BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HỒ THỊ TUYẾT
CÂU TRONG LỜI TRẦN THUẬT
Ở TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HỒ THỊ TUYẾT
CÂU TRONG LỜI TRẦN THUẬT
Ở TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG LƯU
NGHỆ AN - 2015
MỤC LỤC
Trang
MƠ ĐẦU................................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................5
2. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................................6
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.................................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................6
5. Cái mới của luận văn......................................................................................................7
6. Cấu trúc luận văn............................................................................................................7
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ KHOA HỌC CỦA ĐỀ
TÀI.........................................................................................................................................8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................................8
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài..........................................................................................12
1.2.1. Thể loại tiểu thuyết.............................................................................................
1.2.2. Ngôn ngữ tiểu thuyết..........................................................................................
1.3. Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu văn trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam 26
1.3.1. Những quan niệm về câu tiếng Việt...................................................................
1.3.2. Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết....................
1.4. Nguyễn Việt Hà với tiểu thuyết Ba ngôi của người..................................................29
1.4.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Việt Hà...................................................................
1.4.2. Tiểu thuyết Ba ngôi của người...........................................................................
Tiểu kết chương 1.............................................................................................................33
Chương 2 CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ CẤU TẠO
NGỮ PHÁP VÀ MỤC ĐÍCH PHÁT NGÔN......................................................................34
2.1. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp và việc nghiên cứu câu trong
văn bản tiểu thuyết từ góc độ cấu tạo ngữ pháp...............................................................34
2.1.1. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp.....................................
2.1.2. Việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết từ góc độ cấu tạo ngữ
pháp.................................................................................................................
2.2. Đặc điểm câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người nhìn từ cấu tạo ngữ pháp..........41
2.2.1. Tổng quan về câu văn trong tiểu thuyết Ba ngôi của người nhìn từ góc
độ cấu tạo ngữ pháp.........................................................................................
2.2.2. Câu đơn trong Ba ngôi của người......................................................................
2.2.3. Cách tạo câu ghép...............................................................................................
2.3. Đặc điểm câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về mục đích phát ngôn........61
2.3.1. Việc tìm hiểu câu trong văn bản nghệ thuật ở phương diện mục đích
phát ngôn.........................................................................................................
2.3.2. Câu trong Ba ngôi của người xét về mục đích phát ngôn..................................
4
Tiểu kết chương 2.............................................................................................................69
Chương 3 CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ TU TỪ CÚ
PHÁP VÀ VAI TRÒ NGHỆ THUẬT.................................................................................70
3.1. Tu từ cú pháp và việc sử dụng tu từ cú pháp trong sáng tạo văn học.......................70
3.1.1. Vấn đề tu từ cú pháp...........................................................................................
3.1.2. Việc sử dụng tu từ cú pháp trong sáng tạo văn học............................................
3.2. Một số biện pháp tu từ nổi bật trong Ba ngôi của người...........................................72
3.2.1. So sánh...............................................................................................................
3.2.2. Tách câu.............................................................................................................
3.2.3. Phép điệp............................................................................................................
3.3. Vai trò nghệ thuật của câu trong Ba ngôi của người.................................................83
3.3.1. Miêu tả ngoại cảnh, tái hiện lịch sử....................................................................
3.3.2. Khắc họa nhân vật..............................................................................................
3.3.3. Phẩm bình, triết lý..............................................................................................
Tiểu kết chương 3.............................................................................................................93
KẾT LUẬN..........................................................................................................................94
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thống kê câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp trong tiểu thuyết Ba ngôi của
người.....................................................................................................................................43
Bảng 2.2. Thống kê so sánh câu đơn bình thường trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương
đại.........................................................................................................................................45
Bảng 2.3. Thống kê so sánh câu đơn đặc biệt trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại
..............................................................................................................................................55
Bảng 2.4. Thống kê so sánh câu ghép chính phụ trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương
đại.........................................................................................................................................57
5
MƠ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ tiểu thuyết
nói riêng là một trong những mảng đề tài quan trọng của hoạt động nghiên
cứu ngữ văn. Nghiên cứu ngôn ngữ tiểu thuyết, trong đó đi sâu vào tìm hiểu
đặc điểm ngôn ngữ một tác phẩm là một trong những hướng đi cần thiết để
khám phá cái hay, cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Ngôn ngữ nghệ thuật
được tiếp cận trên nhiều phương diện. Tìm hiểu đặc điểm của câu văn trong
văn bản nghệ thuật là một hướng tiếp cận rất cần thiết để khám phá những
thành quả của một tác giả nói riêng, đặc điểm hình thức một khía cạnh của thể
loại tiểu thuyết nói chung. Sự lựa chọn đề tài nghiên cứu của chúng tôi xuất
phát từ định hướng khoa học đó.
1.2. Nguyễn Việt Hà là một nhà văn mới xuất hiện khoảng vài chục
năm nay, nhưng đã khẳng định vị trí của mình trong văn học đương đại Việt
Nam với một số tác phẩm thuộc hai thể loại chính: tiểu thuyết và tạp văn.
Riêng với tiểu thuyết, tên tuổi của ông được biết đến trước hết với Cơ hội của
Chúa (1999), tiếp đến là Khải huyền muộn (2003) và gần đây là Ba ngôi của
người (2014). Những cuốn tiểu thuyết ấy từ khi xuất hiện đã thu hút sự chú ý
của công chúng độc giả và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Như những
hiện tượng văn học khác, tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà cũng có hai luồng ý
kiến khen chê khác nhau, tùy quan điểm, lập trường, thị hiếu của người
thưởng thức. Những dù khen hay chê, các ý kiến đều ghi nhận những nỗ lực
của nhà văn trong việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết, trong đó có vấn đề
ngôn ngữ. Điều này biểu hiện rõ ở những mức độ khác nhau trong cả ba cuốn
tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà.
1.3. Là một tiểu thuyết chỉ mới xuất hiện trên văn đàn hơn một năm nay
(2014), nhưng Ba ngôi của người đã được bàn luận khá nhiều. Trên các diễn
6
đàn, ta bắt gặp bên cạnh những ý kiến đánh giá về mảng đời sống mà nhà văn
muốn khám phá, về những mới lạ trong chủ chủ đề, về sự phong phú của nội
dung, về hai mặt phài trái trong thái độ, đạo đức của nhà văn..., còn có không
ít ý kiến đề cập đến hình thức ngôn ngữ nói chung, đặc điểm câu văn nói
riêng của cuốn tiểu thuyết. Điều này có nghĩa, những nỗ lực sáng tạo của nhà
văn đã gây được sự chú ý và đánh giá của độc giả. Những đánh giá kiểu ấy là
hết sức cần thiết trong bối cảnh tiếp nhận văn học hiện nay, bởi nó ghi nhận
trình độ thưởng thức văn chương của độc giả, cách nhìn có tính chuyên
nghiệp của giới phê bình và nhất là sẽ có những tác động tích cực trở lại đối
với người sáng tác.
Đó là những lý do thúc đầy chúng tôi đi vào nghiên cứu câu văn trong
tiểu thuyết Ba ngôi của người của nhà văn Nguyễn Việt Hà.
2. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn hướng tới hai đối tượng sau đây:
- Một số vấn đề câu trong văn bản tiểu thuyết.
- Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà xét về
các khía cạnh.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết về câu tiếng Việt, nghiên cứu đặc điểm cấu tạo
ngữ pháp, tu từ cú pháp và mục đích biểu đạt của câu trong tiểu thuyết Ba
ngôi của người của nhà văn Nguyễn Việt Hà, từ đó đánh giá về sự sáng tạo
ngôn ngữ của tác giả qua tác phẩm được khảo sát.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp và
thủ pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học. Từ những ngữ liệu được khảo
sát, phương pháp thống kê ngôn ngữ học được sử dụng để nắm bắt chính xác
mặt định lượng, trên cơ sở đó, phân tích, rút ra những kết luận định tính.
7
- Thủ pháp phân tích, miêu tả, tổng hợp. Đây là các thủ pháp được sử
dụng để xử lý tư liệu đã thống kê phân loại. Từ thao tác phân tích, miêu tả,
luận văn sẽ tổng hợp thành những luận điểm, gắn với từng mục, từng ý được
triển khai.
- Thủ pháp đối sánh. Để thấy được những nét riêng về câu văn trong
tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, nhất thiết phải đặt đối
tượng nghiên cứu trong tương quan với các đối tượng khác cùng loại. Câu văn
của Nguyễn Việt Hà có những nét gì giống và khác so với câu văn trong tác
phẩm của các nhà văn cùng thời, đó là điều được rút ra nhờ sử dụng thủ pháp
đối sánh.
5. Cái mới của luận văn
Tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà mới xuất hiện trên
văn đàn, tuy gây được dư luận trong độc giả, nhưng các bài viết về tác phẩm
này chưa nhiều. Do vậy, đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu vấn đề câu văn
trong cuốn tiểu thuyết này, với mong muốn góp phần đánh giá một phương
diện trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được
triển khai trong ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở khoa học của
đề tài.
Chương 2: Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về cấu tạo
ngữ pháp.
Chương 3: Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về tu từ cú
pháp và mục đích biểu đạt.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Có thể nói, trong sáng tác của các nhà văn đương đại, tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà rất may mắn được độc giả và giới nghiên cứu phê bình chú ý
ngay khi chúng mới được phát hành. Chúng tôi xin điểm lại một số bài báo
thể hiện những cách nhìn, những quan điểm khác nhau về các tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà nói chung, Ba ngôi của người nói riêng. Viết về tiểu thuyết
của Nguyễn Việt Hà, các nhà phê bình đề cập đến nhiều mặt. Nhưng, từ góc
nhìn của luận văn này, chúng tôi chỉ chú ý những luận điểm liên quan đến vấn
đề ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là những ý kiến nói về
ngôn ngữ của cuốn Ba ngôi của người.
Trên một số báo Nhân Dân hồi 1999, Trần Mạnh Hảo đã lớn tiếng cảnh
báo sự lệch lạc trong sáng tạo của Nguyễn Việt Hà. Bài phê bình đầy nộ khí
ấy có nhan đề: “Cơ hội của Chúa, còn cơ hội nào cho văn chương?”. Về ngôn
ngữ, cũng như một số nhà phê bình khác, Trần Mạnh Hảo tỏ ra dị ứng với
hiện tượng dùng từ ngữ nước ngoài khá phong túng của Nguyễn Việt Hà
trong Cơ hội của Chúa.
Giọng điệu phủ nhận khá nặng nề ấy ta cò bắt gặp trong một bài viết
của Nguyễn Hòa: “Cơ hội của Chúa: Chúa cũng không giúp được gì” (2004).
Về mặt ngôn ngữ, Nguyễn Hòa nhận xét: văn Nguyễn Việt Hà chịu ảnh
hưởng lối viết của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp ở cái nhìn chua chát,
giễu cợt. Ông phê phán “Nguyễn Việt Hà đã để mình rơi vào một lỗi kỹ thuật
là không điều chỉnh giọng văn, để cho giọng tác giả chi phối bất kể đó là lời
kể của tác giả, lời kể của Nhã, lời kể của Tâm, hay lời kể của Thuỷ. Nguyễn
9
Việt Hà không hoá thân được với ngôn ngữ nhân vật, không phân biệt ngôn
ngữ của các tính cách, rốt cục, không rõ ngôn ngữ tác giả đã thay thế ngôn
ngữ nhân vật hay ngôn ngữ nhân vật thay thế ngôn ngữ tác giả?” [23]. Với
một thái độ có vẻ “rất thể tất”, Nguyễn Hòa cho rằng, “Với Nguyễn Việt Hà,
mọi việc còn ở phía trước, qua Cơ hội của Chúa anh đã chứng tỏ một tiềm
năng, nhất là ở một số yếu tố kỹ thuật của thể loại. Nguyễn Việt Hà đã có
những tiền đề để bạn đọc hy vọng” [23].
Ngược lại với thái độ phê phán, thậm chí phủ nhận trên đây, nhà phê
bình Đoàn Cầm Thi trong bài viết “Cơ hội của Chúa: từ nhật ký đến hậu
trường văn học” (2004) thú nhận: tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà cuốn hút bà
trước hết bởi nghệ thuật của nó. “Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là một lò
thử nghiệm văn phong khổng lồ trong đó ta gặp lối kể chuyện ở ngôi thứ ba,
thể loại tự sự ở ngôi thứ nhất, văn nhái, truyện lồng truyện, tiểu luận. Đặc
biệt, bằng những hình thức rất khác nhau như đối thoại, độc thoại, nhật ký,
thư, sáng tạo văn học, các nhân vật không ngừng lĩnh chiếm sân khấu Cơ hội
của Chúa, gạt người-kể-chuyện sang bên, để tự bày tỏ cái “tôi” của mình. Có
thể nói trong tình yêu, tình bạn hay áp-phe họ đều hết mình, nhưng ngôn từ
mới là lĩnh vực tác giả cho họ sống hăng say nhất” [61].
Xem tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà được sáng tác theo thi pháp hậu
hiện đại, Phùng Gia Thế (2009) khẳng định: “Trong cuộc phiêu lưu kiếm tìm
cái mới cho tiểu thuyết, những tìm tòi của Nguyễn Việt Hà, dẫu chưa thật
nhiều thành công, có những điều chưa đáp ứng được “yêu cầu lí tưởng” của
bạn đọc, song cần phải ghi nhận ở đây những thành quả ban đầu quan trọng
của nhà văn. Chơi với ngôn từ, tác giả nhiều khi không giấu được sự mỏi mệt,
đuối sức. Tuy nhiên, đằng sau cuộc chơi ấy, chúng tôi hiểu, đó là sự dũng
cảm, thành thực của nhà văn, sự sáng tạo nghiêm túc, nhiều khi đơn độc, một
cuộc kiếm tìm văn chương thực sự. Không lấy Nguyễn Việt Hà để kết luận
10
cho tiểu thuyết Việt Nam hôm nay, bài viết vẫn nhắm vào mục đích hai mặt;
một: khẳng định những nét mới trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà; một khác:
góp phần khai triển một hướng nghiên cứu đang được chú ý gần đây: tìm hiểu
những dấu hiệu hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1986 và xem
đây như một xu hướng phát triển - hội nhập thuận chiều với tiến trình văn
chương thế giới” [60].
Rất gần gũi với Nguyễn Việt Hà, và cũng đánh giá cao những tìm tòi của
Nguyễn Việt Hà trong lĩnh vực tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp phát hiện ra ở
nhà văn này có một thứ thi pháp mà ông đặt tên là “Thi pháp “túy quyền”
(2005). “Túy quyền” trong văn phong của Nguyễn Việt Hà có những “chiêu
thức” rất đắt. Trong cái biểu hiện hiện thực dung tục kia, với Nguyễn Việt Hà,
chỉ có thể say xỉn mới chịu đựng được, mới sống và viết được về nó. Có lẽ
Nguyễn Việt Hà là nhà văn duy nhất ở ta hiện nay dùng “túy quyền” trong văn
học và đã thành công. Xem xét kỹ lối viết của anh (kể cả cách đặt câu, thường
bao giờ cũng hay đặt trạng ngữ lên đầu, kiểu “đôi mắt mênh mông buồn” chứ
không phải “đôi mắt buồn mênh mông”) ta sẽ thấy một sự lộn xộn rất khó chịu.
Nguyễn Việt Hà không phải là “nhà văn của những mệnh đề đơn giản” (chữ
của Trần Đăng Khoa). Khi những tác phẩm đầu tiên của anh được in ra, nhiều
người (thậm chí cả chính tác giả) cũng hoang mang, không biết xếp nó ở đẳng
cấp nào: Văn học? Á văn học? Hiện thực? Siêu hiện thực? [63].
Cho rằng, với Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà đã “Dựng lại chân
dung Hà Nội từ tư liệu lịch sử”, Thiện Nguyễn (2014) cảm nhận: “Đọc Ba
ngôi của người dễ thấy “Ngôn từ không hoa mỹ, rất đời và đôi khi hơi thô
càng làm tăng tính thực tế của câu chuyện” [47].
Cũng ở khía cạnh ngôn ngữ, Việt Quỳnh nhận thấy: “Trong Ba ngôi
của người, nhà văn Nguyễn Việt Hà ưa dùng những câu ngắn. Từng câu thẳng
thắn lạnh lùng sộc thẳng vào tinh thần người đọc mà khuấy đảo. Anh vừa bộc
11
lộ cá tính cái nhìn của anh vào từng nhân vật, vừa chọn vị trí bóc tách đứng
ngoài quan sát. Điểm nhìn thay đổi liên tục từ: nhân vật - nhà văn - người
quan sát thầm lặng. Cũng vừa đủ kết cấu cho “ba ngôi của người” [52]. Về kỹ
thuật tiểu thuyết, Việt Quỳnh phát hiện: “Nguyễn Việt Hà rất ưa "áp dụng"
những cấu trúc lạ mà anh nghĩ là tiên tiến vào tác phẩm của mình. Đây là một
điểm son, và nó dễ dàng đến đáng kinh ngạc: thủ pháp "truyện trong truyện"
(mise en abîme) mà bọn phê bình có chút học hành đơn sơ như tôi phải bỏ ra
rất nhiều năm mới tạm gọi là nắm được, thì anh giản dị cho nó vào Khải
huyền muộn. Đó là một tiểu thuyết không xuất sắc, nhưng cũng không tệ,
quyển thứ hai như vậy thì hoàn toàn chấp nhận được. Ngay quyển thứ ba này,
Ba ngôi của người, với rất nhiều độc giả, vẫn là một tác phẩm hay” [52].
Một trong những người tỏ ra khá khắt khe trong đánh giá cuốn tiểu
thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà là Nhị Linh (Cao Việt Dũng).
Ông viết: “Nguyễn Việt Hà rất ưa "áp dụng" những cấu trúc lạ mà anh nghĩ là
tiên tiến vào tác phẩm của mình. Đây là một điểm son, và nó dễ dàng đến
đáng kinh ngạc: thủ pháp "truyện trong truyện" (mise en abîme) mà bọn phê
bình có chút học hành đơn sơ như tôi phải bỏ ra rất nhiều năm mới tạm gọi là
nắm được, thì anh giản dị cho nó vào Khải huyền muộn. Đó là một tiểu thuyết
không xuất sắc, nhưng cũng không tệ, quyển thứ hai như vậy thì hoàn toàn
chấp nhận được. Ngay quyển thứ ba này, Ba ngôi của người, với rất nhiều độc
giả, vẫn là một tác phẩm hay. Tôi chẳng quan tâm đến độ hay dở nữa, giờ đây
sự nghiệp văn chương của Nguyễn Việt Hà đã đầy đặn rồi, ta chuyển qua nói
những chuyện khác [35].
Nói thì cũng buồn, nhưng văn của Nguyễn Việt Hà, đậm đặc nồng độ
cao những lên án "đạo đức giả" và "giả dối", thì chính thứ văn chương
Nguyễn Việt Hà lại tinh vi đạo đức giả và tế nhị giả dối. Thậm chí, với Ba
ngôi của người, tôi nghĩ đã xác nhận được một kiểu giả dối Hà Nội rất mới,
12
đã âm thầm kết tinh trong những nhộn nhạo năm tháng vừa qua, những láo
nháo tình tiền và những thum thủm quán rượu quán bia ven bờ sông hay lấp
nhấp phố phường. Cái này có vẻ gần với "hương nguyện" - Nguyễn Việt Hà
là người đọc sách, anh phải hiểu sâu sắc "hương nguyện" nghĩa là gì. "Hương
nguyện hiện đại", đó chính là văn chương của anh đấy [35].
Những ý kiến trong các bài viết mà chúng tôi vừa điểm qua trên đây
cho thấy, dù các tác giả chưa có điều kiện (và có lẽ cũng chưa có nhu cầu) đi
sâu khảo sát kỹ lưỡng các bình diện ngôn ngữ trong tiểu thuyết Ba ngôi của
người, nhưng với sự nhạy bén, họ đã cảm thấy từ ngữ, giọng điệu, câu văn
trong cuốn tiểu thuyết này là “có vấn đề”. Những ý tưởng ấy của các nhà phê
bình cũng là sự gợi dẫn ít nhiều cho chúng tôi khi thực hiện đề tài nghiên cứu
đã lựa chọn.
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài
1.2.1. Thể loại tiểu thuyết
Mỗi một thể loại văn học ra đời luôn là sự hội tụ của nhiều điều
kiện, nhiều yếu tố. Tiểu thuyết cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Hiện
nay, giới nghiên cứu cho rằng tiểu thuyết chỉ có thể ra đời dưới bốn điều
kiện sau đây:
Nguồn gốc xã hội: Tiểu thuyết là một thể loại ra đời muộn hơn so với
các thể loại khác. Sự ra đời của nó gắn liền với một thời kì lịch sử khá cao của
xã hội loại người - thời kì hoàn thành và phát triển của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Heghen gọi tiểu thuyết là sử thi lịch sử hiện đại, còn Banzac
gọi tiểu thuyết là tấn kịch tư sản. Sở dĩ như vậy là bởi xã hội tư sản là xã hội
của nền kinh tế thị trường và tự do cá nhân. Chính ý thức tự do cá nhân là
điều kiện chính cho tiểu thuyết ra đời và phát triển.
Điều kiện văn hoá: Bản chất của tiểu thuyết là dân chủ. Vì thế, tiểu
thuyết chỉ có thể ra đời trong hoàn cảnh mà ở đó sự dân chủ được phát huy.
13
Sự ra đời của tiểu thuyết gắn liền với tính dân chủ của các lễ hội văn hoá dân
gian, đặc biệt là lễ hội Carnaval.
Điều kiện nghệ thuật: Mỗi thể loại bao giờ cũng có nguồn gốc của nó.
Theo nhà nghiên cứu Bakhtin “Tiểu thuyết là thể loại sinh sau đẻ muộn, do
đó, nó gắn liền với những thể loại có từ trước đó… Tiểu thuyết ra đời trên cơ
sở dich thuật tự do các điều kiện trước đó”. Tiểu thuyết Trung Quốc ra đời
trên sự ta rã của thần thoại và sự lưu truyền của các thoại bản” (Lỗ Tấn). Ở
Việt Nam, nhà nghiên cứu văn học Văn Ngọc cho rằng: tiểu thuyết Việt Nam
ra đời trên sự phát triển của phóng sự [Dẫn theo 44, tr. 13].
Điều kiện phân tâm học: Trường phái phân tâm học hay Freud quan tâm
đến hầu hết các lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, trong đó có văn học. Theo quan
niệm về văn học và tiểu thuyết của trường phái này, “văn học nghệ thuật nói
chung là kết quả của sự thăng hoa những ám ảnh vô thức của con người”.
Như vậy, bản chất của sáng tác nghệ thuật hay cơ chế của quá trình sáng tác
là chạy trốn thực tại, chuyển dịch những ham muốn vô thức thành các hình
tượng nghệ thuật. Freud đặc biệt đề cao bản năng tình dục, xem nó là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân và khoái cảm của thẩm mỹ chẳng qua là sự giải
thoát con người khỏi các căng thẳng tâm hồn, nghệ sĩ là con bệnh thần kinh
đang chống lại điên loạn của mình bằng cách xây dựng các tác phẩm nghệ
thuật [Dẫn theo 44].
Tiểu thuyết là thể loại văn học nhận được sự quan tâm nhiều của các nhà
nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Có nhiều ý kiến khác nhau, thậm
chí là trái ngược nhau xung quanh khái niệm tiểu thuyết, chức năng nhiệm vụ
mà nó đảm nhận cũng như các trạng thái đời sống mà nó cần nắm bắt và biểu
hiện. Thế nào là tiểu thuyết? Đi tìm một khái niệm đầy đủ về tiểu thuyết để
đáp ứng mọi trường hợp thực tế văn học là điều rất khó. Bởi tiểu thuyết có
nhiều xu hướng khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu lại đứng ở một góc độ riêng
để đưa ra nhận xét và quan điểm của mình.
14
Theo các nhà nghiên cứu, tiểu thuyết ra đời ở châu Âu vào thời đại cuối
cùng của nền nghệ thuật cổ đại huy hoàng, khi số phận con người, đời sống
riêng tư bắt đầu được quan tâm đến trong văn học. Nhà nghiên cứu Bêlinxki
cho rằng: Đời sống cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của
anh hùng ca Hi Lạp, nhưng lại có thể là nội dung của tiểu thuyết. Ra đời sau
so với thơ ca, là một thể loại mở trong sáng tác và tiếp nhận, hình thức và nội
dung của tiểu thuyết luôn luôn vận động qua các thời kì phát triển của lịch sử
văn học. “Tiểu thuyết là thể loại văn học duy nhất đang chuyển biến và chưa
định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng
ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch
nhật của lịch sử. Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta
chưa thể dự đoán hết khả năng uyển chuyển của nó” [6, tr. 8]. Cho đến nay,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về tiểu thuyết. Các định
nghĩa đó có sự khác nhau về cách diễn giải, tùy vào các sự khác biệt về góc
nhìn, quan niệm.
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, Hêghen gọi tiểu thuyết là sử thi tư
sản hiện đại, là anh hùng ca của tầng lớp thị dân. Với quan niệm này ta thấy
ông nhìn tiểu thuyết từ góc độ kinh tế hàng hoá, nhấn mạnh đến quy mô và
điều kiện của tiểu thuyết. Bêlinxki lại gọi tiểu thuyết là sử thi của đời tư bởi
“nó miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng
tư và đời sống nội tâm của con người. Ông cho rằng tiểu thuyết là sự tái hiện
thực tại với sự thật trần trụi của nó là xây dựng một bức tranh toàn vẹn, sinh
động và thống nhất. Theo từ điển Larousse của Pháp (Grand Larousse
eneyclop’edique - 1964, tiểu thuyết… là sản phẩm của trí tưởng tượng, một
truyện dài bằng văn xuôi, kể lại một cuộc phiêu lưu, nhận xét về những phong
tục, mô tả những tính tình, những đam mê để gây hứng thú cho người đọc”
[Dẫn theo 44]. Theo Bakhtin, tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần tiêu biểu của
15
thời đại mới, nó thể hiện được tư duy văn học mới gắn với thời hiện tại. Tư duy
này gắn với một thứ triết học mới nhân bản về con người, nhìn nhận con người
như một cá thể độc lập, những cá nhân tồn tại với bản ngã của nó và trong sự
đối thoại với những bản ngã khác. Ở phương diện này, tiểu thuyết hiện ra như
một thể loại đặc biệt dân chủ. “Tiểu thuyết là thể loại ở thời hiện tại, một thể
loại đang vận động và phát triển. Nó tồn tại với tư cách như một thể loại chủ
đạo của văn học hiện đại, nó giễu nhại và thu hút các thể loại khác vào nó. Điều
đó làm cho ngôn ngữ tiểu thuyết có tính đa thanh, các lớp ngôn ngữ soi sáng và
bổ sung cho nhau (ngôn ngữ dân tộc, thổ ngữ, phương ngữ …) thiết lập nên
một quan hệ mới giữa ngôn ngữ và thế giới hiện thực” [6, tr. 24].
Ở Trung Quốc, thuật ngữ tiểu thuyết lại có một hàm nghĩa thật rộng lớn.
Nhà nghiên cứu Phương Lựu tổng kết lại một cách khái quát hàm nghĩa tiểu
thuyết qua các thời đại ở Trung Quốc: Chữ “tiểu thuyết”xuất hiện sớm nhất
trong Ngoại Thiên sách của Trang Tử, nhưng mang hàm nghĩa gần như học
thuyết chứ không phải là sáng tác văn học. Đến đời Hán, trong sách Hán thư,
thiên Văn nghệ chí, Ban Cố cho rằng các tiểu thuyết gia thuộc một trong mười
nhà văn và nói tiếp: “Loại tiểu thuyết gia xuất thân từ hạng quan nhỏ, nghe
các lời nói trong các thôn cùng ngõ hẻm khắp các nẻo đường mà viết nên.
Khổng Tử có nói: Tuy là con đường nhỏ, nhưng tất yếu cũng có cái có thể
xem được… Cho nên người quân tử không làm nên nó song cũng không tiêu
diệt nó”. Cùng thời với Ban Cố có Hoàn Đàm cũng cho rằng: “Các nhà tiểu
thuyết thu nhặt những lời nói vụn vặt, rồi dùng phép tỉ dụ, viết nên những
sách ngắn, để sửa mình và sắp xếp việc nhà, có những ngôn từ có thể xem
được” (Văn tuyển). Đến đời Minh nhà tiểu thuyết Phùng Mộng Long có nói:
Ngoài Lục kinh quốc sử ra, phàm những trước thuật khác, đều gọi là tiểu
thuyết (Tựa Cảnh thế hằng ngôn). Tiêu Hoa chủ nhân thì cho rằng: tiểu thuyết
là sách của bọn tài tử (Cửu Lưu chủ luận hạ) [40, tr. 122, 123].
16
Ở Việt Nam, khái niệm tiểu thuyết cũng là một vấn đề còn có nhiều
tranh cãi. Người đầu tiên đưa ra khái niệm tiểu thuyết là tác giả Phạm Quỳnh
trong bài Bàn về tiểu thuyết đăng trên báo Nam Phong (1921): Tiểu thuyết là
một loại truyện viết bằng văn xuôi, đặt ra để tả tình tự người khác, phong tục
xã hội hay những sự tích lạ đủ làm cho người đọc có hứng thú. Ngay từ đầu
thế kỉ XX, sáng tác tiểu thuyết đã đặt ra yêu cầu phản ánh cuộc sống, phản
ánh xã hội mang đầy màu sắc hiện thực, không lấy đề tài từ những tuồng tích,
những chuyện hoang đường, quái dị nhằm tạo nên sự li kì, hấp dẫn cho tác
phẩm. Càng về sau, đề tài phản án trong tiểu thuyết càng được mở rộng, các
nhà văn quan tâm đến mọi vấn đề, mọi ngõ ngách của cuộc sống bề bộn và
phức tạp. Nhà văn Vũ Trọng Phụng, một cây bút hiện thực phê phán sắc sảo
và tài hoa tuyên bố: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các
nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Khái
Hưng, một cây bút lãng mạn trong nhóm Tự lực văn đoàn cho rằng: “Tiểu
thuyết phải gần đời, phải là đời với những lúc sướng, lúc khổ, phải có những
cái nhỏ nhen, tầm thường, cao thượng của cuộc đời, phải có những cái đáng
thương, những cái đáng buồn cười, những cái đáng bực tức… Tiểu thuyết chỉ
là tiểu thuyết, chỉ là đời” [43, tr. 76].
Những quan niệm về đối tượng phản ánh của các nhà văn giai đoạn đầu
thế kỉ XX cho thấy một quá trình phát triển mạnh mẽ của những nhận thức về
tiểu thuyết. Dù hiện thực hay lãng mạn, vấn đề phản ánh trong tác phẩm đều
xuất phát từ hiện thực cuộc sống với đầy đủ mọi cung bậc của nó. Những
quan niệm đó hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của tiểu
thuyết hiện đại. Để có được mô hình hệ thống lí luận về tiểu thuyết hiện đại
như ngày hôm nay có công lao và những nỗ lực khai phá của thế hệ nhà văn
đầu thế kỉ. Họ là những con người tìm thấy con đường mới và góp công sức,
nhiệt huyết của mình để tiểu thuyết ngày càng phát triển và hoàn thiện.
17
Như vậy, khi bàn về khái niệm tiểu thuyết, mỗi tác giả ở mỗi khu vực
khác nhau, thời gian khác nhau thường đưa ra những quan niệm riêng theo
cách nhìn của mình. Cho đến hôm nay, chúng ta đã có được những nghiên cứu
tương đối đầy đủ trên bình diện sáng tác và tiếp nhận, hệ thống lí luận về thi
pháp và ngôn ngữ của thể loại này. Khái niệm tiểu thuyết được định nghĩa dựa
trên sự đối sánh với truyện ngắn và truyện vừa - hai thể loại tương đối gần gũi
với nó. Những tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, phản ánh mọi vấn đề, mọi phương diện
của đời sống nhưng dung lượng ngắn hơn, thường hướng tới việc khắc hoạ một
hiện tượng, phản ánh một khoảnh khắc đặc biệt, phát hiện một nét bản chất
trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống nội tâm của mỗi con người. Nếu
như truyện ngắn, truyện vừa chỉ có thể đề cập đến một lát cắt nhỏ, một giai
đoạn nào đó của cuộc đời thì tiểu thuyết lại có thể miêu tả một cách dàn trải
những biến cố trong cuộc đời, số phận một con người. Vì lẽ đó, tiểu thuyết có
ngôn ngữ phong phú và đa dạng, không chịu những giới hạn nhất định về dung
lượng và nội dung ý nghĩa như các thể loại khác trong ngôn ngữ văn xuôi.
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) đưa ra định nghĩa về tiểu thuyết: “Tác phẩm
tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không
gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời,
những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai
cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [19, tr. 328]. Phương Lựu trong cuốn Lí
luận văn học nêu lên giai đoạn phát triển rực rỡ của tiểu thuyết đặc biệt là trong
thời cận đại và hiện đại [40, tr. 388]. Hà Minh Đức khẳng định thêm vai trò của
tiểu thuyết: “Năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo
hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó” [14, tr. 184].
Nhà nghiên cứu văn học Trương Quýnh nêu lên bốn ý thức cần có của
tiểu thuyết hiện nay. Đó là: ý thức lịch sử, ý thức văn hóa, ý thức thể loại văn
18
học và ý thức ngữ ngôn. Riêng về ý thức thể loại, ông viết: "Truyện dài
(trường thiên tiểu thuyết) bản thân là một thể loại văn học. Song, một nhà tiểu
thuyết thành thục, còn phải sáng tạo thể loại văn học tiểu thuyết độc đáo của
mình. Điều này không chỉ có ý nghĩa là nhà văn ấy phải có cấu tứ nghệ thuật
đặc biệt độc đáo của mình, có góc nhìn và phương thức tự sự đặc biệt độc đáo
của mình, mà còn cần phải có ngữ ngôn và ngữ điệu miêu tả đặc biệt độc đáo
của mình. Mục tiêu theo đuổi đặc biệt độc đáo từ nội dung đến hình thức
chính là điều kiện tất yếu để sáng tạo thể loại văn học đặc biệt độc đáo" [53].
Trong tiến trình này, “tiểu thuyết, với tư cách là một thể loại của văn
học châu Âu, đã nảy sinh từ thời văn học cổ đại Hy-La (…) Nhưng tiểu
thuyết đích thực, gắn với những tìm tòi tư tưởng triết lý, với toàn bộ tinh
thần Phục hưng, chỉ nảy sinh từ cuối thời đại này, với Đôn Kihôtê của
Xecvantex” [49, tr.171].
Các thành tựu lớn lao của thể loại tiểu thuyết sau đó, như của Balzac,
Dickens, Tolstoi, Dostoievski,… được xem như là tập đại thành của thể loại
tiểu thuyết cổ điển. Dẫu sao, ở giai đoạn này, các tác giả tiểu thuyết vẫn đứng
ở “điểm nhìn thượng đế” nhìn thấy mọi sự, phán xét mọi sự, diễn tả mọi sự,…
Mãi đến các nhà tiểu thuyết hiện đại, sự ý thức đổi mới thể loại tiểu thuyết
mới đi đến triệt để. Trong số những người đi tiên phong, Dos Passos, W.
Faulkner, Kafka, Joyce,... đều được công nhận như những thiên tài đặc biệt,
không những khám phá được những nội dung mới, mà còn thực sự phát minh
được những kĩ thuật diễn tả khác hẳn cái mà người ta thường gọi là tiểu
thuyết cổ điển (…). Nói như Nguyễn Văn Trung, hầu hết những nhà tiểu
thuyết nổi tiếng khác của châu Âu đều chịu ảnh hưởng mấy vị thiên tài kia.
Trong những tiểu luận của mình, Milan Kundera tuy tự nhận là tâm sự
của một người thực hành, nhưng nhà tiểu thuyết lớn của văn học hiện đại
châu Âu này đã đề xuất những ý kiến vô cùng xác đáng về thể loại tiểu thuyết.
19
Ông đặt rất cao yêu cầu khám phá, tìm tòi cái mới, thậm chí cho đó mới là
lương tâm, đạo đức đích thực của người cầm bút. Ông tuyên bố: "Cuốn tiểu
thuyết nào không khám phá ra thêm được một mẩu sự sống trước nay chưa
từng biết là một cuốn tiểu thuyết vô đạo đức. Hiểu biết là đạo đức duy nhất
của tiểu thuyết" [29, tr.12].
Tuy nhiên, là "người thực hành" ở thể loại này, Milan Kundera hiểu
hơn ai hết những thách đố của sự khám phá, sự hiểu biết. Ông nhận thức sâu
sắc rằng, không có cái chân lý thần thánh, chân lý tuyệt đối, duy nhất. Từ mỗi
góc nhìn, mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những niềm tin khác nhau về lẽ
phải, về sự thật. Đó là bức tranh cuộc sống thời hiện đại, và "cùng với nó, ra
đời tiểu thuyết, hình ảnh và mô hình của nó".
Về cái gọi là hiện thực - điều mà các nhà tiểu thuyết luôn quan tâm theo Milan Kundera, "cái vô tận của thế giới bên ngoài được thay thế bằng cái
vô tận của tâm hồn". Điều này có nghĩa, nhà văn, thay vì miêu tả thế giới
ngoại tại với những thể chế chính trị, những biến cố xã hội, những xung đột
mâu thuẫn giữa các giai cấp,... là thám hiểm không mệt mỏi chiều sâu vô tận
của tâm hồn con người, ở đó, có sự khúc xạ tất cả những gì của thế giới bên
ngoài. Người ta gọi tâm hồn con người là một "tiểu vũ trụ" cũng vì lẽ ấy.
Trước luận điểm "tiểu thuyết đã chết", M. Kundera cho rằng, đúng là
tiểu thuyết đã chết, chết "bất đắc kỳ tử", chết bởi sự cấm đoán, bằng kiểm
duyệt, bằng áp lực ý thức hệ trong thế giới toàn trị. Như vậy, theo M.
Kundera, chân lý toàn trị là lực cản lớn nhất cho sự phát triển của thể loại này.
Ông quả quyết, chân lý toàn trị không thể dung hòa với tinh thần tiểu thuyết.
Nhưng thế nào là "tinh thần tiểu thuyết"? Câu trả lời từ Milan Kundera: "Tinh
thần tiểu thuyết là tinh thần của sự phức tạp. Mỗi cuốn tiểu thuyết nói với độc
giả: sự vật ở đời phức tạp hơn anh tưởng. Đó là chân lý vĩnh cửu của tiểu
thuyết" [29, tr. 26].
20
Tìm hiểu hành trình của tiểu thuyết thế kỷ XX, Hoàng Ngọc-Tuấn đã
có một sự bao quát để nhận ra những đổi thay, những cái mới. Theo ông, "tiểu
thuyết hiện thực sẽ chỉ còn là diễn trình xây dựng và giải quyết những mâu
thuẫn giữa những cái bóng của hiện thực" [71]. Tác giả bài viết dẫn ra một
công trình đáng lưu tâm: năm 1967, trong luận văn "The Literature of
Exhaustion" (Văn chương của sự kiệt cạn), John Barth đã nhận xét rằng,
những đề tài và phương pháp trình bày của tiểu thuyết đã thực sự cạn kiệt, tất
cả những khả năng của nó đều đã bị dùng đi dùng lại đến mức quá trớn suốt
thế kỷ 19 đến những năm 60 của thế kỷ 20, trong khi đó, những khả năng mới
được khám phá thì lại ít ai chịu lưu ý đến. Nhận xét này đến nay, nhìn chung,
vẫn còn chính xác.
Cuộc cách tân tiểu thuyết trong thế kỷ XX có thể tóm lại một cách ngắn
gọn là "biểu hiện của nỗ lực kể cái không thể kể - những cái không xảy ra
theo trình tự thời gian, không xảy ra trong không gian cụ thể, những cái nằm
sâu trong tiềm thức và vô thức, những cái nằm ngoài lý luận của hiện thực
tỉnh táo, những cái hỗn mang" [71]. Các nghệ thuật khác khai thác những cái
đó đã bắt đầu được từ những năm đầu của thế kỷ này. Nhưng tiểu thuyết thì
hơi muộn mằn: phải đợi đến gần hết những năm 30 mới bắt đầu thực sự bước
vào con đường mới, bởi để kể được những cái không thể kể, nhà văn phải vừa
đánh gục được truyền thống hiện thực, vừa phải thay đổi được thái độ sử dụng
vật liệu gốc của văn chương, là ngôn ngữ.
Việt Nam không có truyền thống tiểu thuyết, cho nên các nhà văn
chúng ta luôn luôn đi sau, nhất là về ý thức thể loại. Nguyễn Huy Thiệp khẳng
định: “Tôi cứ nghĩ rằng thời của tiểu thuyết sẽ là thời của dân chủ, thời của tư
tưởng tự do, thời của sự ổn định chính trị và kinh tế: đấy cũng là thời của
chúng ta đang sống bây giờ”. Nhưng khi tự đặt câu hỏi “Tiểu thuyết gì?”, nhà
văn này tự trả lời: “Tôi ngờ ngợ võ đoán tương lai trên văn đàn ta sắp tới sẽ
21
có mấy dạng, mấy kiểu” như kiểu tiểu thuyết tự vấn, tự sự, rồi dạng tiểu
thuyết tình cảm, tiểu thuyết phiêu lưu, trinh thám hoặc cái gì từa tựa như thế.
Thế thôi, không gì hơn” [62].
Kể từ tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, tiểu thuyết hiện thực phê phán, tiểu
thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa,… đến nay, thể loại này đã đi được một
chặng đường khá dài, tuy nhiên, chưa bao giờ ý thức về thể loại lại rõ rệt như
thời kỳ này. Những năm đầu của thế kỷ 21, tiểu thuyết Việt Nam đã phát triển
theo chiều hướng khác. Không ít người viết khác hoàn toàn với tiểu thuyết
truyền thống trước đó chưa xa. Những tên tuổi như Hồ Anh Thái, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Viện, Đỗ Minh Tuấn, Lê Anh Hoài,
Đặng Thân, Thuận, Vũ Lập Nhật,… đã có những đóng góp tích cực vào tiến
trình này. Nếu Lê Anh Hoài sử dụng thủ pháp giễu nhại độc đáo trong Tình
yêu thời tạp kĩ thì Đặng Thân ở tác phẩm mới nhất 3.3.3.9 [những mảnh hồn
trần] đã có quan niệm rất khác về tiểu thuyết. Khác đến nỗi cùng dòng hậu
hiện đại, Lê Anh Hoài trong phần phát biểu đã nói rằng, không nên gọi
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân là tiểu thuyết mà chỉ nên gọi
nó là “cuốn sách của Đặng Thân”. Lê Anh Hoài đã gọi tiểu thuyết của Đặng
Thân là cuốn “ba vạn chín nghìn”. Ông nói: "3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]
đã phô bày ra một thế giới theo kiểu mô phỏng, và nên thưởng ngoạn nó theo
kiểu mô phỏng ấy".
1.2.2. Ngôn ngữ tiểu thuyết
Ngôn ngữ văn xuôi là một bộ phận của hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật,
“một thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây dựng chồng lên trên ngôn
ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống thứ hai” [37, tr. 9]. Được hình thành từ
ngôn ngữ tự nhiên, nhưng ngôn ngữ nghệ thuật còn là kết quả của quá trình
chọn lọc, gọt dũa nhằm diễn tả một nội dung mang tính nghệ thuật. “Trong
văn bản nghệ thuật ngôn từ thì không chỉ ranh giới giữa các kí hiệu là khác
nhau mà bản thân khái niệm kí hiệu cũng khác nhau” [37, tr. 49].
22
Ngôn ngữ nghệ thuật được sản sinh từ ngôn ngữ tự nhiên, là sản phẩm
sáng tạo của nhà văn. Ngôn ngữ nghệ thuật sau khi ra đời có thể quay trở lại
tham gia vào ngôn ngữ toàn dân, làm cho nó giàu có thêm, phong phú lên và
đẹp hơn. Ngôn ngữ nghệ thuật đảm nhận chức năng tạo nên hệ thống mã
ngôn ngữ thứ hai, là kết quả của quá trình sáng tạo đặc biệt ở người nghệ sĩ.
Bằng chất liệu ngôn từ, nhà văn sáng tạo ra một thế giới riêng trong tác
phẩm của mình. Tác phẩm văn học ra đời mang đậm dấu ấn cá nhân và
truyền đến người đọc một lớp ý nghĩa riêng, một giá trị thẩm mỹ riêng theo
ý đồ của tác giả.
Thuộc vào hệ thống tín hiệu thứ hai, ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ
nghệ thuật, nó coi trọng chức năng thẩm mĩ, có tính hệ thống, tính truyền cảm
và tính cá thể hoá. Tính truyền cảm làm cho người đọc, người nghe có cảm
giác tâm trạng buồn, vui, yêu, ghét…; tạo sự hoà đồng giao cảm, cuốn hút,
gợi cảm xúc nơi người tiếp nhận. Tính cá thể hoá thể hiện dấu ấn sáng tạo của
mỗi tác giả, là cái thuộc về đặc điểm bản chất, thuộc về điều kiện bắt buộc đối
với ngôn ngữ tiểu thuyết nói riêng và ngôn ngữ nghệ thuật nói chung. Cùng
trên cơ sở là phương tiện diễn đạt chung của cộng đồng nhưng mỗi nhà văn
lại thể hiện một phong cách riêng; đặc biệt, ở những nhà văn lớn văn phong
của họ càng độc đáo đa dạng.
Là một bộ phận của ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ văn xuôi được xem
xét trong sự khu biệt với ngôn ngữ trữ tình và kịch. Vừa mang đặc điểm của
ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ văn xuôi vừa có những đặc điểm khác biệt so
với hai thể loại này. Ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình là sản phẩm của sự
thăng hoa cảm xúc ở chủ thể sáng tạo được trau chuốt, gọt đẽo, giàu tính nhạc
điệu. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch thường mang kịch tính, thiên về hành
động, chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại nhằn khắc hoạ tính cách nhân vật. Yếu tố
chủ thể trữ tình hay người dẫn chuyện trong kịch có thể có nhưng rất mờ nhạt.
23
Ngôn ngữ văn xuôi là thứ ngôn ngữ khách quan và yên tĩnh. Đó vừa là ngôn
ngữ trần thuật, ngôn ngữ của nhân vật, ngôn ngữ của cái Tôi trữ tình… đan
xen, hoà quyện vào nhau tạo nên nét quen và lạ, tạo nên nét khác biệt với
ngôn ngữ trữ tình và kịch. Ngôn ngữ văn xuôi dàn trải, khoan thai. Nhà văn
có thể mang vào tác phẩm ngôn ngữ tự nhiên ngoài cuộc đời mà vẫn tạo được
hiệu quả thẩm mĩ nhất định.
Tiểu thuyết là một bộ phận của văn xuôi tự sự, ra đời muộn hơn và là thể
loại mở trong sáng tác và tiếp nhận. Với dung lượng đồ sộ, tiểu thuyết bao
chứa trong nó những đặc điểm của thể loại văn học khác nhưng vẫn có những
đặc điểm riêng trong sự so sánh về mặt ngôn ngữ.
Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của một thể loại là nhằm làm nổi bật
những đặc điểm mang tính chất khái quát nhất của ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ
của một dân tộc nói chung và ngôn ngữ của thể loại nói riêng không phải là
một phạm trù cố định bất biến. Nó có sự vận động biến đổi qua các thời kì.
Sự biến đổi của một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ không dừng lại ở việc gia
tăng về số lượng mà còn là sự thay đổi cả về cấu trúc bên trong. Ngôn ngữ
tiểu thuyết hiện đại cũng luôn vận động và có nhiều điểm khác biệt so với
các thể loại khác.
Nhà nghiên cứu văn học - ngôn ngữ học người Nga Bakhtin là người mở
ra hướng nghiên cứu mới về tiểu thuyết. Ông đặt ra vấn đề tìm hiểu tiểu
thuyết đa thanh và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề của lí luận văn học,
thi pháp học và ngôn ngữ học. Ông phát hiện ra “sự đa dạng vô cùng của các
loại hình và dạng thức lời văn” [5, tr. 221] của Đoxtoiepxki - cái trước đó
người ta cho rằng ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng trong tác phẩm là hoàn toàn
giống nhau, là sử dụng ngôn ngữ một cách đơn điệu [5, tr. 190]. Những vấn
đề lí luận về tiểu thuyết mà M. Bakhtin đưa ra chính là cơ sở lí luận để tìm
hiểu ngôn ngữ tiểu thuyết, một thể loại tiêu biểu của văn xuôi nghệ thuật.
24
Chúng ta có thể khái quát lên đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết trên một số
bình diện sau:
a. Về mặt hình thức
Nếu như truyện ngắn không chấp nhận ngay cả một từ không rõ nghĩa
thì tiểu thuyết sẵn sàng chấp nhận một vài từ không đâu, thậm chí là vài trang
trong một cuốn tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một thể loại có dung lượng lớn về
nội dung và ngôn từ, nó chứa đựng trong lòng mình tất cả mọi hình thức ngôn
ngữ của các thể loại khác trong văn xuôi nghệ thuật. tiểu thuyết không đặt ra
yêu cầu một cách quá khắt khe việc lựa chọn và chắt lọc ngôn từ. Trong một
cuốn tiểu thuyết nhà văn có thể sử dụng nhiêu kiểu câu dài, ngắn khác nhau;
câu tỉnh lược, câu mệnh lệnh, câu đặc biệt… làm cho ngôn ngữ tiểu thuyết
cũng trở nên linh hoạt và phong phú. Nhưng như vậy không có nghĩa là tiểu
thuyết chấp nhận một sự dễ dãi, ô hợp, cẩu thả về ngôn từ, bởi vì sự cẩu thả
trong văn chương là bất lương và đáng bị lên án. Mọi từ ngữ, câu văn được sử
dụng trong tiểu thuyết phải đem đến một nét nghĩa nào đó, góp phần làm nên
giá trị biểu đạt chủ đề tư tưởng của toàn bộ tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tác
của nhà văn.
Khi mới ra đời, mặc dù chỉ là lời nói trong hang cùng ngõ hẻm
(Anmatop) nhưng tiểu thuyết vẫn chịu sự quy định của hệ thống thi pháp văn
học trung đại: mang tính ước lệ, tượng trưng, dày đặc những điển tích, điển
cố, được viết theo kết cấu chương hồi… Ngày nay, ngôn ngữ tiểu thuyết hiện
đại ngày càng trở nên gần gũi với ngôn ngữ đời thường, mang hơi thở của bộn
bề cuộc sống. Chính vì lẽ đó, người viết cần có một trình độ nhất định trong
việc xử lí ngôn ngữ tác phẩm. Không phải sự kiện gì, bất cứ từ ngữ nào cũng
có thể đưa vào trong tác phẩm và được sử dụng một cách tuỳ ý. Để trở thành
một mã tín hiệu của hệ thống mã ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tự nhiên khi
đi vào tác phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng phải được lột xác,
25
phải được chắt lọc. Ngôn ngữ phát triển và biến hoá theo cách cảm nhận cuộc
sống và ý đồ sáng tạo của nhà văn. Cách trình bày ngôn ngữ trong tiểu thuyết
phụ thuộc vào tài năng và văn phong của mỗi nhà văn, nhưng dù mượt mà
bóng bẩy hay thô ráp; lạnh lùng, cầu kì, tài hoa hay giản dị, trong sáng… thì
đều phải hướng tính nghệ thuật và tính thẩm mĩ cao. Các lớp từ tồn tại trong
xã hội như: lớp từ ngữ địa phương, lớp từ ngữ thi ca, lớp từ ngữ thông tục, tục
ngữ, thành ngữ… đều được các nhà văn sử dụng, góp phần thể hiện phong
cách độc đáo của mình trong tác phẩm.
b. Về mặt ngữ nghĩa
Ngôn ngữ tiểu thuyết mang tính đa thanh. Tiểu thuyết vận dụng đầy đủ
các biện pháp tu từ, nhằm tạo ra các tầng nghĩa cho ngôn từ, làm đậm đặc thêm
quá trình mã hoá tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Càng về sau, tiểu thuyết hiện
đại càng thể hiện rõ tính đa thanh trong các tác phẩm. Tính đa thanh giúp cho
tiểu thuyết có nhiều tầng nghĩa, tạo dư âm vang vọng trong lòng người đọc.
Tiểu thuyết là thể loại có dung lượng lớn, có kết cấu đồ sộ. Mọi yếu tố
ngôn ngữ trong tác phẩm đều góp phần thể hiện chủ đề và ý đồ sáng tạo của
nhà văn. Do có dung lượng lớn, nên nhiều lúc ngôn ngữ tiểu thuyết không có
được cái cô đọng, chắt lọc như trong truyện ngắn.
Ngôn ngữ tiểu thuyết phản ánh mọi mặt cuộc sống, là đời với những lúc
sướng lúc khổ, phải có những cái nhỏ nhen tầm thường cao thượng của đời,
phải có những cái đáng thương, những cái đáng buồn cười, những cái bực tức
[40, tr. 76]. Tiểu thuyết hiện đại đi sâu vào phám phá, phản ánh đời sống tâm
lí phức tạp của của cuộc sống đang tranh đấu và phát triển từng ngày, từng
giờ, từng khắc… Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại ngày càng giản dị, gần gũi với
cuộc sống, nhưng cũng uyên bác, thấm đẫm tính chất triết lí sâu sắc.
c. Về phong cách nhà văn
Phong cách nhà văn là kết quả của một quá trình miệt mà sáng tạo nghệ
thuật, được tạo dựng từ tính cá thể của ngôn ngữ nghệ thuật. Theo Cù Đình