Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường đại học hồng đức tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.94 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

-------------------

MAI THỊ XUÂN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ SINH VIÊN TRONG
ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.01.14

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Ngô Sỹ Tùng

Nghệ An, 2015


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, sự biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn
tới Ban Giám hiệu, Hội đồng khoa học và đào tạo Trường Đại học Vinh, Phòng
Đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục, các nhà khoa học, các Thầy Cô giảng dạy
học phần chuyên nghành Quản lý giáo dục, những người đã dành cho tôi nhiều
chỉ dẫn khoa học quý báu.
Xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Công tác Học sinh, sinh viên; các
phòng ban chức năng Trường Đại học Hồng Đức - Thanh Hóa cùng gia đình, bạn
đồng nghiệp đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng sâu sắc đến


PGS.TS. Ngô Sỹ Tùng, Thầy đã tận tình định hướng, chỉ dẫn, giúp đỡ và động
viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân tôi đã có nhiều cố gắng, học hỏi, nghiên cứu để hoàn
thành đề tài nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. kính mong nhận
được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp
để luận văn được hoàn chỉnh hơn, kết quả nghiên cứu được triển khai thực sự có
hiệu quả trong thực tế.
Xin trân trọng cảm ơn.
Nghệ An, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Mai Thị Xuân

II


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu............................................................3
4. Giả thuyết khoa học ....................................................................................4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................4
8. Cấu trúc của luận văn..................................................................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề.................................................................6
1.2. Một số khái niệm cơ bản........................................................................10
1.2.1.1. Quản lý.............................................................................................10
1.2.1.2. Quản lý giáo dục..............................................................................11
1.2.1.3. Quản lý nhà trường...........................................................................12
1.2.3.1. Định nghĩa........................................................................................13

1.3.2.3. Công tác y tế, thể thao..................................................................21
1.3.2.4. Thực hiện các chế độ, chính sách đối với sinh viên ........................21
2.1. Khái quát về Trường Đại học Hồng Đức ..............................................30
2.2. Thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở
Trường Đại học Hồng Đức............................................................................37
2.3. Thực trạng sử dụng giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế
tín chỉ ở Trường Đại học Hồng Đức

........................................................44

3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp...........................................................57
3.2. Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở
Trường Đại học Hồng Đức............................................................................59
3.4. Khảo nghiệm về sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất85
1. Kết luận ...................................................................................................93
1.2. Về thực tiễn.........................................................................................94
2. Kiến nghị ..................................................................................................95

III


IV


DANH MỤC VIẾT TẮT
BGH

Ban Giám hiệu

CNH


Công nghiệp hóa

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

CLB

Câu lạc bộ

CNTT

Công nghệ thông tin

ĐTN

Đoàn thanh niên

ĐHHĐ

Đại học Hồng Đức

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

HCTC

Học chế tín chỉ


HSSV

Học sinh, sinh viên

QLSV

Quản lý sinh viên

QLGD

Quản lý giáo dục

TNXH

Tệ nạn xã hội

SV

Sinh viên

V


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Chỗ ở của SV trong các năm học 2012 -2013 và 2013- 2014......46
Bảng 2.2. Số lượng và nội dung SV vi phạm của các năm 2012- 2013, 20132014...............................................................................................................47
Bảng 3.1. Đánh giá sự cần thiết của các giải pháp.......................................86
Bảng 3.2. Đánh giá tính khả thi của các giải pháp........................................89


VI


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, GD&ĐT đóng vai trò then
chốt, trọng yếu trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ:
“ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá để đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” [2], [14].
Trong công cuộc đổi mới đất nước, trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, quan hệ quốc
tế, các cơ sở giáo dục, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp nói riêng
đang được xem là các cơ sở dịch vụ (một loại hình dịch vụ đặc biệt). Loại hình dịch vụ
này có tồn tại, phát triển hay không hoàn toàn phụ thuộc vào người học. Số lượng, chất
lượng sinh viên nói lên vị thế, sự phát triển của cơ sở đó.
Mặt khác, trong nhiều năm qua, công tác quản lý sinh viên được coi trọng theo
cách truyền thống, chúng ta lo chỉ tập trung quản lý số lượng sinh viên có mặt trên
lớp, mà thời gian của sinh viên lên lớp thì quá nhỏ so với tổng thời gian sinh hoạt
trong ngày của sinh viên bởi vì hiện tại chúng ta đang thực hiện đào tạo theo học chế
tín chỉ. Hơn thế việc đánh giá sinh viên còn dựa vào nhiều tiêu chí như: chính trị tư
tưởng, đạo đức lối sống, ý thức tham gia các hoạt động tập thể, ý thức rèn luyện bản
thân, chế độ chính sách. Vì thế, tìm được giải pháp nâng cao việc quản lý sinh viên là
tìm chìa khoá để mở cửa cho mảng dịch vụ này.
Giáo dục đại học có một sứ mệnh rất to lớn là đào tạo nguồn nhân lực để phát
triển đất nước theo yêu cầu của Đảng. Để đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đổi mới, giáo dục đại học không chỉ nghiêng về đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề

nghiệp mà phải hết sức chú ý đến giáo dục đạo đức, lý tưởng làm người. Muốn vậy
1


các trường đại học phải coi trọng công tác quản lý sinh viên. Đây là một nhiệm vụ
quan trọng, phức tạp, nặng nề có tác dụng mạnh mẽ đối với chất lượng đào tạo của
các trường đại học [11], [21].
Trường Đại học Hồng Đức được thành lập theo Quyết định số 797/TTg ngày 24
tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở 3 Trường: Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật, Cao đẳng Sư phạm và Cao đẳng Y tế Thanh Hoá. Là một trong những
Trường Đại học đầu tiên được thành lập theo mô hình mới trong hệ thống giáo dục
quốc dân - Trường Đại học đa ngành trực thuộc địa phương, đồng thời chịu sự quản lí
Nhà nước của Bộ GD&ĐT và các Bộ, ngành có liên quan. Khi mới thành lập, trường
có nhiệm vụ đào tạo cán bộ các ngành khoa học và công nghệ trình độ đại học và
thấp hơn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà trước hết là cho
tỉnh Thanh Hoá; nghiên cứu khoa học nhằm từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ
và chất lượng đào tạo của nhà trường, góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh [32].
Năm 2008, Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức ra Quyết định số 801/QĐĐHHĐ và Quyết định số 1270/QĐ- ĐHHĐ ngày 03/9/2008. quy định về đào tạo đại
học, cao đẳng theo học chế tín chỉ. Bản chất của phương thức đào tạo theo học chế
tín chỉ là không tổ chức theo lớp học niên khóa mà tổ chức theo lớp học phần. Các
lớp học theo môđun không ổn định, khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ như
các lớp theo khóa học nên việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể của sinh viên có thể gặp
khó khăn. Chính vì nhược điểm này mà có người nói học chế tín chỉ “khuyến khích
chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng đồng”. Khó khăn này là một nhược
điểm thực sự của học chế tín chỉ, tuy nhiên người ta thường khắc phục bằng cách
xây dựng các tập thể tương đối ổn định qua các lớp khóa học trong năm thứ nhất,
khi sinh viên phải học chung phần lớn các môđun kiến thức và đảm bảo sắp xếp
một số buổi xác định không bố trí thời khóa biểu để sinh viên có thể cùng tham gia

2



các sinh hoạt đoàn thể chung. Vì vậy mà rất khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên
và công tác quản lý HSSV còn nhiều bất cập cần phải nghiên cứu.
Trong những năm qua công tác quản lý học sinh, sinh viên của Trường Đại
học Hồng Đức đã có những tiến triển nhất định. Tuy nhiên, với quy mô đào tạo
ngày một tăng, việc giáo dục sinh viên trong học tập, tu dưỡng rèn luyện, nâng
cao ý thức đạo đức nắm vững kiến thức chuyên môn đòi hỏi hệ thống tổ chức, đội
ngũ, biện pháp quản lý, sự phối hợp của các phòng ban chức năng trong việc quản
lý sinh viên là những vấn đề mà nhà trường đang quan tâm, tìm những biện pháp
để giải quyết. Với trên 13.000 sinh viên việc quản lý sinh viên còn có nhiều bất
cập so với yêu cầu. Đây là bài toán khó đối với nhà trường, các khoa đào tạo, và
các nhà quản lý giáo dục. Việc quản lý sinh viên lại gặp nhiều khó khăn hơn khi
nhà trường chuyển từ hình thức đào tạo theo niên chế sang hình thức đào tạo theo
học chế tín chỉ [28].
Từ những vấn đề nêu trên tôi đã chọn vấn đề: “Một số giải pháp quản lý sinh
viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Hồng Đức, tỉnh Thanh
Hóa’’ làm đề tài nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc đánh giá thực trạng, đề tài xây dựng các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở
Trường Đại học Hồng Đức.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại
học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở
Trường Đại học Hồng Đức.
3



4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, khoa học và áp dụng được thì
sẽ nâng cao hiệu quả công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ
ở Trường Đại học Hồng Đức.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học
chế tín chỉ ở Trường đại học
5.2. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Hồng Đức
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ
ở Trường Đại học Hồng Đức
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, khái quát các tài liệu nghiên cứu lý luận, các văn bản nghị quyết
của Đảng, Nhà nước và các quy chế, quy định của ngành giáo dục và đào tạo có
liên quan đến đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra qua các phiếu xin ý kiến.
- Phương pháp đàm thoại, phương pháp chuyên gia: Trao đổi, phỏng vấn trực
tiếp cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên, chính quyền địa phương, cảnh sát khu
vực, các hộ kinh doanh phòng trọ sinh viên nhằm thu thập thêm thông tin bổ sung
cho phần nghiên cứu thực trạng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu thực tiễn để rút ra những
kết luận và bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
6.3. Phương pháp thống kê toán học xử lý số liệu

4



7. Những đóng góp mới của luận văn
- Về lý luận: Nêu và hệ thống hoá các cơ sở lý luận của công tác quản lý sinh
viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
- Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học
Hồng Đức.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1 . Cơ sở lý luận về quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín
chỉ ở Trường đại học.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế
tín chỉ ở Trường Đại học Hồng Đức.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín
chỉ ở Trường Đại học Hồng Đức.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SINH VIÊN TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Công tác quản lý sinh viên là một mảng lớn của công tác quản lý nhà
Trường, do đó lĩnh vực này luôn được các nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài
nước, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp quan tâm.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ ở nước ngoài
Đào tạo theo học chế tín chỉ, lần đầu tiên được áp dụng tại Harvard (Hoa Kỳ)

vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp thế giới. Được áp dụng rộng rãi nhất ở Hoa
Kỳ, Canađa, Nhật Bản, Philippin, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Ấn
Độ, Sênêgan, Môzămbích.. Đây là phương thức đào tạo “Tôn trọng người học,
xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo”. Bản chất của đào tạo theo học
chế tín chỉ là sự tích lũy kiến thức được quy định trong các chương trình đào tạo.
Sự tích lũy được đánh giá bằng số tín chỉ tích lũy tối thiểu và điểm trung bình
chung tích lũy tối thiểu quy định cho mỗi chương trình để sinh viên có thể tốt
nghiệp.
Trong quá trình vận hành nhiều vấn đề về nội dung, cách thức của phương
thức đào tạo mới này đã được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với đặc điểm mỗi vùng
miền, mỗi thời kỳ lịch sử. Song song với việc triển khai phương thức đào tạo,
công tác quản lý sinh viên cũng được các Trường đại học các nước quan tâm, cải
tiến và hoàn thiện các quy trình.
Các trường đại học trên thế giới khi chuyển sang phương thức đào tạo này
cũng gặp phải những khó khăn như ở nước ta nói chung, ở Trường Đại học Hồng
Đức nói riêng bởi đào tạo theo học chế tín chỉ hoàn toàn khác với đào tạo theo
niên chế. Do đó, khâu nghiên cứu, cải tiến quy trình đào tạo và quản lý sinh viên

6


cũng được các trường thực hiện ngay từ đầu. Trong đó, đã có hàng trăm công trình
nghiên cứu để tìm ra các mô hình quản lý sinh viên hiệu quả, sát với sứ mạng của
các trường nêu trên.
Tuy nhiên, do tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của mỗi nước một khác,
đặc điểm của mỗi Trường đại học một khác, nên những quy trình, những cách thức
của các nhà nghiên cứu thế giới đã làm không thể áp dụng được vào điều kiện của
Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ ở trong nước

Trước năm 1975, một số Trường đại học ở miền Nam đã áp dụng phương
thức đào tạo này: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức....Trong quá trình
“đổi mới” ở nước ta từ cuối năm 1986 chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục đại học
cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học tại Nha Trang hè
1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới giáo dục đại học, trong đó có chủ trương
triển khai trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai đoạn và modun-hoá
kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra đời và được triển khai
trong toàn bộ hệ thống các trường đại học, cao đẳng từ năm 1988. Từ niên khoá
1993-1994, Bộ GD&ĐT đã khuyến khích các trường đại học cải tiến học chế học
phần để có học chế học phần triệt để hơn, hoặc nói cách khác là áp dụng học chế
tín chỉ kiểu Mỹ cho quy trình đào tạo đại học nước ta (thực chất là cải tiến và tăng
sự mềm dẻo của học chế học phần). Nơi đầu tiên thực hiện quá trình chuyển đổi
này là Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh (1993- 1994), sau đó là
các Trường Đại học Đà Lạt, Cần thơ, Thuỷ sản Nha Trang (1994- 1995), Trường
Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Dân lập Thăng Long... Năm 2001, Bộ
GD&ĐT ban hành Quy định tạm thời số 31 về thí điểm đào tạo theo học chế tín
chỉ.

7


Nghị quyết số 14/2005/NQ- CP của Chính phủ ngày 2/11/2005 nêu rõ: “Xây
dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều
kiện để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tới
các cấp học tiếp theo ở trong và ngoài nước”. Sau 6 năm nghiên cứu, thực nghiệm
và tổng kết các mô hình thí điểm, đến năm 2007 Bộ GD & ĐT ban hành Qui chế
43/2007 về đào tạo theo học chế tín chỉ [7], [12].
Căn cứ vào xu hướng hội nhập quốc tế về các mặt, trong đó có giáo dục & đào tạo,
xét về bản chất và tính ưu việt của đào tạo theo HTTC như: tính hệ thống lâu dài, lấy

người học làm trung tâm và tạo điều kiện cho người học chủ động trong việc tìm thầy
cô, lập kế hoạch học tập..., qua thực tế áp dụng phương thức đào tạo này của một số
Trường đại học trong nước cũng như qua tổng kết quá trình áp dụng của các bộ ngành
Trung ương, Bộ Giáo dục và đào tạo đã có chương trình hành động giai đoạn 20112016. Trong chương trình hành động nêu: Đổi mới chương trình giáo dục đại học sẽ
thực hiện theo hướng gắn với nhu cầu xã hội, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục
đại học trong việc xây dựng chương trình. Đặc biệt, đến năm 2015, tất cả các Trường đại
học chuyển hoàn toàn sang đào tạo theo học chế tín chỉ. Bộ chủ trương phát triển các
chương trình đào tạo trình độ đại học theo 2 hướng: nghiên cứu và nghề nghiệp ứng
dụng. Vận dụng có chọn lọc một số chương trình đào tạo tiên tiến của các đại học có uy
tín trên thế giới vào đào tạo của một số Trường ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thực hiện
phân tầng đại học, đến năm 2015 hình thành nhóm các Trường đại học định hướng
nghiên cứu, đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng, các Trường cao đẳng cộng đồng
[10].
Ở nước ta, trước khi thống nhất đất nước, một số Trường đại học ở miền Nam
chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ đã áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ
như: Viện Đại học Cần Thơ, Viện đại học Thủ Đức...
Từ cuối năm 1986 khi miền Bắc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị Trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục đại học ở
nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các Trường đại học tại Nha

8


Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới giáo dục đại học, trong đó có
chủ trương triển khai trong các Trường đại học qui trình đào tạo 2 giai đoạn và
môdun-hoá kiến thức. Theo đó, học chế học phần ra đời và chính thức được triển
khai trong toàn bộ hệ thống các Trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm 1988.
Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản là tích luỹ dần kiến thức, mô đun hoá
kiến thức thành các học phần một cách khá trọn vẹn và không quá lớn để có thể
lắp ghép với nhau, tạo nên một chương trình đào tạo dẫn đến một văn bằng mà

người học có thể tích luỹ dần trong quá trình học tập. Để đo lường kiến thức theo
khối lượng lao động học tập của người học, khái niệm đơn vị học trình được đưa
vào.
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học Bách khoa
Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành
phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thăng Long Hà Nội, Đại
học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang, Đại học Cần Thơ...
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế đào tạo đại học và
cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ (Số 43/2007/QĐ-BG&DĐT), chính
thức mở ra hướng đào tạo theo học chế tín chỉ trên phạm vi toàn quốc.
Song, đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa ban hành quy chế học sinh sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ, nên công tác quản lý sinh viên ở mỗi
Trường học áp dụng tín chỉ lại có một hướng đi khác nhau. Và cho đến nay, chưa
có nhà nghiên cứu nào có công trình nghiên cứu toàn diện về công tác quản lý sinh
viên trong đào tạo theo hệ học chế tín chỉ mà chỉ là những công trình nghiên cứu,
những bài viết, những sáng kiến kinh nghiệm được trích đăng tại các hội thảo do
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như Ban Liên lạc các Trường đại học và cao đẳng
Việt Nam (VUN) tổ chức [7], [35].
Một số bài báo, bài viết về tín chỉ và quản lý sinh viên theo học chế tín chỉ có
thể liệt kê:

9


- Trần Thanh Ái (2010), “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - Các nguyên lí,
thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học toàn quốc “Đổi mới phương
pháp giảng dạy đại học theo tín chỉ”. [1]
- Nguyễn Kim Dung (2005), “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế
giới và thực tế ở Việt Nam”, Kỷ yếu đào tạo theo tín chỉ do Trường Đại học
HUFLIT tổ chức năm 2005.[17]

- Nguyễn Tấn Hùng (2010), “Đào tạo tín chỉ ở nước ta hiện nay: Ưu điểm,
một số bất cập và biện pháp hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại
học Đà Nẵng.[20]
- Lâm Quang Thiệp (2006), “Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và
ở Việt Nam”.[20]
- Trường Đại học Hồng Đức (2012), Báo cáo sơ kết 4 năm đào tạo theo học
chế tín chỉ (2008- 2012).
- Lê Văn Trưởng (2007), Một số vấn đề về đào tạo theo học chế tín chỉ,(Sách
chuyên khảo).[28]
Tuỳ từng cấp độ nghiên cứu khác nhau, đây là những công trình khoa học có
giá trị lý luận và thực tiễn về công tác HSSV trong các trường đại học. Đó là một
số công trình khoa học nghiên cứu về học chế tín chỉ ở Việt Nam trong những năm
gần đây, có giá trị phổ biến kinh nghiệm, cung cấp thông tin phục vụ cho công cuộc
đổi mới phương thức đào tạo ở các nhà trường. Tuy nhiên, cho tới nay chưa có công
trình nào đặt vấn đề nghiên cứu về các giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ ở trường đại học.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Khái niệm quản lý được hình thành từ xa xưa, khi loài người xuất hiện sự hợp
tác, phân công lao động. Quản lý là các hoạt động do một hay nhiều người điều
phối hoạt động của người khác nhằm đạt mục tiêu đã định trước. Mác nói: "Tất cả

10


mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương
đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá
nhân... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc
thì cần phải nhạc trưởng".

Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hình thành công
việc qua nỗ lực của người khác. Có tác giả lại quan niệm: Quản lý là một quá trình
hoạt động có định hướng, có tổ chức dựa trên các thông tin về tình trạng của đối
tượng và môi Trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và
phát triển tới mục tiêu đã định [15], [22].
Hiện nay, quản lý được hiểu là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh
đạo) và kiểm tra.
Như vậy, có thể khái quát: quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn hoạt động của một nhóm (hay nhiều nhóm) xã hội cùng thực hiện những
nhiệm vụ và mục đích chung [18].
Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động nhằm
tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối
tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm
duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có ý thức, hợp qui luật của
chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau lên tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục
nhằm đảm bảo cho hệ thống Giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát triển,
mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng.
Nói cách khác: quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có chủ đích, có
kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên, học

11


sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà Trường nhằm
thực hiện có chất lượng mục tiêu giáo dục [33].
1.2.1.3. Quản lý nhà trường

Trước tiên để hiểu về khái niệm quản lý nhà trường ta hiều thế nào là khái
niệm nhà trường. Vậy, nhà trường là một thiết chế xã hội trong đó diễn ra quá trình
giáo dục. nhà trường là một bộ phận của cộng đồng xã hội và trong hệ thống giáo
dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở. Nói cách khác: Quản lý nhà trường là hệ thống
những tác động của chủ thể quản lý có chủ đích, có kế hoạch đến đối tượng quản lý
nhằm thực hiện tốt mục đích của chủ thể quản lý.
Giáo dục là quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách còn đào tạo là hướng
vào một nghề nhất định. Xuất phát từ đó trong trường phổ thông người ta hay nói
đến giáo dục còn trong các trường chuyên nghiệp người ta nói đến đào tạo [22].
+ Các thành tố đề tạo nên thà Trường gồm:
- Mục tiêu giáo dục, đào tạo.
- Nội dung giáo dục, đào tạo
- Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đào tạo.
- Lực lượng giáo dục, đào tạo (giảng viên, cán bộ - viên chức)
- Đối tượng giáo dục, đào tạo.
- Điều kiện giáo dục, đào tạo
- Điều kiện đào tạo.
- Quy chế, nội quy
- Bộ máy tổ chức quản lý.
- Môi Trường đào tạo.
+ Nội dung của quản lý nhà trường (công tác quản lý nhà trường thể hiện trên 2
lĩnh vực):
Lĩnh vực 1: Quản lý các mối quan hệ bên trong nhà trường:
- Quản lý quá trình giáo dục.
- Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị trường học.

12


- Quản lý hành chính, tài chính.

- Quản lý nhân sự (giảng viên, cán bộ, viên chức và học sinh, sinh viên)
Lĩnh vực 2: Quản lý các mối quan hệ giữa nhà trường với môi trường xã
hội:
- Quản lý về kinh tế: Nhà trường có thể khai thác các nguồn lực trong xã hội
để thu hút ngân sách địa phương để bổ sung kinh phí cho các hoạt động giáo dục đào tạo…
- Quản lý về kỹ thuật - công nghệ: Mọi thành tựu về khoa học và công nghệ
đều có ảnh hưởng đến nhà trường.
- Quan hệ chính trị - pháp luật
1.2.2. Quản lý sinh viên
Quản lý sinh viên là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ huy) hợp
quy luật của chủ thể quản lý (ở đây gồm có nhà trường, gia đình, xã hội, trong đó
vai trò nhà trường là quan trọng nhất) đến sinh viên trong và ngoài trường học làm
cho nhà trường vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được các mục tiêu đề ra.
Công tác quản lý sinh viên, dưới khía cạnh là những phương diện hoạt động
công ích của nhà trường nhằm quản lý, tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp sinh viên thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình học tập tại trường.
Công tác quản lý sinh viên bao gồm tất cả tiện ích do nhà trường cung cấp
nhằm tạo điều kiện cho sinh viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình từ khi
trúng tuyển vào trường cho đến khi ra trường; từ hoạt động học tập của sinh viên
cho đến hoạt động rèn luyện đạo đức, nhân cách, thể chất; từ việc sinh viên thực
hiện những quy định bắt buộc cho đến việc chủ động, tích cực thực hiện trong điều
kiện cho phép sinh viên lựa chọn, yêu cầu.
1.2.3.Tín chỉ, đào tạo theo học chế tín chỉ
1.2.3.1. Định nghĩa
Hiện nay có hàng trăm định nghĩa và cách hiểu khác nhau về tín chỉ. Có định
nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định lượng,

13



có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh viên, có định nghĩa lại nhấn
mạnh vào các mục tiêu của một chương trình học.
Theo từ điển Tiếng Việt “Tín chỉ có hai nghĩa: 1) Giấy đặc biệt dùng để viết
văn tự, văn khế… 2) Giấy chứng nhận kết quả hoàn thành môn học ở bậc đại học và
sau đại học (Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ [34, tr.994].
Quyết định số 31/2001/QĐ-BGD&ĐT về việc “Thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm
tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ”
(gọi tắt là Quy chế 31), tại Điều 2, mục 2.1: “Tín chỉ là đơn vị dùng để đo khối
lượng kiến thức đồng thời là đơn vị để đánh giá kết quả học tập của sinh viên dựa
trên số lượng tín chỉ đã tích lũy được” [30, tr.4].
Theo Jame Quann (1985): Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời
gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm:
thời gian trên lớp, thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc
khác đã được quy định ở thời khoá biểu, thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài... [30, tr.4].
Quy chế Học vụ (2005) của Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh tại Điều 3 ghi: Tín chỉ là đơn vị quy chuẩn dùng để lượng hoá khối lượng
kiến thức và khối lượng học tập giảng dạy trong quá trình đào tạo.
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn
học mà người học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua
các hình thức: (1) học tập trên lớp; (2) học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập
hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giáo viên) và (3) tự học ngoài
lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài v.v. Tín chỉ còn
được hiểu là khối lượng lao động của người học trong một khoảng thời gian nhất
định trong những điều kiện học tập tiêu chuẩn.
1.2.3.2. Học chế tín chỉ
Là phương thức đào tạo trong đó sinh viên chủ động lựa chọn học từng môn
học (tuân thủ theo một số ràng buộc được quy định trước) nhằm tích luỹ từng phần

14



và tiến tới hoàn tất toàn bộ chương trình đào tạo, được cấp văn bằng tốt nghiệp.
Trên cơ sở lượng hoá quy trình đào tạo thông qua khái niệm tín chỉ, học chế tín chỉ
tạo điều kiện tối đa để cá nhận hoá quy trình đào tạo, trao quyền cho sinh viên
trong việc đăng ký sắp xếp lịch học, việc tích luỹ các học phần, kể cả sắp xếp thời
gian học ở Trường, thời gian tốt nghiệp ra Trường. Về phía mình, người sinh viên
cần phát huy tính tích cực, chủ động để thích ứng với quy trình đào tạo này và để
đạt những kết quả tốt nhất trong việc học tập, rèn luyện [30].
Trên cơ sở các định nghĩa khác nhau về tín chỉ, chúng tôi nhận thấy định
nghĩa sau đây là toàn diện, bao hàm được cả 3 thành tố trên: “Tín chỉ học tập là
một đại lượng đo toàn bộ phần thời gian bắt buộc của một sinh viên bình thường
để học một môn cụ thể. Thời gian toàn phần bao gồm 3 thành tố: 1- Thời gian lên
lớp; 2- Thời gian ở phòng thí nghiệm; 3- Thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài” [35, tr.37].
1.2.3.3. Giờ tín chỉ
Giờ tín chỉ là một trong các giá trị sau đây: một tiết học lý thuyết và hai giờ
chuẩn bị cá nhân. Một tiết học được tính bằng 50 phút; hai tiết thực hành, thí nghiệm
hoặc thảo luận và một giờ chuẩn bị cá nhân; ba giờ tự học, tự nghiên cứu.
1.2.3.4. Hình thức tổ chức giờ tín chỉ
Gồm 3 hình thức tổ chức sau:
- Dạy, học trong lớp: thường là dạy, học giờ lý thuyết gồm nghe thuyết trình,
ghi bài giảng, làm và chữa bài tập, thảo luận và các hoạt động khác do giảng viên
yêu cầu.
- Dạy, học trong phòng thí nghiệm, hiện trường: làm thí nghiệm, thực hành,
thực tập, điền dã (gọi chung là dạy, học thực hành, thực tập).
- Tự học ngoài lớp, ngoài phòng thí nghiệm: tự học, tự nghiên cứu, các hoạt
động theo nhóm để hỗ trợ thảo luận, thực hành, thực tập ...
1.2.3.5. Phương thức đào tạo theo tín chỉ
- Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ là phương thức đào tạo linh hoạt

và mềm dẻo, trong đó sinh viên được chủ động lập kế hoạch và đăng ký học tập,
15


tích lũy từng phần kiến thức theo tiến độ phù hợp với năng lực và điều kiện của
bản thân và nhà trường nhằm hoàn tất chương trình đào tạo để được cấp bằng tốt
nghiệp.
- Mọi phương thức đào tạo đều lấy quá trình dạy-học làm trọng tâm. Trong
phương thức đào tạo truyền thống, vai trò của người dạy được coi trọng (dạy
học lấy người dạy làm trung tâm, người học là người tiếp nhận kiến thức thụ
động trong lớp học). Tuy nhiên, trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, vai trò
của người học được đặc biệt coi trọng (dạy học lấy người học làm trung tâm,
coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tạo điều kiện cho người học phát triển
tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành…). Đường hướng lấy người học
làm trung tâm được quán triệt từ khâu thiết kế chương trình, biên soạn nội dung
giảng dạy và sử dụng phương pháp giảng dạy nhằm hướng tới việc giảm bớt
tính hàn lâm và tăng cường việc rèn luyện kỹ năng thực hành (tăng số giờ thực
hành, thảo luận, tự học hoặc tự nghiên cứu tài liệu của sinh viên…). Điều này
giúp người học đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công việc sau khi ra
Trường.
- Phương pháp giảng dạy được thay đổi theo hướng giảm cường độ làm việc
của thầy (nhưng khối lượng kiến thức không giảm) và tăng cường độ làm việc của
trò. Phương pháp kiểm tra, thi cử, đánh giá được thay đổi theo hướng đánh giá quá
trình và đảm bảo tính khách quan. Ngoài những hình thức thi, kiểm tra truyền
thống như thi tự luận, vấn đáp... trong đào tạo theo tín chỉ còn áp dụng nhiều hình
thức thi cử khác giúp đánh giá được khả năng tự học hỏi, sự phát triển tư duy,
năng lực sáng tạo của người học như: viết tiểu luận, làm semina chuyên đề, giải
quyết tình huống...
- Dạy học trong đào tạo theo tín chỉ giảm bớt giờ lý thuyết trên lớp và tăng
cường giờ tự học, tăng cường tính chủ động cho người học, giúp người học phát

triển tư duy sáng tạo trong học tập, do vậy dạy học đòi hỏi phải có đủ điều kiện vật
chất tối thiểu như: đủ các thiết bị giảng dạy hiện đại (projecter, overhead, video,

16


các phương tiện nghe nhìn..), đủ phòng học, hội Trường, phòng thí nghiệm, phòng
đọc ở thư viện [16], [19].
- Hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp,
thực hành, và tự học. Hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa
giảng viên và người học (giảng viên giảng bài, hướng dẫn, người học nghe giảng,
thảo luận, làm bài tập… dưới sự hướng dẫn của giảng viên), hình thức thứ ba
không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và người học (giảng viên giao nội
dung tự học để người học tự nghiên cứu ở nhà, thư viện…). Ba hình thức tổ chức
dạy - học này tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực
hành và giờ tín chỉ tự học. Theo đó, một giờ tín chỉ lên lớp gồm 1 tiết (50 phút)
giảng viên giảng bài và 2 tiết sinh viên tự học; một giờ tín chỉ thực hành, thảo
luận gồm 2 tiết giảng viên hướng dẫn, điều khiển sinh viên thảo luận, thực
hành và 1 tiết sinh viên tự học; một giờ tín chỉ tự học gồm 3 tiết sinh viên tự
học, tự thực hành theo những nội dung giảng viên giao và những gì sinh viên
thấy cần phải nghiên cứu hoặc thực hành thêm [16], [30].
- Người giảng viên khi thực hiện học chế tín chỉ có ít nhất 10 nhiệm vụ
như sau: Giải thích những vấn đề mà giảng viên cho là người học sẽ gặp khó khăn
khi người học tự nghiên cứu giáo trình; nhấn mạnh những vấn đề mà người học
cần phải chú ý trong giáo trình, tài liệu tham khảo; hướng dẫn người học thảo luận
những vấn đề trong những tài liệu mà người học đã nghiên cứu; theo dõi các ý
kiến thảo luận của sinh viên, qua đó uốn nắn, giải thích những nội dung sinh viên
hiểu chưa đúng; giới thiệu những nhà khoa học hoặc những vấn đề học thuật đang
được tranh luận, những vấn đề cần được nghiên cứu liên quan đến ngành học;
thông qua giờ lên lớp và thảo luận, đánh giá thái độ và kết quả học tập trên lớp và

tự học ở nhà của sinh viên cũng như kiến thức mà sinh viên thu nhận được, đồng
thời công bố cho sinh viên biết ý kiến đánh giá của mình; tổ chức kiểm tra ngắn,
đột xuất với cả lớp hoặc với một số sinh viên bằng hình thức nói hoặc viết để thúc
đẩy sinh viên thường xuyên học tập; trả bài kiểm tra, bài tập nghiên cứu của sinh
17


viên và có nhận xét về các bài làm đó; hướng dẫn sinh viên những điều cần chú ý
khi làm bài tập, thực hành; những nội dung và hình thức khác, tùy theo từng buổi
lên lớp mà GV lựa chọn các công việc phù hợp trong các nhiệm vụ được nêu trên
[23], [24].
Tóm lại: Đặc điểm cơ bản của giảng dạy theo tín chỉ là tổ chức các nội dung
giảng dạy theo hướng phát huy tính linh hoạt, chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo
của người học. Để thực hiện được mục tiêu này, về hình thức, giảng dạy theo tín chỉ
sẽ giảm đáng kể giờ lên lớp lý thuyết và tăng số giờ thảo luận, thực hành, thí
nghiệm. Nội dung tự học tăng gấp đôi so với đào tạo theo niên chế học phần. Điều
này không có nghĩa là đào tạo theo tín chỉ phải cắt xén nội dung của chương trình
đào tạo, mà thực chất là chuyển việc thực hiện các nội dung của chương trình đào
tạo sang hướng tích cực, chủ động về phía người học. Do vậy, triển khai đào tạo
theo tín chỉ đòi hỏi người dạy phải đổi mới phương pháp dạy học, từ cách thầy
truyền thụ tri thức, trò nghe giảng, ghi chép sang tích cực hóa quá trình dạy học,
trong đó giảng viên không truyền thụ đầy đủ các kiến thức đã được trình bày trong
giáo trình, tài liệu tham khảo mà chủ yếu thực hiện vai trò cố vấn, hướng dẫn tạo
điều kiện cho người học tiếp thu và khám phá tiếp kiến thức, hình thành kỹ năng
thực hành và nâng cao hứng thú học tập, lòng yêu khoa học. Người học phải tích
cực, chủ động học tập dưới sự hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá của giảng viên,
nghe giảng, thảo luận trên lớp, tự học, tự nghiên cứu, làm bài tập… theo các yêu
cầu mà giảng viên đã nêu trong đề cương chi tiết môn học.
1.2.4. Giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường
đại học

1.2.4.1. Giải pháp Theo Từ điển tiếng Việt thì “Giải pháp là phương pháp giải
quyết vấn đề cụ thể nào đó”.
1.2.4.2. Giải pháp quản lý sinh viên

18


Giải pháp quản lý là phương pháp quản lý một loại đối tượng hay một lĩnh
vực nào đó.
Giải pháp quản lý sinh viên là cách thức tác động hướng vào việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác quản lý sinh viên nhằm thực hiện được mục đích,
yêu cầu của nhà trường.
1.3. Một số vấn đề về công tác quản lý sinh viên trong các Trường đại học
1.3.1. Mục đích, yêu cầu công tác quản viên lý sinh viên
a. Mục đích
Công tác quản lý sinh viên là một trong những công tác trọng tâm của hiệu
trưởng nhà trường, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [9].
Công tác quản lý sinh viên phải hướng vào thực hiện mục tiêu đào tạo
chung của nhà trường là hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân;
đào tạo những người lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái,
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, có khả năng góp phần làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước tiến kịp
thời đại [9].
b. Yêu cầu của công tác quản lý sinh viên
- Sinh viên là nhân vật trung tâm trong nhà trường, được nhà trường bảo đảm
điều kiện thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong quá trình học tập và rèn luyện

tại trường [3].
- Công tác quản lý phải thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các quy chế, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

19


×