thành công của người nghiên
cứu, học tập lịch sử, tức là đạt được chân lý khách quan về hiểu biết một cách tương đối quá khứ.
Tuy nhiên, việc nắm vững và vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận phải rất sáng tạo, khắc phục những
sai sót, về mặt công thức, giáo điều, chủ quan phiến diện. Bởi vì, chúng ta đã xác định rằng, phương pháp luận mácxít
– lêninnit được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, song không đồng nhất phương pháp luận lịch
sử với duy vật lịch sử. Ngoài những kiến thức cơ bản về duy vật lịch sử, phương pháp luận còn bao gồm nhiều kiến
thức về logic học, nhận thức luận… đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử. Những vấn đề lịch sử cụ thể vừa là cơ sở
để nhận thức phương pháp luận sử học, vừa là thể hiện kết quả của việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
vào tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử.
Đồng thời khi học tập nghiên cứu phương pháp luận sử học cần nắm vững những nội dung cơ bản về tư tưởng
Hồ Chí Minh, đặc biệt các vấn đề về phương pháp luận Hồ Chí Minh về nhận thức lịch sử và vận dụng các kiến thức
lịch sử và thực tiễn cuộc sống.
Trong việc vận dụng các quan điểm, nguyên tắc phương pháp luận sử học có một công việc quan trọng là đấu
tranh chống những nhận thức không đúng của bản thân về lịch sử, đặc biệt là đấu tranh chống các luận điểm không
khoa học, phản động của các nhà sử học cố ý hoặc vô tình trong việc bảo vệ quan điểm tư sản không đúng và tấn
công, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực phương pháp
luận sử học diễn ra cũng rất gay go, phức tạp, đòi hỏi sự tỉnh táo, nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nội dung các vấn đề lịch sử cụ thể.
Cuối cùng, việc nắm vững các vấn đề phương pháp luận sử học, chúng ta có ý thức rèn luyện kỹ năng về vận
dụng các quan điểm, nguyên tắc để nhận thức và giải quyết các vấn đề dạy lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng

giáo dục lịch sử của chúng ta.

14


15



×