Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

THỰC TIỄN và ưu THẾ SXHH ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.88 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


2

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Sản xuất tự cấp tự túc:

Sản xuất tự cấp, tự túc là kiểu tổ chức kinh tế trong đó những người sản
xuất ra sản phẩm, chủ yếu để tiêu dùng cho bản thân và gia đình.Xuất hiện từ rất
sớm, nền sản xuất tự cấp, tự túc không tránh khỏi sự thiếu sót và yếu điểm:
- Là nền sản xuất khép kín, hướng vào thỏa mãn nhu cầu chật hẹp của bản
thân người sản xuất.
- Sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu thấp và chủ yếu dựa vào nguồn lực tự
nhiên.
- Không có môi trường cạnh tranh nên không có động lực mạnh cho việc
đổi mới, cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất.
- Trong nền sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất khép kính, biệt lập nên vật
chất, tinh thần, văn hóa của mỗi người, xã hội còn thấp.
- Phân công lao động kém phát triển.
1.2 Sản xuất hàng hóa:
SXHH là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó, những người sản xuất ra sản phẩm
khôn phải chủ yếu để tiêu dùng cho mình mà để trao đổi, mua bán trên thị
trường. SXHH ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Thứ nhất là phải có sự phân công lao động xã hội, tức là có sự chuyên môn
hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất
khác. Sự phân chia lao động xã hội sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên
tất yếu vì khi đó mỗi người chỉ sản xuất ra một hay một vài sản phẩm trong
khi đó họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn
nhu cầu hàng ngày họ phải trao đổi sản phẩm do mình làm ra để lấy sản phẩm



3

khác. Mặt khác, sự phân công lao động đã làm cho năng suất lao động tăng
lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ
biến. Các loại phân công lao động xã hội gồm: phân công lao động chung là
phân chia nền kinh tế thành các ngành sản xuất khác nhau như công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ,... Phân công lao động riêng (phân
công lao động đặc thù) là phân chia ngành sản xuất thành những phân ngành
như ngành công nghiệp phân chia thành công nghiệp nặng và công nghiệp
nhẹ. Trong công nghiệp nặng gồm: công nghiệp khai thác, công nghiệp tạo
máy,…Công nghiệp nhẹ: chế biến,… Trong ngành nông nghiệp gồm: ngành
trồng trọt, ngành chăn nuôi.... Phân công lao động cá biệt là phân công trong
nội bộ xí nghiệp như trong một xí nghiệp may phân theo dây chuyền cắt, dây
chuyền ráp, dây chuyền ủi,… Điều kiện của sự phân công lao động xã hội là
sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đến lượt nó, phân công lao động
xã hội lại là nhân tố phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là tiền đề, cơ sở
cho sản xuất hàng hoá. ()
- Thứ hai: phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt
kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập
nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối.
Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định
còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của SXHH. Thiếu một trong hai điều kiện
trên sẽ không có SXHH.
1.3 Ưu thế sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp, tự túc:



4

So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn
hẳn. Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn
hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của
từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao
động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các
ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó
được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện
cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản
xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền SXHH, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải luôn
luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu
quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các
vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá,
tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn. Đó là tính chất
“mở” - là đặc trưng của SXHH.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi nhu cầu và
nguồn lực cá nhân, gia đình; quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc
đẩy sản xuất phát triển thì SXHH lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm


5


cho sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ ƯU THẾ SXHH Ở NƯỚC TA
2.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng tới nay:
2.1.1 Tình hình nước ta từ sau giải phóng đến năm 2000:
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Việt Nam ta bắt tay vào công cuộc
khôi phục và xây dựng đất nước. Tình hình thế giới vẫn không ổn định, thêm vào
đó là một số chính sách kinh tế không hợp lý của nhà nước đã dẫn đến nền kinh
tế kém phát triển. Thời kỳ bao cấp được ví như “một áng mây đen” bao trùm cả
đất nước, chế phân phối theo tem phiếu, ngăn sông cấm chợ làm cho cuộc sống
của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình đó, Đảng và
nhà nước đã có những chính sách hợp lý nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế.
Bên cạnh đó, tình hình thế giới ổn định hơn, khả năng duy trì hòa bình lâu dài
cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế. Giải pháp được đưa
ra là xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp chuyển sang nền SXHH kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN.
Chiến lược 10 năm 1991 - 2000 được thực hiện khi nền kinh tế nước ta
đang có một số chuyển biến tích cực, nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội; chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; Mỹ tiếp tục
bao vây, cấm vận nước ta; các thế lực thù địch tìm cách chống phá ta về nhiều
mặt; những năm cuối thập kỷ 90, nước ta lại chịu tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp
xảy ra trên nhiều vùng.
Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức gay gắt, nhìn chung việc thực hiện
Chiến lược 1991 - 2000 đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng:


6


Sau mấy năm đầu thực hiện Chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07
lần). Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt
27% GDP. Từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp
ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và
có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có
bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm
xuống 24,3%, công nghiệp từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên
39,1%. ()
- Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; doanh
nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình
thành những tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có
bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát
huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều
đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu
khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế
thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu
hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến.


7

- Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ

dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên
đáng kể. Đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong
cả nước; bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Số
sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 6 lần. Đào tạo nghề được mở rộng. Năng
lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến.
Các hoạt động văn hóa, thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng
- Mỗi năm tạo thêm 1,2 - 1,3 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu
chuẩn của nước ta) từ trên 30% giảm xuống 11%. Người có công với nước được
quan tâm chăm sóc. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống
1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65 tuổi tăng lên 68 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ
em, chăm lo sức khỏe cộng đồng, phòng, chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ.
Phong trào thể dục rèn luyện sức khỏe phát triển; thành tích thi đấu thể thao
trong nước và quốc tế được nâng lên.
- Cùng với những nỗ lực to lớn của lực lượng vũ trang nhân dân trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã tạo điều
kiện tăng cường tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
- Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược kinh tế - xã hội
1991 - 2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa xã hội không ngừng tiến bộ; thế
và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng
lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).


8

Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua
tình trạng nước nghèo và kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất

nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình
của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế - xã hội vẫn còn
những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là:
- Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và
sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng
CNH, HDH, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý.
Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và
lãng phí. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Nhịp độ tăng trưởng kinh
tế những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng còn thấp hơn
mức của những năm giữa thập kỷ 90.
- Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát
triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát
triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi
các hợp tác xã theo Luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các
thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình
đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt
chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển;
chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh.
- Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính,
ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường
đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các
thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp,
có nhiều tiêu cực trong dạy, học, và thi cử... Khoa học và công nghệ chưa thật sự


9

trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế,
giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn. Việc đổi

mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực này triển khai
chậm.
- Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng
núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và thiếu
việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma túy, mại dâm,
lây nhiễm HIV-AIDS có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thông ngày càng
tăng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
2.1.2 Tình hình nước ta những năm gần đây:
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 được triển khai thực
hiện trong tình hình chính trị, xã hội nước ta cơ bản ổn định, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và thực lực nền kinh tế tiếp tục được tăng cường, quan hệ quốc tế
không ngừng mở rộng, những tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế - tài
chính khu vực năm 1997 đã được khắc phục.
Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc
tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và những biến động giá cả trên thị
trường quốc tế, nạn dịch bệnh mới xuất hiện, những diễn biến phức tạp về thời tiết
và khí hậu, sự chống phá của các thế lực thù địch đã gây nhiều khó khăn cho việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu
thực hiện các nhiệm vụ do Đại hội IX đề ra. Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng nhưng vẫn còn dưới mức khả năng
phát triển của đất nước; hoạt động kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước:


10

- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân
7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838
nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640

USD).
- Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch 4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng
3,8%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo
đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường thế giới[3].
Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến; độ che phủ rừng từ 33,7%
năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
- Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng
10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất
lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế
hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên 100 khu
công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ lệ công nghiệp chế
tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm tăng. Công nghiệp ở nông thôn và
miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả nước. Một số sản phẩm
công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây
dựng tăng trưởng 10,7%/năm, năng lực xây dựng tăng khá nhanh và có bước tiến
đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết
quả, hàng năm đưa thêm vào sử dụng khoảng 20 triệu m2.
- Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có
tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất
của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%); giá trị tăng thêm tăng gần


11

7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn
mức tăng GDP.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch 11
- 12%). Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du

lịch. Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Bưu chính viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối năm 2005 đạt 19 máy
điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân; 100% xã có điện thoại, hầu hết
các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc điểm bưu điện. Các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, đào tạo,
văn hoá... đều có bước phát triển.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH.
- Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ
36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm
nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ
trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
- Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và
vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh,
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng
trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao
động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ trọng lao động
đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.


12

- Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh
tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều
ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh
tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh
vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất

là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và
hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
Đi kèm với sự phát triển về kinh tế là sự thay đổi, phát triển trong văn hóa,
giáo dục, giao lưu quốc tế, khoa học công nghệ và sự ổn định về chính trị.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan
trọng:
- Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở
rộng; việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tiêu biểu nhất là sự kiện Việt Nam
chính thức là thành viên của gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã góp phần
tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất
khẩu.
- Xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5
năm đạt trên 110,6 tỉ USD, tăng 17,5%/năm, vượt mục tiêu đề ra (kế hoạch
16%/năm); năm 2005, xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD, gấp đôi năm
2000. Xuất khẩu dịch vụ 5 năm đạt trên 21 tỉ USD, tăng 15,7%/năm, bằng 19%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang một số nước
và khu vực, nhất là Hoa Kỳ.


13

- Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 5 năm khoảng 130 tỉ USD, tăng
khoảng 19%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm ước trên 21 tỉ USD,
tăng 10,3%/năm. Nhập siêu hàng hoá 5 năm là 19,4 tỉ USD, bằng 17,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy ở mức cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu
hướng giảm dần trong 3 năm cuối của kế hoạch 5 năm, riêng năm 2005 là 14%.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu, nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực.

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005; hàng nông, lâm, thuỷ sản
giảm từ 29% xuống 24,5%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ
33,9% lên 39,8%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, năm 2005, nhóm máy móc, thiết
bị và phụ tùng chiếm 32,5%; nhóm nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 61,3%; nhóm
hàng tiêu dùng chiếm 6,2%.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển khá:
- Cùng với củng cố kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc
phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm 2005 có
31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đi học
ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và trình độ dân
trí đã được nâng lên rõ rệt.
- Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm và dạy nghề dài hạn
tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường sư phạm
từ trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển. Chất lượng dạy
nghề có chuyển biến tích cực. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao
động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, người tàn tật, gắn dạy nghề với tạo
việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
- Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông,
dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt kết


14

quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp,
trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập.
- Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005, chi
cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nước; đã huy
động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua việc phát hành
công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh nghiệp, vốn từ bên ngoài. Cơ

sở vật chất của ngành đã được tăng cường, đặc biệt là đối với vùng núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con
người được nâng lên:
- Trong 5 năm, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động; các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90% việc
làm mới. Xuất khẩu lao động và chuyên gia bằng 2,3 lần so với 5 năm trước.
Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn đạt 80,65%. ()
- Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên trên
10 triệu đồng (năm 2005), tăng 12,1%/năm và chỉ số phát triển con người được
nâng lên.
- Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, đã
thu được nhiều kết quả tốt thông qua việc trợ giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm,
cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch
vụ xã hội cơ bản, tăng thu nhập, cải thiện đời sống; động viên các ngành, các cấp,
các đoàn thể quần chúng và các tầng lớp dân cư tham gia. Đến cuối 2005, tỉ lệ hộ


15

nghèo còn 7% (kế hoạch là 10%, theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 2005).
- Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Hoạt
động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn. Một số dịch bệnh mới như dịch viêm
phổi cấp (SARS) được ngăn chặn, khắc phục nhanh. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y
tế cơ sở được củng cố và phát triển; hầu hết các xã, phường trong cả nước đều có
trạm y tế, trên 65% trạm có bác sĩ. Một số cơ sở y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến. Sản xuất thuốc trong nước đã chiếm khoảng 45%
thị phần thuốc chữa bệnh. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, khám, chữa

bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện. Việc phòng,
chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm 2005, đạt kế hoạch; tỉ lệ chết của
trẻ em dưới 1 tuổi còn 18%. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 68 tuổi
vào năm 1999 đã nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
- Hoạt động văn hoá, thông tin phát triển đa dạng hơn, góp phần nâng cao
đời sống văn hoá của nhân dân, làm tăng hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, phổ biến pháp luật; phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát
triển sâu rộng hơn.
- Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục phát triển theo chiều rộng và có bước
nâng cao. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành thể thao đã được tăng cường đáng
kể. Đã tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể
thao của người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2.
- Việc chăm sóc người có công với cách mạng và trợ giúp người có đời
sống khó khăn được duy trì và mở rộng. Đi đôi với mở rộng diện được hưởng
chính sách trợ giúp của Nhà nước, phong trào "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ


16

nguồn", đã được các ngành, các cấp tổ chức, triển khai kịp thời, có hiệu quả và
huy động được sự tham gia của đông đảo nhân dân.
- Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh hơn.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước tiếp tục được
tăng cường. Toàn xã hội đã phát huy tinh thần tương thân tương ái, ý thức cộng
đồng, nhường cơm sẻ áo, tích cực tham gia khắc phục thiên tai, giúp đỡ người
nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nạn nhân chất độc da cam... và
chăm lo cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo.
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ

đối ngoại được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội
- Cải cách hành chính có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
được tăng cường một bước; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
được giữ vững.
- Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đời sống vật chất, tinh
thần và trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến phòng
thủ, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Việc kết hợp
giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh được thực hiện
tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đạt được
thành tựu quan trọng; đã phát hiện, ngăn chặn nhiều âm mưu phá hoại của các thế
lực thù địch; kiềm chế được tội phạm hình sự; xử lý nghiêm tội tham nhũng.
- Hoạt động chính trị đối ngoại không ngừng được mở rộng cả trong quan
hệ nhà nước và quan hệ nhân dân; đạt được kết quả quan trọng trong việc thực
hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.


17

- Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định
chính trị, xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Năm năm qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt
được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm phát
triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và
kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất
- kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được
nâng lên. Văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân được cải thiện; xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật. Chính
trị - xã hội ổn định. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia
được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế quốc tế của nước
ta được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được trong 5 năm qua còn dưới mức khả
năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, bất
cập; việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực, vào công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm
năng, hạn chế sự phát triển. Trình độ phát triển kinh tế và công nghệ vẫn tụt hậu so
với nhiều nước xung quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính
bền vững của sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng
kịp yêu cầu phát triển. Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều vướng mắc, khó khăn. Văn hoá - xã
hội phát triển chưa ngang tầm và còn nhiều vấn đề bức xúc. Bộ máy nhà nước và
đội ngũ cán bộ, công chức đổi mới chậm; quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị
đẩy lùi. ()


18

2.2 Ưu thế của SXHH ở nước ta:
Nền SXHH ở nước ta là một nền SXHH dựa trên chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất cơ bản trong xã hội. Nó mang đầy đủ những thuộc tính
của sản xuất hàng hoá nói chung, nhưng bị chi phối bởi quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa (XHCN) chiếm vị trí chủ đạo. SXHH XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ
sở nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Sự nảy sinh và tồn tại của SXHH XHCN ngoài
điều kiện phân công xã hội ra, về mặt sở hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu sản
phẩm lao động có đặc điểm:

- Còn tồn tại hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, chúng đều thuộc
những người sở hữu khác nhau.
- Các đơn vị sở hữu tập thể hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về lỗ
lãi, sản phẩm lao động thuộc sở hữu của một nhóm người lao động.
- Giữa các doanh nghiệp nhà nước, tuy đều thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
là những người kinh doanh độc lập, là những chủ thể kinh tế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi, hạch toán độc lập, có lợi ích kinh tế độc lập.
- Còn tồn tại các loại hình kinh tế phi công hữu (kinh tế cá thể, tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài). Mối liên hệ, trao đổi giữa họ là quan hệ kinh tế hàng hoá, theo nguyên tắc
trao đổi ngang giá.

Nền SXHH ở nước ta thời gian qua là một nền sản xuất vận hành theo cơ
chế thị trường có sự điều chỉnh của chính phủ theo định hướng XHCN. Đứng


19

trước vận hội mới của đất nước, nền SXHH ở nước ta có những thuận lợi nhất,
khó khăn, thách thức không nhỏ.
Về thuận lợi: là một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao, Việt Nam có giá
nhân công rẻ, trình độ dân trí khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất
nước ổn định về chính trị và một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, tài
nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi với hơn 3000km đường
biển... mặt khác, từ tháng 11/2006 nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) tạo được niềm tin với các nhà đầu
tư và bạn bè quốc tế.
Về khó khăn: nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nền
kinh tế nông nghiệp, đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp,
sức cạnh tranh yếu, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, cơ sở

hạ tầng thiếu thốn... Trình độ lao động đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu, thủ
tục hành chính dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Bên cạnh đó, nền kinh tế của các nước
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, đặc biêt là Trung
Quốc. Sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ 1997, nhiều nước ASEAN và Đông
Nam Á đang khôi phục và trên đà phát triển. Tình hình đó tạo thuận lợi cho
chúng ta trong hợp tác phát triển kinh tế và gia tăng sức ép cạnh tranh trong và
ngoài khu vực.
Thách thức: Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh
và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa
phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa và bảo vệ
môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch... Các công ty xuyên
quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều


20

lĩnh vực kinh tế. Sự cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng tăng. Toàn
cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát
triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát
triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại
những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia.

CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SXHH Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu:
Trong lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình không
ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao
trình độ người lao động, là quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã

hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân lên lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội (chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc lên SXHH). Đặc biệt, trong thời
đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động
trí tuệ ngày càng đóng vai trò to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế,
quá trình chuyển biến đó ngày một rõ ràng hơn.
Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, các chế độ sở hữu
cũng như các hình thức sở hữu cũng thay đổi. Trong lịch sử phát triền của nhân
loại, các chế độ sở hữu đã lần lượt thay thế nhau: từ chế độ công hữu nguyên
thuỷ đến chế độ chiếm hưu nô lệ, phong kiến, chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa và chế độ công hữu XHCN. Lịch sử phát triển của nhân loại cũng cho thấy,
không có một chế độ sở hữu nào là thuần nhất một hình thức sở hữu, mà nó là sự
đan xen nhiều loại hình, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong đó
có một loại hình sở hữu đóng vai trò chi phối, quy định bản chất của chế độ sở
hữu trong từng giai đoạn lịch sử. Xu hướng phát triển của nhân loại không phải


21

đi đến chỗ đơn nhất hoá mà ngược lại, ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở
hữu. Nếu như trong xã hội nguyên thuỷ chỉ mới có công hữu nguyên thuỷ thì
ngày nay, trong các nước đều đan xen rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Xu
hướng phát triển đó là tất yếu, phù hợp với quá trình xã hội hoá của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất có tính xã hội đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải có
tính xã hội. Tính xã hội ở đây thể hiện trong tính đa dạng của nó, chính tính đa
dạng đó mới tạo ra sự kết hợp tối ưu các yếu tố của lực lượng sản xuất. Trước
đây, nói đến chế độ công hữu là nói đến quá trình biến tư liệu sản xuất thành sở
hữu toàn dân và tập thể, và cuối cùng, đi đến một hình thức sở hưu duy nhất là sở
hưu toàn dân. Từ đó dẫn đến công hữu hoá ồ ạt, càng nhanh càng tốt.
Song thực tiễn đã cho thấy, đó là quan điểm sai lầm. Chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa không hề gạt bỏ tính đa dạng các hình thức sở hữu mà ngược lại,

chúng thống nhất với nhau. Trong tính đa dạng các hính thức sở hữu, công hữu
phải giữ vai trò chủ đạo. Điều đó cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, đồng thời giữ vững được bản chất của chế độ XHCN.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
“phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ và trong thời kỳ quá độ ấy có nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế”.
Quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN hay quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề rất mới mẻ về lý luận và thực
tiễn. Phát triển đất nước theo định hướng XHCN có nghĩa là chúng ta chưa thể có
ngay chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó, mà đó là một quá trình, là mục
tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, phải từng bước xác lập chủ
nghĩa xã hội, phải tạo ra những điều kiện, những tiền đề để phát triển theo đúng
quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, tránh nguy cơ chệch hướng. Trong quá trình xây


22

dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp mục tiêu tăng
trưởng kinh tế với mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường nhằm thực
hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, Đảng ta chủ trương đa dạng
hoá các hình thức sở hữu. Và "từ các hình thức sở hữu cơ bản: sớ hữu toàn dân,
sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những
hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp". Để đạt được điều đó,
đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển
lâu đài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc của nền kinh tế quốc dân".
Theo đó, có thể nói, quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt: một mặt, phải đa dạng
hoá các hình thức sớ hữu và coi đó là một trong những điều kiện tất yếu của kinh
tế thị trường, mặt khác, phải không ngừng củng cố và hoàn thiện sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể. Đó là yếu tố quyết định đảm bảo định hướng XHCN về mặt
kinh tế. Việc kết hợp hai mặt đó là nét đặc thù của quan hệ sở hữu trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Đây là vấn đề có tính chiến lược nhằm phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những giải pháp cụ thể được đề ra:
- Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật
mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Mọi doanh
nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và


23

được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
nhau đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa; từng bước hình thành một số tập
đoàn kinh tế mạnh.
- Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước ở một số ngành then chốt
để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng
quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế;
tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp
quan trọng.
- Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ
quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong

những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không, đường sắt, vận tải viễn dương, viễn
thông, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng,
bảo hiểm, kiểm toán...
- Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh
doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang
hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo
đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp của Nhà
nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần nắm giữ 100% vốn để huy động vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý
năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao
động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư


24

chiến lược trong và ngoài nước nhằm huy động vốn, tiếp cận công nghệ mới và
trình độ quản lý. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp vừa
và nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những
doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
- Phấn đấu trong khoảng 5 năm cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới
và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; củng cố và hiện
đại hóa một bước các tổng công ty nhà nước.
-Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi
hợp tác xã cũ theo luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã
kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh
dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp quá trình
CNH, HĐH. Trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình,

chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư
và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các hình thức
kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ
thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập
thể, giải quyết nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ.
- Nhà nước tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư bản tư
nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành,
nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên
doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ
phần và bán cổ phần cho người lao động.
- Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh
tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa
dạng.


25

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt
Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng
hóa và dịch vụ đặc biệt là hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng cơ sở
hạ tầng...
Giai đoạn mới của sự phát triển đất nước đòi hỏi công cuộc đổi mới phải đi
vào chiều sâu và toàn diện hơn, phải dứt khoát hình thành nhanh và đồng bộ các
yếu tố của kinh tế thị trường và hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, thực hiện đầy đủ những nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đồng thời,
càng đi vào kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải
quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân. Phải đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và sự đóng góp của
toàn xã hội để thực hiện tốt yêu cầu này; phải đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực xã

hội, thực hiện tốt hơn yêu cầu gắn kết giữa kinh tế và xã hội.
3.2 Đẩy mạnh phân công lao động xã hội:
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội lực và ngoại lực là chìa khóa thành công
trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực
thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới
bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế
thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực
của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng
tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách
phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người
dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu
tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh
và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.


×