Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Từ ngữ trong Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.99 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ LỆ THÚY

TỪ NGỮ TRONG NGƯỜI ĐI VẮNG
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


2

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ LỆ THÚY

TỪ NGỮ TRONG NGƯỜI ĐI VẮNG
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22. 02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:


PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH


4

NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình theo học ngành Ngôn ngữ học - khoa Ngữ văn - trường Đại
học Vinh và quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn, chúng tôi đã nhận được sự
chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, trường Đại học Vinh.
Ngoài ra, chúng tôi còn nhận được sự động viên, khích lệ của gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo, gia đình và
bạn bè đã giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo
hướng dẫn - PGS. TS. Hoàng Trọng Canh - người Thầy đã tận tâm hướng dẫn
chúng tôi hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, chúng tôi đã hết sức cố
gắng nhưng do khả năng có hạn nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi sai sót.
Do vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và
các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................................9
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................9

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................10
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu: ............................................................................11
5. Cái mới của đề tài.........................................................................................................11
6. Cấu trúc luận văn..........................................................................................................12
Chương
1
TỔNG

QUAN

VỀ

TÌNH

HÌNH

NGHIÊN

CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI.............................................................................13
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Bình Phương và tiểu
thuyết “Người đi vắng”....................................................................................................13
1.1.1. Khái lược về tác giả Nguyễn Bình Phương và tác phẩm của ông..........13
1.1.2. Nguyễn Bình Phương - những vấn đề được đặt ra nghiên cứu..............20
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài..........................................................................................25
1.2.1. Ngôn ngữ tiểu thuyết .............................................................................25
1.2.2. Các vấn đề về từ ngữ và việc nghiên cứu từ ngữ trong văn bản nghệ
thuật.......................................................................................................30

1.3. Tiểu kết chương 1 .....................................................................................................36
Chương
2
CÁC

LỚP

TỪ

TIÊU

BIỂU

TRONG NGƯỜI ĐI VẮNG CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG........................................37
2.1. Các cách phân loại từ hiện nay và hướng nghiên cứu chúng trong tiểu thuyết Người
đi vắng .............................................................................................................................37
2.1.1. Sơ lược về các cách phân loại từ hiện nay..............................................37
2.1.2. Tiếp cận các lớp từ trong tiểu thuyết “Người đi vắng” ..........................39
2.2. Các lớp từ tiêu biểu trong tiểu thuyết Người đi vắng ...............................................40
2.2.1. Từ trong “Người đi vắng”, xét từ góc độ cấu tạo...................................40
2.2.2. Từ trong “Người đi vắng”, xét từ góc độ nguồn gốc..............................65
2.2.3. Từ ngữ trong tiểu thuyết “Người đi vắng” của Nguyễn Bình Phương xét
về phong cách........................................................................................73
2.3. Khái quát về đặc điểm sử dụng các lớp từ trong Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phương.............................................................................................................................83


7
2.4. Tiểu kết chương 2......................................................................................................85
Chương

3
CÁC

TRƯỜNG

NGỮ

NGHĨA

NỔI

BẬT

TRONG NGƯỜI ĐI VẮNG CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG........................................87
3.1. Khái niệm trường ngữ nghĩa và hướng nghiên cứu các trường ngữ nghĩa trong
Người đi vắng...................................................................................................................87
3.1.1. Khái niêm trường ngữ nghĩa...................................................................87
3.1.2. Hướng nghiên cứu các trường ngữ nghĩa trong “Người đi vắng”..........89
3.2. Các trường ngữ nghĩa nổi bật trong “Người đi vắng”...............................................90
3.2.1. Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ sinh hoạt thường nhật của con người....90
3.2.2. Trường ngữ nghĩa chỉ tâm trạng, cảm xúc con người, tính cách con
người.....................................................................................................94
3.2.3. Trường ngữ nghĩa về không gian ...........................................................99
3.2.4. Trường ngữ nghĩa về thời gian.............................................................109
3.3. Dấu ấn phong cách của Nguyễn Bình Phương qua sử dụng các trường ngữ nghĩa nổi
bật...................................................................................................................................117
3.4. Tiểu kết chương 3....................................................................................................119
KẾT LUẬN........................................................................................................................120
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................123



DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Tần số sử dụng từ đơn trong tiểu thuyết Người đi vắng......................................41
Bảng

2.2.

Tần

số

sử

dụng

từ

ghép

chính

phụ

trong tiểu thuyết Người đi vắng ..........................................................................................45
Bảng

2.3.

Thống




tần

số

sử

dụng

từ

láy

trong tiểu thuyết Người đi vắng ..........................................................................................51
Bảng

2.4.

(a)

Bảng

thống



tần


số

sử

dụng

từ

láy

hoàn

toàn

trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương.................................................56
Bảng

2.4.

(b)

Bảng

thống



tần

số


sử

dụng

từ

láy

bộ

phận

trong tiểu thuyết Người đi vắng ..........................................................................................57
Bảng

2.5.

Thống



số

lượt

từ

Hán


-

Việt

được

sử

dụng

trong tiểu thuyết Người đi vắng ..........................................................................................66
Bảng 3.1. Thống kê tần số sử dụng từ ngữ chỉ tâm trạng, cảm xúc
trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương.................................................96


9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu ngôn ngữ về mặt hành chức luôn có ý nghĩa. Đặc
biệt ngôn ngữ trong tác phẩm văn học mang dấu ấn sáng tạo của nhà văn,
lâu nay chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ phê bình văn học, việc có thêm
những công trình khảo sát ngôn ngữ tác phẩm từ góc độ ngôn ngữ học lại
càng có ý nghĩa.
1.2. Nền văn học Việt Nam sau 1975 đã và đang có những chuyển biến
rất đáng ghi nhận. Cùng với thời gian, những thành tựu của văn học thời kì
đổi mới ngày càng được khẳng định mạnh mẽ. Hàng loạt cây bút trẻ đầy năng
lực và nhiệt huyết xuất hiện. Có những lối viết hấp dẫn thực sự, có những thể
nghiệm còn chưa tới đích, song các nhà văn đều hết mình trong một nỗ lực
chung: làm mới văn chương. Và Nguyễn Bình Phương cũng không phải là
một ngoại lệ. Cho nên nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Bình Phương vô

cùng cần thiết, không chỉ thấy được phong cách tác giả mà còn góp phần tìm
hiểu sự đổi mới của văn học đương đại.
1.3. Nguyễn Bình Phương là tác giả thuộc trào lưu đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam với nhiều thể nghiệm, cách tân táo bạo và là một hiện tượng văn
chương, một gương mặt xuất sắc. Bên cạnh những thành tựu về thơ và
truyện ngắn, tiểu thuyết cũng là thể loại thành công của Nguyễn Bình
Phương. Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương, tuy nhiên phần lớn các công trình đó đều tiếp cận từ
hướng phê bình văn học mà chưa có công trình nào nghiên cứu tiểu thuyết
của ông từ góc độ ngôn ngữ học. Chính vì vậy nghiên cứu từ ngữ trong tiểu
thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương cần thiết. Kết quả nghiên
cứu là góp phần làm sáng rõ đặc điểm tiểu thuyết của ông. Hơn nữa, chúng


10
tôi chọn tiểu thuyết Người đi vắng cũng còn bởi một lẽ đây là cuốn tiểu
thuyết được giải sách hay năm 2014 do Viện nghiên cứu phát triển giáo dục
(gọi tắt là Viện IRED) tổ chức hàng năm. Tại lễ trao giải nhà văn Nguyên
Ngọc phát biểu: “Chọn được tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phương để trao giải đã cho chúng ta thấy rằng văn chương Việt Nam vẫn
còn có thể hi vọng”.
1.4. Trong thời gian gần đây, giáo trình khoa văn một số trường Đại
Học đã đưa Nguyễn Bình Phương vào học tập và giảng dạy. Vì vậy đề tài
được thực hiện sẽ góp phần vào việc giảng dạy tác phẩm của ông có hiệu
quả hơn.
Đó là những lý do chính thôi thúc chúng tôi tìm đến đề tài: Từ ngữ
trong “Người đi vắng” của Nguyễn Bình Phương.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Từ ngữ trong “Người đi vắng” của

Nguyễn Bình Phương
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Bình Phương rất thành công trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
tiểu thuyết. Tuy nhiên do giới hạn của đề tài nên chúng tôi không có điều kiện
để khảo sát toàn bộ các phương diện của ngôn ngữ trong tiểu thuyết Người đi
vắng của nhà văn Nguyễn Bình Phương mà ở đây chúng tôi chỉ tập trung tìm
hiểu các lớp từ xét theo một số tiêu chí, các từ trong các trường nghĩa nổi bật
thể hiện sự lựa chọn, thói quen sử dụng của tác giả làm đối tượng nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nhằm chỉ ra đặc điểm từ ngữ tiểu thuyết nổi bật trong tiểu
thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, qua đó góp phần tìm hiểu


11
phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết của ông. Kết quả của luận văn sẽ giúp cho
việc dạy các tác phẩm cụ thể của Nguyễn Bình Phương trong nhà trường tốt
hơn. Và cũng mong góp phần lí giải vì sao tiểu thuyết này được chọn là
“sách hay 2014” dưới góc nhìn của ngôn ngữ học về phương diện sử dụng
từ ngữ.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài hướng đến bốn nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khảo sát và chỉ ra những đặc điểm của các lớp từ ngữ nổi bật trong
tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương.
- Khảo sát và chỉ ra những đặc điểm của các trường từ vựng tiêu biểu
trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương.
- Qua đặc điểm sử dụng các lớp từ và trường từ vựng nổi bật rút ra một
số nét về sắc thái phong cách ngôn ngữ tác giả trong việc sử dụng từ ngữ
trong tiểu thuyết.
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp miêu tả
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Thủ pháp so sánh
5. Cái mới của đề tài
Đây là đề tài đầu tiên tìm hiểu về đặc điểm sử dụng từ ngữ nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nói chung và tiểu thuyết Người đi
vắng của Nguyễn Bình Phương nói riêng. Qua miêu tả, luận văn góp phần chỉ
ra một số nét phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương về
phương diện dùng từ, tổ chức từ ngữ trong tiểu thuyết của nhà văn.


12
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của
đề tài
Chương 2: Các lớp từ ngữ tiêu biểu trong Người đi vắng của Nguyễn
Bình Phương.
Chương 3: Các trường ngữ nghĩa nổi bật trong Người đi vắng của
Nguyễn Bình Phương.
Sau cùng là tài liệu tham khảo


13
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Bình
Phương và tiểu thuyết “Người đi vắng”
1.1.1. Khái lược về tác giả Nguyễn Bình Phương và tác phẩm của ông
1.1.1.1. Vài nét về tác giả
Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm 1965 tại Thái
Nguyên. Thời chiến tranh, tác giả cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham thuộc
huyện Đồng Hỷ, đến năm 1979 mới trở lại thành phố Thái Nguyên.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào
bộ đội; năm 1989, vào học trường viết văn Nguyễn Du; ra trường công tác
một năm ở Đoàn kịch nói Quân đội; sau đó là biên tập viên của Nhà xuất bản
Quân đội và hiện nay công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Sau năm 1975, con người ra khỏi chiến tranh, quay về thời bình cũng
có nghĩa là phải đối diện với nhu cầu muôn mặt và nhiều mối quan hệ phức
tạp của đời sống cá nhân. Tâm thế cả dân tộc và từng cá nhân trong dân tộc
thay đổi khiến cho nhu cầu cảm xúc, nhận thức khác trước. Những giá trị cũ
bị hoài nghi, phán xét lại để hướng tới những giá trị mới. Lẽ tất yếu, văn học
cũng phải được giải phóng khỏi sứ mệnh thiêng liêng nặng nề (cổ vũ chiến
đấu, giáo dục con người mới…), là tiếng nói của Tổ quốc, nhân dân, đạo lý.
Nhà văn không còn tư cách “người phát ngôn quyền năng” nữa mà là phận
sự một công chức đang thực hiện trách nhiệm công dân của mình - một
thân phận tất yếu và bình đẳng. Hơn ai hết, bản thân các nhà văn đã nhận
thấy văn chương đang trở về với bản chất nghệ thuật vĩnh cửu của nó buộc
họ phải “vào cuộc” bằng niềm say mê, tài năng và tư cách. Như nhà văn


14
Nguyễn Minh Châu nói, “từ cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc”
văn học phải hướng đến “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con
người” khi đời sống cộng đồng được đảm bảo, nhu cầu và ý thức cá nhân trỗi
dậy. Điều đó thể hiện trong nhận thức của nhà văn cũng như người đọc.

Mỗi tác phẩm là cuộc đối thoại và kích thích đối thoại với người tiếp
nhận. Người viết cũng như người đọc bình đẳng trên từng trang viết. Đến với
văn chương, người đọc được tham gia vào trò chơi chữ nghĩa thỏa mãn sự tò
mò và tìm lại tâm thế thoải mái, cân bằng trong cuộc sống.
Đánh giá về bản thân, Nguyễn Bình Phương nhã nhặn khi cho
rằng mình không có chỗ trên văn đàn vì chỉ là người viết nghiệp dư, viết chơi,
“viết nhăng viết cuội” cho vui. Có nhà nghiên cứu đã hình dung trên sân
ga văn chương trùng điệp người đi, người ở, Nguyễn Bình Phương như kẻ
“lặng lẽ nép mình ở một góc”. Mặc dù vậy, nếu cần lựa chọn một hiện tượng
tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Thạch vẫn dành ưu tiên số một cho sáng tác của Nguyễn Bình Phương.
Điều đó cho thấy vị trí của anh đâu hẳn là khiêm tốn như anh từng nhận.
1.1.1.2. Vài nét về các tác phẩm chính
Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, nhạy cảm và với tri
thức văn chương của một cây bút được đào tạo qua trường lớp. Tác giả
viết đều tay ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, tản văn. Cho đến
nay, Nguyễn Bình Phương đã xuất bản các tập thơ: Khách của trần gian
(1986), Lam chướng (1992), Xa thân (1997) cùng một số tiểu luận, truyện
ngắn; tiêu biểu có truyện ngắn Đi in trên báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày 10
tháng 1 năm 1999). Truyện ngắn này đã gây được sự chú ý của dư luận.
Sau cuốn tiểu thuyết đầu tay: Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991),
Nguyễn Bình Phương tập trung vào thể loại tiểu thuyết. Và cũng chính tiểu
thuyết đã làm cho bút danh nhà văn trở nên quen thuộc trong đời sống văn


15
học. Nguyễn Bình Phương được bạn đọc biết đến nhiều hơn với sự xuất hiện
liên tiếp những cuốn tiểu thuyết có cách viết mới cả về hình thức lẫn nội
dung, như: Bả giời (Nxb Quân đội nhân dân, 2004), Những đứa trẻ chết già,
(Nxb Văn học,1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn

(Nxb Thanh niên, 2000), Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004), Ngồi (Nxb
Đà Nẵng, 2006). Trong khoảng chưa đầy chục năm, không kể các thể loại
khác, Nguyễn Bình Phương đã có tới bảy cuốn tiểu thuyết được xuất bản.
Nguyễn Bình Phương đã để lại dấu ấn trên văn đàn Việt ngay từ những
cuốn sách đầu tiên của mình. Tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già (1991) khắc
họa cuộc đời của những con người có cảnh sống éo le, đồng thời đặt ra câu
hỏi dường như không bao giờ cũ về sự tồn tại, cái hữu hạn của đời người
trong thời gian vô hạn.
Nhân vật của tiểu thuyết Trí nhớ suy tàn là những hình bóng mơ hồ lang thang trong thế giới lẫn lộn thực ảo. Chẳng ai biết cô "em" sắp 26 tuổi ấy
tên là gì, làm việc ở cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rõ... Mối quan hệ
giữa "em" với Tuấn và Vũ cũng mờ nhạt hơn mối quan hệ của "vous" với
Henriette và Cécile... Chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không
loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập
thân vào với "em". Như đánh giá của giáo sư Phùng Văn Tửu, đây thực sự là
một câu chuyện tình cảm Việt Nam đặc sắc.
Ngồi cũng là cuốn tiểu thuyết có bút pháp độc đáo, mới mẻ không được
viết theo lối tiểu thuyết truyền thống. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
pha trộn giữa hiện thực với tưởng tượng. Nhân vật chính của cuốn sách đồng
thời sống trong hai thế giới, một thế giới có thể tạm coi là hiện tại của anh ta
(đi đến văn phòng một công sở, sống với những người đồng nghiệp và những
người bạn, cuộc sống nửa vợ chồng, nửa tạm bợ của anh ta với cô gái
Minh…) và một thế giới của một cái gì đó, nửa như giấc mơ, nửa như quá


16
khứ. Điều kỳ lạ là trong đời sống của nhân vật giữa hai thế giới đó luôn có sự
giao tiếp. Đây là một trong số tác phẩm thành công nhất của nhà văn Nguyễn
Bình Phương. Cuốn sách đã từng gây xôn xao dư luận, thu hút sự quan tâm
đặc biệt của bạn đọc và giới sáng tác, phê bình.
Ở trong Thoạt kỳ thủy - câu chuyện diễn ra ở một vùng nông thôn Việt

Nam, hay cũng là cái gốc làng xã của một đất nước nông nghiệp. Những gia
đình trong tiểu thuyết sống bằng nghề đập đá, mổ lợn, trồng rau, cũng có
người ôm mộng văn chương và cũng có người nát rượu. Nhân vật chính - một
thanh niên có tên là Tính, mắc chứng tâm thần nặng. Cái làng của Tính có quá
nhiều người điên, và những người bình thường nhất cũng luôn có những
khoảnh khắc chớp nhoáng nói năng, cư xử với nhau bất thường. Tính bị ám
ảnh bởi nghề chọc tiết lợn của ông Khoa, từ đó luôn có nhu cầu được gắn bó
với con dao và thường mơ những giấc mơ hãi hùng. Những người đàn ông
trong Thoạt kỳ thủy luôn hành động bằng bản năng nhiều hơn lý trí. Còn
những người đàn bà, họ lầm lũi trong đời sống và không được thỏa mãn dục
tính. Họ u uất và tích tụ nhiều giông bão. Cuộc đời họ quẩn quanh với con
mương, bờ tre, chấp nhận trao thân gửi phận cho những người đàn ông hoặc
là mất nhân tính hoặc là thích rượu hơn thích đàn bà.
Những năm gần đây, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã trở thành
đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu khoa học, được khám phá trên
nhiều phương diện như ngôn ngữ, thể loại…
Trong các gương mặt tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nguyễn Bình
Phương là một cây bút đã đi sâu khám phá vùng bí ẩn, có khi lạc vào tầng
sâu nhất ở mỗi con người. Chúng tôi vẫn hình dung như đó là một mê đồ
của ý thức với những con đường ngoằn ngoèo, chằng chịt, rất khó tìm thấy
điểm đầu và kết thúc. Đúng như tác giả tâm niệm: “Tiểu thuyết cần có những
bước mạo hiểm”. Con đường mà nhà văn lựa chọn quả là mạo hiểm nhưng
đầy sức vẫy gọi đối với người tiếp nhận.


17
1.1.1.3. Vài nét về tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương
Nhà văn Nguyễn Bình Phương vừa được vinh danh bởi giải thưởng
Sách hay 2014 với cuốn tiểu thuyết Người đi vắng - đây là cuốn tiểu thuyết
được giải sách hay năm 2014 do Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (gọi tắt

là Viện IRED) tổ chức hàng năm. Sách có bán bản điện tử trên trang web
amazon - nằm trong bộ những cuốn sách văn học hay nhất của Việt Nam.
Trong làng văn học Việt Nam, cái tên Nguyễn Bình Phương - như cái
tựa sách của anh luôn là “Người đi vắng”. Rất ít khi thấy anh xuất hiện ở đâu,
chỉ cặm cụi sáng tác và đều đặn công bố, vài năm một cuốn tiểu thuyết.
Giới làm nghề tôn trọng và kính phục cái sự âm thầm lặng lẽ vì nghề
chứ không đăng đàn diễn thuyết của anh - thực sự giống hệt như một nông
dân cần cù cày xới trên thửa ruộng của mình. Vì vậy, cái tên Nguyễn Bình
Phương được xướng lên bởi giải thưởng Sách hay 2014 đã khiến người đọc
hết sức bất ngờ.
Người đi vắng - tự cái tựa đó đã nói rất nhiều: Sự cô đơn, vô hình, bí
ẩn, trống vắng... Người đi vắng (1999) là một trong những khởi điểm của
dòng chảy Nguyễn Bình Phương vào thế giới vô thức, mộng mị, hồng hoang,
sau đó được tiếp nối bằng Trí nhớ suy tàn (2000) và Thoạt kỳ thủy (2004)…
Cư dân của Người đi vắng là những hồn ma, những kẻ sống dở chết dở,
những dòng sông, giọt sương, tiếng chuông... Nhưng có lẽ nhân vật nữ - Hoàn
- chính là người đi vắng ly kỳ nhất. Tiểu thuyết dành phần mở đầu mô tả mối
tình tay ba của Hoàn với Thắng và Cương, người chồng và người tình. Hoàn
lao xe xuống vực, cơ thể hủy hoại còn hồn phiêu diêu. Từ đó, xen kẽ những
giấc mơ của Hoàn là kỷ niệm, âm hưởng, dư vị, dấu ấn mà tấm thân nhục dục
trước đây của cô để lại trong hai người đàn ông. Trong Người đi vắng, tình
yêu - tình dục - tâm linh gắn với nhau như hình với bóng. Chúng hiện lên lung
linh, lẫn lộn vật chất tinh thần, chồng chéo giằng co nhau qua những sợi dây


18
thần bí. Có thể nói Người đi vắng là truyện tình bất thường của những người
tình bất kham và bất an.
Không chỉ trong tiểu thuyết này, “hầu hết các nhân vật của Nguyễn
Bình Phương đều là những kẻ bất an - những người đi vắng. Tiểu thuyết của

Nguyễn Bình Phương luôn là một hợp âm với vô vàn đối thoại, độc thoại, mà
người đọc không phân biệt được ai là kẻ phát ngôn. Đó cũng là những giọng
nói cất lên từ cõi tâm linh, hay tiếng rao “khan khàn ủ ê” của ông thiến lợn
vang lên trong suốt tác phẩm nhưng không ai biết mặt. Các nhân vật của
Nguyễn Bình Phương thường có bộ phận thính giác cực kỳ tinh nhạy. Thế
giới của anh vì vậy vừa vắng vừa đầy, im lặng nhưng ồn ào, vô hình và hữu
hình, thật và ảo, âm dương lẫn lộn [46].
Tác phẩm Người đi vắng có rất nhiều mạch đan xen. Một mạch truyện
lịch sử kể về cuộc đời nổi dậy của Đội Cấn ở Thái Nguyên, một mạch truyện
kể về những biến cố (đầy bí ẩn) trong gia đình Thắng; một mạch là những lời
nói chuyện của hồn ma (và ở mạch này chia thành nhiều mạch nhỏ) cảm xúc
của các nhân vật mà tác giả tạo ra nhằm soi chiếu sự việc ở các góc độ, các
điểm nhìn khác nhau. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự thay đổi mạch
truyện với các phông chữ khác nhau (in thẳng, in nghiêng). Nhờ những mạch
truyện xoắn kép ấy nên ta không chỉ nhìn thấy một Sơn nghèo khó, thích khoe
khoang, vỗ ngực, luôn bị ám ảnh bởi dàn Compac mà còn biết tới Sơn với
những suy nghĩ chiêm nghiệm về quá khứ với nhiều kỷ niệm, biến cố. Ta
không chỉ thấy một Hoàn xốc nổi, bốc đồng, thích hoan lạc xác thịt mà còn
thấy một chiều sâu tâm hồn với những giấc mơ, những hoài niệm, những khát
vọng mãi không thể vươn tới. Ta không chỉ thấy Thắng mỏi mệt, bơ phờ, nhạt
nhẽo mà còn nhìn thấy những khoảng cách anh cô đơn không chấp nhận mình
trong thực tại và bấu víu vào tình dục như một phương cách cuối cùng có thể
thực hiện. Cả Thư, cả Phương, cả Kỷ… Họ cuối cùng đều không thể tìm thấy
được sự thanh thản, bình yên.


19
Như vậy, bằng nhiều mạch truyện, Nguyễn Bình Phương đã tạo ra
nhiều góc quay, nhiều điểm nhìn soi chiếu để tạo ra cách nhìn đa chiều về
cuộc sống. Cuộc sống không phải bao giờ cũng lộ ra ở bề mặt của nó. Cuộc

sống còn là những gì khác không thể gọi thành tên, không thể cất nên lời, còn
là những gì không thể lý giải ẩn sâu dưới tầng tầng lớp lớp những sự kiện,
biến cố. Nguyễn Bình Phương đã tạo ra cho mình một lối đi vô cùng rộng rãi
để đến với hiện thực. Đó cũng là cách tác giả tạo ra sự tự do cho người đọc.
Để mỗi khi bước vào tác phẩm của nhà văn, người đọc không cảm thấy chật
chội trong một lối đi hẹp. Cũng từ mạch truyện xoắn kép này ta thấy một
quan niệm mới của Nguyễn Bình Phương về khâu sáng tác và tiếp nhận. Theo
đó: người đọc giữ vai trò quan trọng trong việc khám phá, bóc tách các lớp
nghĩa của tác phẩm, tác giả chỉ giữ vai trò "người đứng sau cánh gà quan sát".
Rõ ràng cấu trúc xoắn kép là một trong những thể nghiệm của Nguyễn
Bình Phương và điều chắc chắn chúng ta có thể khẳng định: đây là một thể
nghiệm đáng được ghi nhận của Nguyễn Bình Phương trong cuộc hành trình
làm mới mình, làm mới văn chương.
Một đặc điểm không thể không nói tới trong tác phẩm của Nguyễn
Bình Phương đó là việc sử dụng yếu tố kỳ ảo. Ở Người đi vắng, yếu tố kỳ ảo
được sử dụng như một bằng chứng nói lên đặc điểm quan trọng trong thế giới
tâm linh người Việt. Cuộc sống không phải một cõi (dương) mà còn tồn tại ở
cõi khác (âm). Ở đó, con người vẫn không thể sống khác mình. Và vì thế: đói
rét, khổ đau, bệnh tật, đòi hỏi, dằn vặt vẫn tồn tại. Cõi dương và âm luôn luôn
có sự liên hệ bền chặt nhiều khi khó tách biệt rõ ràng. Cũng có thể vì thế mà
chỉ có một sự kiện đào móng xây nhà của gia đình cụ Điển cũng xuất hiện bao
hình ảnh ghê rợn ma quái:
“Tiếng trầm trầm chạy quanh hố móng làm mặt đất rung lên bắn vào
da thịt Kỷ tê tê. Chớp nhoáng lên, khoảnh khắc đó đủ để Kỷ nhìn thấy dưới hố


20
móng đúng chỗ tay thợ vừa bổ cuốc xuống, một cái bọc lùng nhùng trồi lên với
lớp da đen nhẵn màu đất sét” [48,327]. Đó cũng là đầu mối dẫn đến bao nhiêu
biến cố bất thường của hàng loạt số phận: Hoàn gặp tai nạn (trong một tình

huống khó hiểu); Sơn chết (do sự thôi thúc của một bàn tay vô hình); Ông
Khánh mất trí (như bị ai đó lấy cắp linh hồn); Cương điên loạn (như sự trả giá
nghiệt ngã cho cuộc tình vụng trộm với Hoàn)… Những linh hồn người sống
và chết đều không tìm thấy sự thanh thản. Hay nói đúng hơn họ không được
sống trọn vẹn với thực tại mà luôn có sự hiện diện của quá khứ, sự đè nén, ám
ảnh, của một lực lượng vô hình khó nắm bắt. Cả Sơn, ông Khánh, Thắng,
Hoàn, Thư, Yến… tất cả họ, suy cho cùng đều là những người đáng thương.
Nếu như với nhiều cây bút, chi tiết kỳ ảo được coi như yếu tố chức
năng, hay kỹ thuật thì với Nguyễn Bình Phương lại là một yếu tố không thể
thiếu trong bức tranh hiên thực. Bước vào những trang văn của tác giả, ta thấy
ảo xen thực, thực thấm vào ảo, ảo và thực hoà quyện nhiều khi không thể
phân tách rõ ràng. Đây là một quan niệm của nhà văn về hiện thực chứ không
phải là kỹ thuật nhằm câu khách. Rõ ràng các chi tiết kỳ ảo được sử dụng đều
nằm trong dụng ý nghệ thuật của tác giả. Sự quái đản, kỳ lạ, ma mị chính là
một phần của cuộc sống con người và nó tồn tại bền bỉ, ăn sâu vào máu thịt
vào tiềm thức không gì gỡ bỏ được. Nguyễn Bình Phương sử dụng yếu tố ảo
như một cách thức làm nhoè ranh giới của hiện thực song lại cho ta một cảm
giác rất thật về cuộc sống: có những điều không phải lúc nào cũng lý giải, và
sự phi lý vốn là một mặt không thể thiếu của cuộc sống.
1.1.2. Nguyễn Bình Phương - những vấn đề được đặt ra nghiên cứu
1.1.2.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu đối với tác phẩm Nguyễn
Bình Phương
Trong trào lưu đổi mới của toàn xã hội, văn học cũng có nhiều cách
tân. Trong văn học đương đại xuất hiện những tác phẩm, những tên tuổi được


21
đọc giả nhắc đến khi nói tới sự cách tân của văn học. Nguyễn Bình Phương là
một trong những tác giả nằm trong trào lưu đó. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu sâu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thì đến nay vẫn chưa

đáng kể, nếu có chỉ mới dừng lại ở một số bài nghiên cứu trên báo chí, phỏng
vấn, điểm sách, trên các trang wed... nhưng vẫn còn rời rạc và nhỏ lẻ.
Bên cạnh những thành tựu về thơ, tiểu thuyết, cũng là thể loại thành
công của Nguyễn Bình Phương. Tác phẩm của ông thực sự đã đặt ra được
những vấn đề nghiêm túc về cuộc sống, chứa đựng những giá trị nội dung và
nghệ thuật mới mẻ của một cây bút nghiêm túc và đầy tính sáng tạo. Hiện nay
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Bình
Phương, tuy nhiên phần lớn các công trình đó đều tiếp cận từ hướng phê bình
văn học. Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tiểu thuyết của ông từ
góc độ ngôn ngữ học. Chính vì vậy nghiên cứu “Từ ngữ trong tiểu thuyết
Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương” là góp phần làm sáng rõ đặc điểm
tiểu thuyết của ông.
Năm 2000, Thụy Khuê đã có một bài viết nghiên cứu về các tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương với tên “Sóng từ trường II” đăng trên trang web
[40]. Đây là tập hợp các bài viết về tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương. Cụ thể là Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong
tiểu thuyết “Những đứa trẻ chết già”; Tính chất hiện thực linh ảo âm
dương trong tiểu thuyết “Người đi vắng”; Những yếu tố của tiểu thuyết
mới trong “Trí nhớ suy tàn; Thế tĩnh tọa trong tác phẩm “Ngồi”. Đây là
một tập hợp các tác phẩm nghiên cứu sâu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
tuy nhiên các tác giả chưa đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ, chưa có sự phân tách
rạch ròi.
Năm 2004, Đoàn Cẩm Thi có bài viết Sáng tạo văn học giữa mơ và
điên, đăng trên http: //www.vietnamnet.vn [46]. Tác giả đi sâu vào đối chiếu


22
hình ảnh trăng trong Thoạt kì thủy và Thơ điên của Hàn Mặc Tử. Bài viết
này cũng chỉ đề cập đến hình tượng chứ không đề cập đến vấn đề ngôn ngữ.
Năm 2006, Trương Ngọc Hân viết Một số vấn đề nổi bật trong sáng

tác của Nguyễn Bình Phương, đăng trên [38]. Bài viết
nêu ra những vấn đề mà Ngọc Hân cho là nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương: một cách nhìn hiện thực mới mẻ, một cách tiếp cận nhân vật
độc đáo, sự sáng tạo cốt truyện; bài viết có nói đến việc sử dụng ngôn từ
nhưng chỉ dừng lại ở hình thức nêu vấn đề mà thôi.
Năm 2006, trong luận văn thạc sỹ Nguyễn Bình Phương với việc khai
thác tiềm năng thể loại để hiện đaị hóa tiểu thuyết, Hồ Bích Ngọc đi sâu
phân tích tác phẩm của Nguyễn Bình Phương trên góc độ thể loại và đặc điểm
hiện đại hóa của nó.
Năm 2008, có một số công trình nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương
rất đáng chú ý đó là Nguyễn Bình Phương lục giang đầu tiểu thuyết in trong
tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 của Đoàn Ánh Dương và khóa luận Tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn tiếp nhận của Ngô Thị Huyền (Đại
học SP Huế), hai công trình này đều đi sâu vào phương thức huyền thoại và
thi pháp kết cấu.
Năm 2009, trong khóa luận tốt nghiệp của mình, Nguyễn Thị Hoàng
Yến (Đại họcSP Huế) đi sâu khai thác Không gian- thời gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Khóa luận này cũng khai thác
những tác phẩm của Nguyễn Bình Phương dưới góc độ thi pháp học.
Như vậy, có thể thấy tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có sức hút lớn
đối với bạn đọc và các nhà nghiên cứu. Mỗi tư liệu trên dù ít nhiều, trực tiếp
hay gián tiếp đã chạm đến vấn đề mà người viết đang nghiên cứu. Nhưng qua
đó cũng có thể khẳng định được một điều, cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào đi sâu tập trung nghiên cứu đặc điểm từ ngữ nghệ thuật trong tiểu


23
thuyết Nguyễn Bình Phương nói chung và tiểu thuyết Người đi vắng của
Nguyễn Bình Phương nói riêng.
Có thể khẳng định từ ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình

Phương là một khía cạnh nghiên cứu lý thú song chưa được nghiên cứu từ
cách tiếp cận Ngôn ngữ học - văn học.
1.1.2.2. Vấn đề từ ngữ trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương nói chung
và trong tiểu thuyết “Người đi vắng” nói riêng
Đổi mới về ngôn ngữ là một nhu cầu nghiêm túc mà xã hội đặt ra cho
văn học thời kì đổi mới. Cùng với sự đổi mới về nội dung và cách viết thì đổi
mới về ngôn ngữ là một yêu cầu bức thiết. Cùng với nhiều cây bút văn xuôi
cùng thế hệ như: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh,
Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… những sáng tác của Nguyễn Bình Phương giai
đoạn này đã góp phần không nhỏ vào việc đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật đáp
ứng yêu cầu đổi mới của thời đại.
Văn xuôi thời kì 1945 - 1975 với cảm hứng sử thi bao trùm, ngợi ca,
chủ yếu hướng tới cái cao cả, cái tốt đẹp, cái hào hùng, cái siêu phàm, hoàn
hảo. Tất cả đều hướng đạt đến sự lí tưởng. Để phù hợp với nội dung cần biểu
đạt như thế, ngôn ngữ mà văn học giai đoạn này lựa chọn là thứ ngôn ngữ đầy
chất thơ, đẹp đẽ, trang trọng, mực thước và được mĩ lệ hoá.
Sau 1975, con người trở về với hiện thực muôn mặt của đời thường,
văn học cũng nhạt dần tính sử thi tăng dần tính tiểu thuyết. Cảm hứng thế sự ở
giai đoạn này đòi hỏi sự thay đổi ngôn ngữ. Văn chương giờ đây không né
tránh cái xấu, cái ác, những mặt tối, những mảng khuất lấp của hiện thực nữa.
Nhu cầu được “nói thẳng”, “nói thật” những mặt phức tạp, bê bối và nhức
nhối của đời sống là cao hơn bao giờ hết. Ngôn ngữ văn xuôi giai đoạn này
bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời
thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ, ngôn ngữ trở nên


24
góc cạnh, nhiều sắc thái đời thường, xù xì hơn, nhiều thành phần ngôn ngữ
khác như “nói mỉa, nói ngược” với những chất cay đắng, khắc khổ của đời
sống được bổ sung thêm. Những tác giả như: Nguyễn Khải, Nguyễn Khắc

Trường, Dương Hướng, Tạ Duy Anh… đều đem đến cho người đọc sự phong
phú hấp dẫn của những cá tính, những làng quê qua “chất ngôn ngữ giàu tính
hiện thực”. Hoà nhịp cùng sự thay đổi đó, Nguyễn Bình Phương đã có những
nỗ lực cách tân đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào tiển trình đổi mới văn
học trên mọi lĩnh vực trong đó có ngôn ngữ.
Nguyễn Bình Phương xuất hiện trên văn đàn, nhanh chóng bước vào
làng văn bằng tâm thế và sức bật của một người mới. Ông lựa chọn cho mình
một lối đi riêng. Và chính không khí đổi mới đồng bộ, toàn diện của đất nước
đã tạo thành bệ đỡ cho tư tưởng táo bạo của Nguyễn Bình Phương có điều
kiện nở hoa. Những vấn đề “gai góc”, những mảng tối, mảng khuất lấp của
cuộc sống ít ngòi bút chạm tới, lại được Nguyễn Bình Phương đề cập nhiều
trong tác phẩm của mình. Lấy bối cảnh hiện thực là một làng quê đầy tăm tối,
nghèo khổ và thù hận ở Thái Nguyên, những vết thương không bao giờ liền
da và một hiện thực đa dạng, nhiều chiều đầy hỗn loạn, xô bồ của cuộc sống
đô thị thời hiện đại… làm đối tượng chiếm lĩnh, ngôn ngữ văn chương
Nguyễn Bình Phương không phải là thứ ngôn ngữ mượt mà, trong veo và đầy
lí tưởng mà đó là thứ ngôn ngữ đời thường đầy thô nhám của lớp nông dân
nghèo khổ, của hiện thực cuộc sống hiện đại đầy những bề bộn, ngổn ngang
và hỗn loạn thậm chí đó là thứ ngôn ngữ hàm chứa những ẩn ức, bừng bừng
nộ khí chờ được có cơ hội để văng ra. Nguyễn Bình Phương không hề ngần
ngại khi đưa lên trang viết của mình những chất hiện thực sống sượng nhất.
Nhiều khi, ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương đối nhau
chan chát, nhằm thể hiện sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng. Sự đối
lập giữa bản chất và hiện tượng trong một chỉnh thể ngôn ngữ này rõ ràng là


25
thứ ngôn ngữ góc cạnh - thứ ngôn ngữ của văn chương đương đại. Nhà văn
không nhằm mục đích ngụ ý gây cười hài hước như trong các tác phẩm văn
học dân gian hay chuyện tiếu lâm mà nhằm thể hiện một sự mâu thuẫn buộc

người đọc phải suy ngẫm trước những sự mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản
chất của hiện thực mà nhà văn đặt ra trong mỗi tác phẩm. Để từ đó truy tìm
đâu là hiện tượng và đâu là bản chất thực của đời sống. Có thể nói, trong tác
phẩm của nhà văn này, độc giả không bao giờ bắt gặp thứ ngôn ngữ mờ nhạt,
xam xám của thứ văn chương tỉa tót, bóng chuốt, “đồng phục” mà đó là thứ
ngôn ngữ gai góc, sắc nhọn và trần trụi. Nó phản ánh đúng đối tượng miêu tả,
đúng hiện thực đầy phức tạp, bề bộn, nhiều chiều. Nó đi sâu vào những
“mảng tối”, “mảng khuất lấp” một cách trực diện không kiêng nể, không né
tránh, sợ sệt. Điều này một phần cũng có những hạn chế nhưng qua đó cho
chúng ta thấy một bản lĩnh dám nghĩ, dám viết, dám phản ánh của nhà văn
Nguyễn Bình Phương.
Dù còn nhiều vấn đề phải bàn cãi, nhưng rõ ràng những thể nghiệm về
một lối viết mới của Nguyễn Bình Phương là rất đáng được ghi nhận. Sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa 3 nhân tố: nỗ lực nội tại của nhà văn, một cảm quan
mới về hiện thực và dòng mạch đổi mới văn học trên thế giới, đã tạo nên
những đã tạo nên những nét khác biệt giữa Nguyễn Bình Phương cùng nhiều
cây bút văn xuôi hiện nay. Và chúng ta đều có thể hi vọng vào một tương lai
không xa Nguyễn Bình Phương cùng nhiều cây bút khác sẽ tạo nên một diện
mạo mới cho văn chương Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.2.1. Ngôn ngữ tiểu thuyết
1.2.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Có thể nói rằng, tiểu thuyết là thể loại trung tâm trong nền văn học hiện
đại. Tuy nhiên, để có một định nghĩa hoàn chỉnh và chính xác về thể loại này,


×