Chương I: Lí luận chung về Kinh tế thị trường.
I.1 Quan niệm về kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường:
- Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường.
- Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường khác nhau về trình độ phát triển
nhưng cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hóa phát
triển qua ba giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản
xuất là: kinh tế hang hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị
trường hiện đại. Kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hóa vận động
theo cơ chế thị trường.
Trong thực tế hiện nay không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo
cũng như không có một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền
kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp, có thể giúp phát
huy ưu điểm và khắc phục một số nhược điểm của kinh tế thị trường, tùy mỗi
nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít.
I.2. Ưu, nhược điểm của Kinh tế thị trường:
- Ưu điểm:
Ưu điểm của kinh tế thị trường là bốn vấn đề: sản xuất cái gì? ai sản
xuất? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?, được giải quyết rất hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì
giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản
xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn,
thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do
đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả.
Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận
thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào
thải.
- Nhược điểm:
Nhược điểm của kinh tế thị trường thể hiện ở những thất bại thị trường.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình
đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc
phân bổ nguồn lực không hoàn toàn hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả
có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc
điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và
tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát. Trong
thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như
không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc
Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu
tố thị trường nhiều hay ít.Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa
nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương
mại giữa hai nước.
Nền kinh tế thị trường không phải không có những bất công và lạm
dụng, nhiều khi còn trầm trọng là đằng khác, nhưng có một điều không thể
phủ nhận được là doanh nghiệp tư nhân hiện đại và ý chí kinh doanh, cùng
với nền dân chủ chính trị, mang lại triển vọng tốt đẹp nhất cho việc giữ gìn sự
tự do và mở ra những con đường lớn nhất cho phát triển kinh tế và đem lại sự
thịnh vượng cho tất cả mọi người
I.3. Quan niệm về “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”:
Khi đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa", hệ quả kèm theo là gây cho những người quan tâm đến vấn đề này
cảm giác nhận thức rằng kinh tế thị trường là sản phẩm tự nhiên, đặc thù của
nền kinh tế dưới chế độ tư bản chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội luôn gắn với
kinh tế kế hoạch, chỉ huy và bao cấp; rằng sau những thất bại của kinh tế kế
hoạch, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay
đang "vay mượn" mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa để
"lắp ráp" thêm với nội dung "theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Thật ra, không phải đợi đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, mô hình kinh tế
thị trường mới xuất hiện . Kinh tế thị trường đã xuất hiện từ khi loài người
biết đến sản xuất hàng hóa, có nghĩa là khi các hộ gia đình, các vùng, miền đã
biết phát huy lợi ích của chuyên môn hóa (hoàn toàn tự nhiên, tự phát như bản
chất và qui luật tất yếu của xã hội loài người). Kinh tế thị trường đã có từ chế
độ phong kiến (thậm chí kể cả trước đó), nhưng tuyệt nhiên không phải do
nhà nước phong kiến chủ trương và áp đặt.
Như vậy, kinh tế thị trường là sản phẩm tự nhiên, tất yếu của nền sản
xuất xã hội khi đã thoát khỏi trình độ tự cung tự cấp, bất kể ở thể chế chính trị
nào: phong kiến, tư bản hay xã hội chủ nghĩa.
Khi phác thảo về tương lai của xã hội loài người, Mác và Ăngghen
chưa thể cụ thể hóa các nội dung chi tiết, cụ thể cho từng bước đi, giai đoạn.
Những người theo chủ nghĩa Mác ở các quốc gia do đảng cộng sản (hay dân
chủ xã hội, công nhân thống nhất, lao động như Đức, Ba Lan, Triều Tiên...)
cầm quyền, trong suốt một thời kỳ dài, chịu ảnh hưởng của mô hình Liên Xô,
ngộ nhận rằng đã theo con đường xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải áp dụng
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Thậm chí, không ít người trong giới lãnh đạo ở các nước này quan
niệm rằng ở các nước tư bản chủ nghĩa thì nền kinh tế vận động theo thị
trường một cách tuyệt đối, không hề có vấn đề kế hoạch được đặt ra (nước
Pháp có Bộ Quốc gia kế hoạch). Đó là một nhận thức sai lệch hoàn toàn. Hệ
thống luật lệ, quota, giấy phép... ở các nước tư bản phát triển cũng chằng chịt
lắm.
Theo thiển ý, điểm khác biệt cơ bản giữa một quốc gia xã hội chủ nghĩa
và một quốc gia tư bản chủ nghĩa là vấn đề thiết chế chính trị.
Thời gian qua, trước những hiện tượng tiêu cực nổi cộm như tham
nhũng, buôn lậu, hư hỏng của cán bộ có chức quyền, tệ nạn xã hội..., nhiều
người đã rất phiến diện khi vội vã qui chụp cho kinh tế thị trường là nguyên
nhân. Đó là một thái độ hoàn toàn không khoa học, không công bằng chút
nào. Kinh tế thị trường là một khái niệm của khoa học xã hội nghiên cứu về
kinh tế.
Quản lý nhà nước và pháp luật lại là một phạm trù khác. Chỉ cần liên hệ
đến Singapore, Hà Lan..., chúng ta phải thừa nhận rằng kinh tế thị trường ở đó
phát triển từ rất sớm và đến nay đã đạt mức khá cao, nhưng nạn tham nhũng
đâu có tràn lan như ở nhiều quốc gia có nền kinh tế theo khuynh hướng kế
hoạch và tập trung hay mới chập chững bước vào chủ trương kinh tế thị
trường.
Vì vậy, để tránh những ngộ nhận thiếu khoa học, nên chăng trong lĩnh
vực kinh tế chỉ cần đề ra chủ trương xây dựng, củng cố và hoàn thiện từng
bước nền kinh tế thị trường (trong đó không thể thiếu vai trò của nhà nước
trong việc khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường). Rồi
trong vấn đề chính trị - xã hội, mới đề cập đến xây dựng thể chế xã hội chủ
nghĩa. Lẽ đương nhiên, cần nêu được những đặc trưng cơ bản của thể chế
chính trị xã hội chủ nghĩa mà đất nước cần hướng tới.
Trên thực tiễn đổi mới 20 năm qua ở Việt Nam có thể cho phép chúng ta vạch
ra hướng đi và các bước đi tối ưu cho đất nước...
I.4. Sự tồn tại kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách
quan:
Ở nước ta hiện nay có đầy đủ điều kiện tồn tại, phát triển kinh tế thị
trường, đó là:
-Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hang hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa
phương cũng ngày càng phát triển, Sự phát triển của phân công lao động được
thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm
đưa ra trao đổi trên thị trường.
-Tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân),
sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó là thành phần kinh
tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước; và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy cũng tồn
tại nhiều chủ thể kinh tế đối lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ
chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hang hóa- tiền tệ.
Như vậy, kinh tế thị trường là bước phát triển tất yếu.[3. trg 293]
Chương II: Các giai đoạn hình thành kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
II.1. Giai đoạn bước đầu hình thành những yếu tố cơ bản của kinh
tế hàng hóa:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay, căn cứ vào 3 chức
năng cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất
cho ai? thì có 2 hình thức tổ chức kinh tế xã hội là sản xuất tự cung tự cấp
(kinh tế tự nhiên) và sản xuất hàng hoá (kinh tế hàng hoá).
* Kinh tế tự nhiên: là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm được sản
xuất ra để người sản xuất ra nó tiêu dùng.
Các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản có đặc trưng chung là sản
xuất nhỏ mang tính tự cung, tự cấp chiếm ưu thế. Đặc điểm chủ yếu của sản
xuất tự cung, tư cấp là:
-Sở hũư tư nhân nhỏ, chủ yếu là đất đai, sản xuất nông nghiệp độc canh
lương thực.
-Sức lao động và tư liệu sản xuất được kết hợp ở cùng một chủ thể,
chưa có sự phân công lao động và hoạt động trao đổi.
-Công cụ lao động lạc hậu, dựa trên lao động thủ công với kinh nghiệm
cổ truyền, chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, năng suất lao động thấp.
-Quy mô sản xuất nhỏ, manh mún chủ yếu là hướng vào giá trị sử dụng
để thoả mãn những nhu cầu hiện tại; tỉ suất hàng hoá thấp vì vậy thị trường
kém phát triển, mang tính cát cứ, địa phương.
* Kinh tế hàng hoá: là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà sản phẩm sản
xuất ra để trao đổi, mua bán
Quá trình phát triển dẫn đến tất yếu là sản xuất tự cung tự cấp chuyển hoá
thành sản xuất hàng hoá. Lúc đầu là sản xuất hàng hoá giản đơn sau đó
chuyển hoá thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiện đại hay còn gọi là kinh
tế thị trường (bao gồm: kinh tế thị trường cổ điển và kinh tế thị trường hiện
đại) . Sản xuất tự cung tự cấp chuyển hoá thành sản xuất hàng hoá giản đơn
và kinh tế thị trường, là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, cái cũ sinh ra cái
mới là một quá trình kinh tế- xã hội khách quan.[3. trg 50]
- Hai điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
1. Điều kiện cần: là phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lực lượng lao động xã hội thành
những ngành, những nghề chuyên môn hoá khác nhau, sản xuất những sản
phẩm khác nhau.
Do phân công lao động xã hội, dẫn đến chuyên môn hoá, mỗi người chỉ sản
xuất một hoặc vài thứ sản phẩm hay chi tiết của sản phẩm. Mặt khác do sự
hạn chế của con người về sức khỏe, thời gian, trình độ… nên không thể làm
được tất cả sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của mình, do
đó tất yếu cần có sự trao đổi sản phẩm lẫn nhau giữa những người sản xuất, vì
thế sản phẩm mang hình thái là hàng hoá. Phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất liên hệ và phụ thuộc vào nhau, nó là cơ sở của kinh tế
hàng hoá.
2. Điều kiện đủ: là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những
người sản xuất
Sự tách biệt này là do sự tồn tại của các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất mà cội nguồn của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất qui định.
Quá trình sản xuất là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất. Chính sự
tồn tại những quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nên những chủ
thể kinh tế phải tự quyết định sản xuất cái gì; như thế nào và cho ai, cho nên
lao động của người sản xuất mang tính chất là lao động tư nhân, sản xuất và
tái sản xuất giữa họ tách biệt nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, các chủ
thể kinh tế muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau họ phải thông qua trao đổi,
mua bán.
Đó là hai điều kiện khách quan cần và đủ để kinh tế hàng hoá ra đời, tồn
tại và phát triển.[3. trg 51]
- Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cung tự cấp:
A. Sản xuất hàng hoá là sản xuất cho người khác, cho xã hội, sản xuất
để bán vì mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển. Còn kinh tế tự nhiên, sản xuất với mục đích sản xuất
ra những giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản
xuất, nên không tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
B. Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, tạo
ra tình chuyên môn hóa cao là cơ sở nâng cao năng suất lao động và tạo điều
kiện cải tiến công cụ lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngược lại, kinh tế tự nhiên khép kín, cản trở phân công lao động xã hội.
C. Sản xuất hàng hoá với đặc trưng cơ bản là cạnh tranh vì lợi nhuận do
đó nó bình tuyển, sàng lọc tự nhiên yếu tố người và yếu tố vật chất của sản
xuất, nghĩa là nó kích thích quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển.
Trong khi đó, kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, quy mô nhỏ, chủ yếu dực vào
nguồn lực sẵn có của tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên không
có cạnh tranh, không tạo ra động lực mạnh mẽ phát triển khoa học công nghệ
để phát triển kinh tế có hiệu quả.
D. Sản xuất hàng hoá với năng suất lao động cao, chất lượng hàng hoá
tốt và khối lượng ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng và phong phú làm cho
thị trường mở rộng, giao lưu kinh tế- xã hội giữa các vùng, các miền, các địa
phương và quốc tế phát triển, tạo điều kiện thoả mãn các nhu cầu vật chất,
tinh thần ngày càng cao cũng như sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi
thành viên trong xã hội. Ngược lại, với kinh tế tự nhiên, sản xuất kém phát
triển, sản phẩm không đủ tiêu dùng vì thế đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động thấp.
Tuy nhiên gằn liền với quá trình sản xuất kinh tế hàng hoá là vô số những tiêu
cực cả trong sản xuất và trong đời sống xã hội( vd: lạm phát, khủng hoảng,
thất nghiệp…) [3. trg 52]
II.2. Giai đoạn mở rộng các quan hệ hang hóa- tiền tệ:
Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ:
Trong lịch sử, lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ, chẳng hạn như
mai rùa, vỏ sò…khi loài người khai thác được kim loại, thì kim loại đóng vai
trò tiền tệ, cuối cùng cố định ở vàng và bạc. Sở dĩ chọn vàng và bạc làm tiền
tệ vì với một trọng lượng nhỏ nhưng giá trị lớn, do thời gian khai thác ra vàng
và bạc dài; hơn nữa do thuộc tính lý học và hoá học của chúng(ít bị hao mòn,
dễ dát mỏng, chia nhỏ).
Tiền tệ xuất hiện thì thế giới hàng hoá phân thành hai cực: một cực là
những hàng hoá thông thường đại biểu cho những giá trị sử dụng; cực khác là
hàn ghoá đóng vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị. Tiền tệ xuất hiện đánh dầu
đỉnh cao mà văn minh loài người đạt được trong sự tiến hoà của mình; đồng
thời, sự sùng bái hàng hoá được đẩy lên đỉnh cao hơn đó là sự sùng bái tiền tệ.
Trong lưu thông, tiền vàng và bạc tỏ ra không thuận tiện, loài người thay bằng
tiền giấy. Tiền giấy không có giá trị( vì chi phí in ra tiền giấy với một mệnh
giá nhất định mà nó đại biểu cho vàng coi như là rất nhỏ); tiền giấy chỉ là đại
biểu, phù hiệu, kí hiệu của giá trị, là khế ước, qui định của xã hội. Để kiềm
chế lạm phát gắn liền với tiền giấy, con người qui định những loại giấy tờ có
giá trị như: tiền, séc, thẻ tín dụng, trái phiếu, cổ phiếu…
Từ phân tích trên,tiền tệ đươc định nghĩa như sau: tiền tệ là một hàng
hoá đặc biệt, nó được tách ra khỏi thế giới hàng hóa đóng vai trò là vật ngang
giá chung trong trao đổi; tiền tệ đại biểu cho của cải vật chất của xã hội; nó
thể hiện thời gian lao động xã hội cần thiết; và biểu hiện quan hệ sản xuất xã
hội.
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt vì nó cũng có hai thuộc tính: giá trị và
giá trị sử dụng. Giá trị của tiền tệ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết
sản xuất ra vàng( bạc) quyết định. Giá trị sử dụng của tiền tệ làm môi giới
trong mua bán, và làm chức năng tư bản. Là hàng hoá, tiền tệ cũng có người
mua, người bán, cũng có giá cả( lợi tức) giá cả của tiền tệ cũng lên xuống
xoay quanh quan hệ cung cầu. Là hàng hoá đặc biệt và tiền tệ làm vật ngang
giá chung. [3. trg 63]
Tiền tệ có 5 chức năng cơ bản: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới.
Lưu thông tiền tệ xuất hiện dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hoá. Ở mỗi thời
kì nhất định, lưu thông hàng hoá bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần thiết
cho lưu thông. Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định bởi qui
luật chung của lưu thông tiền tệ. Qui luật này qui định: lượng tiền cần thiết
cho lưu thông luôn tỉ lệ thuận với tổng giá cả của khối lượng hàng hoá dịch
vụ đưa vào lưu thông và tỉ lệ nghịch với số vòng lưu thông của đơn vị tiền tệ.
Nếu vi phạm qui luật này sẽ dẫn tới hậu quả hoặc gây ra tình trạng lạm phát,
hoặc thiết hụt tiền mặt trong lưu thông. [3. trg 73]
II.3. Quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN:
II.3.1. Bối cảnh của sự chuyển đổi: [2. trg 242]
- Trên thế giới:
Hiện nay khối các quốc gia trên thế giới đang thực hiện quá trình chuyển
đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung đến kinh tế thị trường có thể được chia
ra làm hai nhóm có một vài điểm chủ yếu khác nhau: Nga và các quốc gia
Đông Âu, và các quốc gia Châu Á. Nói một cách khác, cùng một sự chuyển
đổi trên đường lối vận dụng chiến lược kinh tế có hai phương cách, phưong
cách Đông Âu và phương cách Châu Á. Cả hai nhóm quốc gia này chuyển đổi
qua nền kinh tế thị trường vì hai lí do sau:
+ Nhìn một cách khách quan, trong các thập niên 70 và 80 có sự
cách biệt về tốc độ phát triển giữa các quốc gia theo kinh tế thị trường và các
quốc gia theo kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
+ Ở các quốc gia theo kinh tế kế hoạch hoá tập trung dần dần
hiện rõ nhiều yếu tố cản trở trong hệ thống quản lí.
Liên Xô tranh đua từng bước một với Hoa Kì trên phương diện quân sự
và nghiên cứu vũ trụ nhưng về kinh tế thì không dấu được sự châm trễ so với
không những Hoa Kì mà với cả các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản. Và trong
khu vực các quốc gia đang phát triển, khoảng cách trên mức thu nhập đầu
người giữa các quốc gia theo kinh tế thị trường như Nam Triều Tiên, Đài
Loan, Xin-ga-po, Hồng Công, Mec-xi-co và Thái Lan và các quốc gia theo
đường lối kế hoạch hoá tập trung ngày càng lớn. Trong hầu hết các quốc gia
theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, không những có sự đình trệ về sản
xuất hàng hoá mà còn có sự bất cân bằng trầm trọng trên ngân sách nhà nước
và mậu dịch quốc tế. Các quốc gia này bắt đầu ý thức được rằng rất khó duy
trì chế độ quản lí giá hàng hoá, dịch vụ và hình thức xí nghiệp quốc doanh.
Như chúng ta đã biết đường lối Đông Âu ở đây chỉ tình trạng xảy ra ở
các quốc qia như Liên Xô, Balan và Rumani, trong đó cải cách tiến hành một
cách đột ngột và trên hầu hết phương diện, kinh tế và chính trị. So sánh với
các quốc gia này, các chương trình cải cách xúc tiến ở các quốc gia Châu Á
như Trung Quốc và Việt Nam tiến hành từ từ và giới hạn trong các hoạt động
kinh tế. Hiển nhiên mỗi quốc gia có đặc thù riêng về xã hội, lịch sử và chính
trị nên phạm vi biện pháp cải cách được lựa chọn phải khác nhau. Vì vậy rất
khó mà đưa đánh giá toàn diện cho hai đường lối thị trường này. Nhưng nhìn
vào các chỉ số kinh tế như mức tăng của GDP và thay đổi tỉ lệ lạm phát,
chúng ta thấy rõ ràng, cho đến giờ đường lối Châu Á mang đến kết quả tốt
hơn. Khác nhau về hiệu quả trên phương diện kinh tế quan sát được giữa các
quốc gia Đông Âu và các quốc gia Châu Á có thể được xem như khởi nguồn
từ các lí do sau:
+ Cải cách đột ngột về mặt chính trị ở các quốc gia Đông Âu gây
hỗn loạn trong môi trường chính trị và xã hội, làm cản trở các hoạt động kinh
tế.
+ Trong một thời gian ngắn không thể tổ chức được các đơn vị
sản xuất và quản lí thay thế được các tổ chức chính trị hiện hành và các xí
nghiệp quốc doanh.
Vì các lí do trên, các quốc gia Đông Âu như Nga và Balan trong các
năm đầu cải cách luôn ở trong tình trạng đấu tranh liên tục về chính trị, và gây
ra đình trệ trầm trọng trong các hoạt động kinh tế. So với tình trạng bi thảm ở
Đông Âu này, Trung Quốc và Việt Nam trình bày bức tranh rất rực rỡ.
II.3.2. Quá trình đổi mới ở Việt Nam: [2. trg 244]
Song song với Áo Dài_ danh từ dùng để gọi y phục của người phụ nữ Việt
Nam, từ ngữ Đổi mới đã thành một từ ngữ quốc tế được dùng trong cả tiếng
Anh, tiếng Nhật, và nhiều tiếng nước nước ngoài khác trên thế giới. Dưới đây
chúng ta sẽ tóm tắt sơ lược lại nội dung và thành quả của quá trình này trong
thời gian 1986- 1997, và cố tìm hiểu một vài khía cạnh cần cải thiện thêm
trong tương lai.
a. Bối cảnh đưa đến quá trình đổi mới:
Sau khi dành lại độc lập từ chế độ thuộc địa Pháp, từ năm 1954 miền
Bắc Việt Nam bắt đầu áp dụng chính sách kinh tế theo đường lối kế hoạch
hoá tập trung. Chính sách này bắt đầu ứng dụng cho cả miền Nam sau khi Sài
Gòn được giải phóng năm 1975. Chính sách kinh tế mà chuyên viên nước
ngoài thường gọi là Mô hình Phát triển của Miền Bắc Việt Nam gồm các
thành phần chủ yếu như cải cách ruộng đất theo đường lối XHCN, thúc đẩy
hợp tác xã kinh doanh quy mô lớn trong nông nghiệp, quốc doanh hoá công
nghiệp và công nghiệp hoá thiên về ngành công nghiệp nặng…Đường lối phát
triển này tiến bộ rất nhanh trên mặt XHCN hoá, tức là thay đổi hình thức kinh
doanh và quản lí thị trường, nhưng không mang đến thành quả tốt trên
phương diện sản xuất.
Trong khoảng 1954- 1975 xảy ra biến chuyển lớn trong hình thái sở
hữu và kinh doanh ở miền Bắc Việt Nam. Trong nông nghiệp và nông thôn,
chỉ trong vòng 2 năm khoảng 810 ngàn mẫu( mẫu tây = 1 hecta) đất đã được
chuyển từ tay địa chủ đến khoảng 2 triệu tá điền và người lao động. Và như
trình bày trong bảng 1, vận động thành lập hợp tác xã đã tiến hành rất nhanh.
Vào thời điểm Đất nước thống nhất năm 1975, có thể nói rằng cả nông thôn
miền Bắc đã được xếp vào hợp tác xã. Nhưng trên phương diện sản xuất,
nông nghiệp trong thời gian này không để lại những chỉ số đánh khuyến
khích. Sản lượng nông nghiệp tăng 2% trong thời gian
1960- 1965, xuống đến 0.4% trong thời gian 1965- 1970, và 1.4 % trong thời
gian 1970- 1975( xem bảng 2). Sự đình trệ trên mặt sản xuất nông nghiệp này
làm giảm trầm trọng mức cung cấp lương thực đầu ngườiẩơ miền Bắc xuống
từ 300 kg/ người ( 1985) đến 204 kg/ người ( 1975). Trong công nghiệp, công
hữu hoá được tiến hành qua 3 giai đoạn: tư bản nhà nước, ( xí nghiệp tư nhân
cung cấp vật tư cho chính phủ), công tư hợp doanh và quốc doanh. Giai đoạn
1 bắt đầu khoảng năm 1958 và giai đoạn 3 kết thúc khoảng năm 1960. Phần
lớn vốn đầu tư lớn chính phủ đã được đưa vào nền công nghiệp, sản lượng
công nghiệp gia tăng trên mức tăng tương đối cao so với nông nghiệp( xem
bảng 2).
Sau khi Đất nước thống nhất, chính phủ thúc đẩy cùng một chính sách
xã hội hoá ở miền Nam. Nhưng nói chung, chính sách cải cách ruộng đất và
vận động hợp tác xã tiến hành với tốc độ tương đối chậm, nhất là ở khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng của hai ngành nông và công nghiệp
toàn quốc cũng không đạt được mức tăng hàng năm cao trong thời gian 19751985( xem bảng 2). Thêm vào sự đình trệ trong lượng sản xuất, nạn lạm phát
và thiếu hụt ngân sách nhà nước ngày càng trở nên trầm trọng.Tỉ lệ lạm phát
đạt 65% năm 1984, 95% năm 1985, và 480% năm1986. Thiếu hụt trong ngân
sách nhà nước tăng gấp hai trong vòng ba năm 1983- 1986 và đạt đến 16%
GDP năm 1986.
Một cách khách quan, chính sách kinh tế trong thời gian 1954- 1985 có
những điểm tích cực và tiêu cực như sau: Về điểm tích cực chúng ta có thể kể
những cải cách xã hội như dẹp bỏ được chế độ địa chủ và tạo trong quần
chúng một môi trường xã hội làm nền tảng cho sự tiến bộ kinh tế về sau.
Cũng cần nhấn mạnh những vốn đầu tư lớn mà chính phủ đã bỏ ra cho công
cuộc phổ cập giáo dục và y tế trong việc cải thiện cơ cấu hạ tầng như nhà máy
phát điện, cơ sở cung cấp nước tưới ruộng…Bảng 3 trình bày một vài chỉ số
xã hội như tuổi thọ, tỉ lệ tử vong trẻ em, tỉ lệ người mù chữ và tỉ lệ học sinh
trung học của Việt Nam và một vài quốc gia trên thế giới. Có thể nhận xét
được rằng Việt Nam có chỉ số xã hội không những tốt hơn các quốc gia có
cùng mức thu nhập đầu người như Ban-gia-dét và Ma-da-gát-ca mà lại còn
ngang hàng hoặc tốt hơn các quốc gia có mức thu nhập cao hơn Việt Nam
như Thailan, Philippin, Indonexia. Những cải cách cơ sở hạ tầng xã hội này
giúp rất nhiều cho việc nâng cao mức tăng hàng năm GDP trong thời Đổi
mới.
Tác dụng của chính sách trên phương diện sản xuất có hai mặt tích cực
và tiêu cực tuỳ theo thời kì. Trong thời kì chiến tranh 1965- 1975 chế độ cấp
phát hàng hoá và hình thức xí nghiệp quốc doanh tạo ra một trật tự dựa trên
đó tài sản quốc gia được quy tập một cách có hệ thống, nhất là trên phương
diên sản xuất công nghiệp, vốn trong tình trạng hỗn loạn trước đây. Nhưng
sau năm 1975, chính sách quản lí kinh tế theo hình thức kế hoạch hoá tập
trung bộc lộ rõ các nét tiêu cực như năng suất thấp trong sản xuất, đình trệ về
phân phối tài nguyên và hàng hoá, làm tăng tỉ lệ lạm phát và gây khủng hoảng
tài chính quốc gia.
b. Nội dung của Đổi mới:
Nhận thức được tình trạng kinh tế ở trên, vào khoảng năm 1986, Chính phủ
Việt Nam công bố một chính sách kinh tế mới với tên Đổi mới, thay đổi hẳn
dường lối quản lí kinh tế quốc gia. Cấu tạo tư tưởng chủ yếu của chính sách
đổi mới là:
* Thay vì dựa vào kế hoạch hoá tập trung, dùng tác dụng thị trường trong
sự điều chỉnh phân phối hàng hoá và dịch vụ
* Thừa nhận các hình thức ngoài quốc doanh và hợp tác xã như kinh
doanh trên hình thức cá nhân, gia d8ình và đoàn thể tư nhân
* Hợp lí hoá xí nghiệp quốc doanh bằng cách thiết lập hệ thống kế toán
độc lập cho mỗi xí nghiệp và dần dần giảm bảo trợ tài chính và quản lí từ
trung ương.
* Điều chỉnh lại hệ thống ngân hàng và các tồ chức chính phủ khác để phù
hợp với các chức năng mới trong hệ thống kinh tế thị trường.
II.3.3. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường: [3. trg 294]
- Do cạnh tranh, những người sản xuất hang hóa phải cải tiến kĩ thuật,
áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối
thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh.
Quá trình đó đã nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
-Kinh tế hang hóa kích thích tính năng động, sang tạo của chủ thể kinh
tế; kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra khối lượng
hang hóa và dịch vụ đa dạng phong phú.
-Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hang hóa, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công
xã hội và chuyên môn hóa sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế
của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngoài.
-Sự phát triển của kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, thúc đẩy sản xuất lớn có tính xã hội hóa cao; bình tuyển được
những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ quản lý có trình độ,
lao động lành nghề dáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bước dầu khai thác
được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của
nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần vào việc bảo đảm
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
II.3.4.Một số biểu hiện chệch hướng XHCN trong thực thi kinh tế thị
trường ở nước ta: [1. trg 359]
Trước hết cần khẳng định nền kinh tế thị trường nước ta đã đạt được
thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cái
thiện, hội nhập kinh tế quốc tế tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả, các
yếu tố thị trường đang hình thành đồng bộ và tiếp tục phát huy tác dụng. Tuy
vậy, trong quá trình vận hành kinh tế thị trường, ta đã phạm phải nhiều khuyết
điểm, lệch lạc, dẫn đến chệch hướng XHCN ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác,
ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu không kịp thới khắc phục sẽ làm yếu
Đảng, làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ, đưa đất nước đi
chệch hướng XHCN.
a. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và kinh tế thị trường TBCN
giống nhau ở cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhưng giữa chúng có sự
khác nhau về chất, kinh tế thị trường TBCN do thành phần kinh tế tư
bản tư nhân giữ vai trò chủ đạo; trái lại, kinh tế thị trường định hướng
XHCN do thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng. Nhưng
thực tế hiện nay cả hai thành phần này đều không đảm nhiệm tốt vai trò
của mình. Nhiều doanh nghiệp nhà nước quản lí yếu kém, làm ăn thua
lỗ triền miên, ỷ lại nhà nước, sợ chuyển sang công ty cổ phần…Các
hợp tác xã năng lực nội tại hạn chế, cán bộ quản lí phần lớn chưa được
đào tạo, lợi ích đem lại cho xã viên chưa nhiều, số hợp tác xã hoạt động
có hiệu quả còn ít, hàng năm chỉ đóng góp khoảng 8% trong GDP…
Trong khi đó doanh nghiệp tư nhân “thật” cũng như doanh nghiệp tư
nhân “giả” mọc ra như “nấm” ở khắp mọi miền, nhiều đến nỗi cơ quan
nhà nước không biết được doanh nghiệp đó ở đâu và hoạt động như thế
nào?
Ta không sợ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, thậm chí còn
khuyến khích nó để làm lợi cho quốc kế dân sinh. Nhưng để cho kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể rơi vào tình trạng yếu kém kéo dài, đó có
phải là biểu hiện chệch hướng XHCN.
b. Cái trục xuyên suốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không
phải là kinh tế- kĩ thuật như trong kinh tế thị trường TBCN mà là kinh
tế- xã hội trên nền tảng công nghệ mới. Điều đó có nghĩa là vấn đề xã
hội được đặt ngang hàng vấn đề kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hoá và giáo dục, phát huy nguồn lực con người. Nhưng
thực tế hiện nay thì sao? Nhiều ý kiến nhận xét rằng “kinh tế có tăng
trưởng nhưng xã hội bị xuống cấp” không phải là không có cơ sở. Càng
đi vào kinh tế thị trường thì tội phạm, ma tuý, mại dâm càng tăng; tham
nhũng, lãng phí, quan liêu không giảm, số người chết và bị thương tật
vì tai nạn giao thông càng nhiều…Đó có phải là biểu hiện chệch hướng
XHCN?
c. Kinh tế thị trường TBCN vì mục đích tối cao là lợi nhuận nên không
quan tâm đầy đủ đến bảo vệ môi trường sinh thái. Việc chính phủ Mỹ
không kí hiệp ước giảm khí thải công nghiệp gây hiệu ứng nhà kính là
một minh chứng. Còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh
tế thị trường văn minh, mang tính chất một nền kinh tế sinh thái, có cơ
cấu phù hợp với yêu cầu bảo vệ, hoàn thiện môi trường sống và lao
động, có ý nghĩa lớn lao về mặt kinh tế và mặt xã hội. Do đặc trưng này
của kinh tế thị trường định hướng XHCN cho nên vấn đề khoa học
công nghệ, sản xuất- kinh doanh, đặc biệt là quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đô thị hoá phải gắn từ đầu với vấn đề môi trường. Nhưng
thực tế hiện nay nhiều nhà máy không có công trình xử lí nước thải;
nhiều nhà máy gây ô nhiễm và tiếng ồn ngang nhiên nằm giữa khu dân
cư nội thành, không di dời hoặc di dời chậm chạp; nhiều khu dân cư
mọc lên nhưng không có cơ sở hạ tầng; nhiều đô thị mưa xuống là
ngập, số điểm bị úng ngập năm sau nhiều hơn năm trước; tài nguyên
rừng bị tàn phá nghiêm trọng…Đó có phải biệu hiện chệch hường
XHCN?
d. Kinh tế thị trường XHCN do nhà nước XHCN quản lí. Nhà ước quản lí
bằng pháp luật kết hợp với các yếu tố đòn bẩy của thị trường. Trong lúc
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể còn yếu việc sử dụng và phát huy
quyền lực nhà nước trong quản lí nền kinh tế có tầm quan trọng đặc
biệt. Nhưng điều bức xúx hiện naylà sự tha hoá quyền lực trong bộ máy
nhà nước đang xảy ra nghiêm trọng và diễn biến phức tạp. Một bộ
không nhỏ cán bộ công chức tham nhũng, lãng phí quan liêu. Đảng và
Quốc hội đã có nhiều nghị quyết, pháp lệnh về chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, nhưng chưa ngăn chặn và đậy lùi được, thậm chí còn
nặng nề hơn, đe dọa sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của
Đảng. Qua những vụ án lớn tại TP HCM gần đây như Trương Văn
Cam, Minh Phụng… ,không ít cán bộ công chức vì tham tiền đã đục
khoét của công, ăn hối lộ, sống sa đọa, tiếp tay cho bọn xấu gây bao
thiệt hại cho nền kinh tế và an ninh quốc gia. Bộ máy nhà nước với đội
ngũ cán bộ công chức như vậy liệu có điều hành nền kinh tế thị trường
đi đúng hướng XHCN được không?
Trên đây chỉ là một số khuyết điểm, lệch lạc để chứng minh và cảnh báo
rằng, trong điều hành kinh tế thị trường ở nước ta không còn dừng lại là nguy
cơ chệch hướng, mà thực tế đã có nhiều biểu hiện chệch hướng XHCN rõ
ràng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, mức độ này hay mức độ khác, nếu
không nhìn thẳng vào sự thật, kiên quyết khắc phục kịp thời sẽ dẫn đến đổ vỡ
không lường hết được.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN: [3. trg 311]
Thật ra chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm với kinh tế thị
trường, vừa đi vừa mò mẩm để tìm ra hướng đi đúng đắn, không bị vấp ngã,
bị cuộc sống chấp nhận. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới trong thời gian qua
có thể nên lên 1 số vấn đề cần xác định và hoàn thiện đối với mô hình kinh tế
của ta.
III.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần :
-Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần. Lấy việc
phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần
kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
-Phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập
trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước.Doanh
nghiệp nhà nước phải thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
-Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp
tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây
dựng phương án xản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc
chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
-Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông
thôn. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề
sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà
nước dưới các hình thức liên doanh, lien kết giữa kinh tế tư nhân trong và
ngoài nước. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào
mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu
hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
III.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển phân công lao
động xã hội:
-Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi
hang hóa. Vì vậy, để phát triển kinh tế hang hóa, phải đẩy mạnh phân công
lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, cho nên muốn mở rộng phân công lao
động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây
dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
-Cùng với việc trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế trong quà trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phải tiến hành lại phân công lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả
nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu hợp lí cho
phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế
III.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thong
qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, các li4ng vực của nền kinh tế
một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
XHCN, chúng ta cũng phái hoàn thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường. Trong thời gian tới chúng ta cần phải:
+ Phát triển thị trường hang hóa và dịch vụ. Hình thành thị
trường sức lao động có tổ chức để sử dụng hiệu quả nguốn nhân lực.
+Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
+Quản lí chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản, xây dựng và
phát triển thị trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các
loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lí và thể chế, tăng cường
sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, để thị trường hoạt động năng động, có
hiệu quả,có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công
khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp
hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
III.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
-Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế
khu vực và thế giới , mới thu hút được vốn, kỉ thuật và công nghệ hiện đại để
khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
-Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa
các hình thức kinh tế đối ngoại.
-Cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối
ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư kiệu sản xuất. Tranh thủ thu
hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, hướng vào những lĩnh vực, những
sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỉ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn
vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ
động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định
chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.
Tổng kết:
*Ngày nay đã có nhiều nước đưa ra các tiêu chí để xác định nền kinh tế
một quốc gia là thị trường hay chưa. Ta có thể xem xét 6 tiêu chí Mỹ đánh
giá Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế thị trường hay phi thị trường trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền: tất nhiên về khía cạnh đầu tiên
này Việt Nam chưa thể đạt được, đồng tiền Việt Nam chưa hoàn toàn tự do
chuyển đổi trên thị trường vốn
- Tự do thảo thuận mức lương
- Đầu tư nước ngoài
- Sở hữu hoặc quản lý của Nhà nước đối với các ngành sản xuất: quá
trình tư nhân hóa ở Việt Nam diễn ra chậm chạp và Nhà nước vẫn duy trì sự
hiện diện đáng kể trong nền kinh tế.
- Quản lý của nhà nước đối với sự phân bổ các nguồn lực: luôn thiếu
vắng quyền sở hữu đất tư, cải cách trong ngân hàng mang quy mô hạn chế.
- Các yếu tố thích hợp khác
Nên có thể kết luận trong thời điểm hiện tại, quanh năm 2000, Việt Nam
vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và chưa phải nền kinh tế thị trường.
*Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta
cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của
ta là kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý
chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh
tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của
đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế
mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta
là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phầ đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế.
Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công
tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái
riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”.
Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển
qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản,
trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản
nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ
cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó
chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là
liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên
một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu
trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII
(1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý
của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng
(2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục
đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt:
sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị
quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội