TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
LỚP QTKD1 K2012 TP2
KHÁI QUÁT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
VÀ CHO BIẾT Ý NGHĨA CỦA HỌC
THUYẾT NÀY TRÊN HAI PHƢƠNG DIỆN
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
(Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lenine, Phần 2)
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Vũ Anh Tuấn
Sinh viên thực hiện: Võ Mạnh Lân
Quý II, năm 2013
Học thuyết giá trị lao động
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................................................... 3
I. XUẤT XỨ, TIỀN ĐỀ CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG ................................................... 3
II. TƯ TƯỞNG VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NHÀ KINH TẾ TIÊU
BIỂU TRƯỚC MARX ............................................................................................................................. 3
1. William Petty - Người đầu tiên đưa ra nguyên lý lao động quyết định giá trị trong kinh tế chính trị
học tư sản: ............................................................................................................................................. 4
2. Adam Smith - Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động: .................. 5
3. David Ricardo - Với lý luận về giá trị lao động đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị của trường
phái cổ điển Anh: .................................................................................................................................. 6
III. LÝ LUẬN CỦA K.MARX VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG ........................................... 8
1. Cơ sở lý luận của học thuyết: ............................................................................................................ 8
2. Những đóng góp của K.Marx vào học thuyết giá trị lao động: ......................................................... 8
3. Karl Marx là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất ra hàng hoá, thực hiện
một cuộc cách mạng hết sức to lớn trong học thuyết giá trị lao động: ................................................. 9
IV. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG ................. 10
1. Ý nghĩa lý luận: ............................................................................................................................... 10
2. Ý nghĩa thực tiễn:............................................................................................................................ 12
KẾT LUẬN................................................................................................................................................. 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 15
PHỤ LỤC ................................................................................................................................................... 16
1
Học thuyết giá trị lao động
LỜI MỞ ĐẦU
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người đều có những hiểu biết và cách giải
thích các hiện tượng kinh tế - xã hội nhất định. Đặc biệt, việc giải thích các hiện tượng kinh tế - xã
hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời sống kinh tế của xã hội loài người.
Trong bối cảnh nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, các vấn đề kinh tế
càng đòi hỏi phải được nghiên cứu tỷ mỉ, chu đáo và khoa học hơn. Do đó lý luận kinh tế chính trị tư
sản cổ điển xuất hiện, trong đó, học thuyết giá trị chính là điểm sáng, đỉnh cao.
Giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở những thành tựu của kinh tế, áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu kinh tế, K.Marx đã làm một cuộc cách mạng trong lịch
sử các học thuyết kinh tế trên các phương diện: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nội
dung, tính giai cấp... Học thuyết của ông ra đời là sự kế thừa và phát triển những học thuyết của các
đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết
kinh tế của Marx là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng mà nổi bật lên trong đó là
học thuyết giá trị lao động. Ông đã nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ các khuyết tật
và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng học thuyết giá trị lao động đó có ý nghĩa như thế nào, tính hữu dụng khi áp dụng vào thực
tiễn, đặc biệt, trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và phải vận dụng ra sao để đạt được kết quả cao nhất là một bài toán nan giải. Nhằm giải quyết
một phần vấn đề đó, em xin thực hiện đề tài: “Khái quát những nội dung cơ bản của học thuyết giá
trị lao động và cho biết ý nghĩa của học thuyết này trên hai phương diện lý luận và thực tiễn”.
2
Học thuyết giá trị lao động
PHẦN NỘI DUNG
I. XUẤT XỨ, TIỀN ĐỀ CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thế kỷ XVI, là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản,
trong thời kỳ ran rã của chế độ phong kiến, thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, khi
kinh tế hàng hóa và ngoại thương đã phát triển. Nó đề cao vai trò của Nhà nước cầm quyền trong
hoạt động kinh tế và quyền lợi của giới doanh thương, trực tiếp bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản
thương nghiệp. Tư tưởng xuất phát của chủ nghĩa trọng thương cho rằng, tiền là nội dung căn bản
của của cải, là tài sản thực sự của quốc gia. Do đó, mục đích chủ yếu của các chính sách kinh tế của
mỗi nước là phải tăng được khối lượng tiền tệ thông qua hoạt động trao đổi không ngàn giá, là sự lừa
gạt, chiến tranh.
Quá trình tích lũy tiền theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, khi sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản đến một giai đoạn nhất định thì nguồn tích lũy tiền hay tích lũy tư bản dần cạn kiệt. Do
đó, chủ nghĩa trọng thương bị nhiều nhà kinh tế thời kỳ này lên án. Chủ nghĩa trọng thương dần lỗi
thời và bắt đầu tan rã, trước hết là tại Anh, một nước phát triển nhất về mặt kinh tế vào thế kỷ XVII.
Bên cạnh đó, ở Pháp, do hậu quả của chủ nghĩa trọng thương trong chính sách Konbe nên nền nông
nghiệp Pháp đình đốn, nông dân Pháp khổ cực. Vì thế, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương
ở Pháp nổ ra gắn liền với hoạt động phê phán chế độ phong kiến nhằm giải thoát những ràng buộc
của chế độ cũ nhằm phát triển nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện chủ nghĩa
trọng nông. Giai cấp tư sản đã nhận thức được rằng, muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động
làm thuê của người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu.
Chính sự kiện cách mạng tư sản Anh và đấu tranh chống phong kiến ở Pháp đã tạo ra một tình
hình chính trị mới. Những thành tựu khoa học như triết học, toán học,... đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy những tư tưởng tiến bộ.
Tóm lại, tất cả các điều kiện kinh tế, xã hội và khoa học cuối thế kỷ XVII đã chứng tỏ thời kỳ
tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã kết thúc và thời kỳ phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt
đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thương trở nên quá rõ ràng, đòi hỏi phải có lý luận
mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó chính là tiền đề cho
sự ra đời của chính trị kinh tế học cổ điển Anh nói chung và của học thuyết giá trị lao động nói riêng.
II. TƢ TƢỞNG VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NHÀ KINH TẾ
TIÊU BIỂU TRƢỚC MARX
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sắc của trường phái cổ điển là W.Petty, A.Smith và
D.Ricacdo. Các ông nghiên cứu nhiều vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học như thuyết giá
trị lao động, tiền lương, lợi nhuận, lợi túc, tư bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng nên hệ thống
các phạm trù, quy luật kinh tế. Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, dưới sự chi phối của
bàn tay vô hình và Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Trong đó lý luận về giá trị lao động là đỉnh
cao lý luận kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
3
Học thuyết giá trị lao động
1. William Petty - Ngƣời đầu tiên đƣa ra nguyên lý lao động quyết định giá trị trong kinh tế
chính trị học tƣ sản:
William Petty (1623 - 1687) là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học,
được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên. Trường phái trọng thương chỉ thỏa mãn với việc đơn
thuần đưa ra những biện pháp kinh tế hay chỉ miêu tả lại các hiện tượng kinh tế theo kinh nghiệm.
Còn W.Petty đi xa hơn trong việc tìm cách giải quyết những hiện tượng đó, tiếp cận với các quy luật
khách quan.
Trong tác phẩm Bàn về thuế khóa và lệ phí (1662), W.Petty nghiên cứu và chia giá cả thành 2
loại: giá cả chính trị và giá cả tự nhiên. Theo ông, giá cả chính trị (giá cả thị trường) phụ thuộc vào
nhiều yếu tố ngẫu nhiên, do đó khó xác định. Còn giá cả tự nhiên (tức giá trị) là do thời gian lao động
hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Nếu giá cả tự nhiên là
giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết "tỷ lệ giữa lúa mỳ và
bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên". Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc
vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường. Còn giá cả chính trị, ông cho rằng
nó là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên, giá cả chính trị là chi phí lao động để sản xuất hàng hoá,
nhưng trong điều kiện chính trị không thuận lợi. Vì vậy chi phí lao động trong giá cả chính trị thường
cao hơn so với chi phí lao động trong giá cả tự nhiên bình thường.
Như vậy, W.Petty là người đầu tiên đã phát hiện ra cơ sở giá cả tự nhiên là lao động, thấy được
quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Ông kết luận rằng, số lượng lao động bằng nhau bỏ
vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hoá. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất
lao động khai thác vàng và bạc. Ông có ý định đặt vấn đề lao động phức tạp và lao động giản đơn
nhưng không thành.
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị lao động của ông còn có những hạn chế chưa phân biệt được các
phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá,
một bên là tiền, tức là ông mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông nhận thức được rằng giá trị của
tiền tệ cũng là do lượng lao động quyết định, nhưng lại sa vào nhầm lẫn giữa 2 khái niệm giá trị và
giá cả. Ông cũng chia lao động ra làm hai loại: một loại lao động sản xuất ra vàng và bạc, một loại
khác là lao động sản xuất ra những hàng hoá bình thường. Ông cho rằng chỉ có lao động khai thác
vàng và bạc mới có giá trị trao đổi, còn các lao động khác thì chỉ khi trao đổi hàng và tiền mới nảy
sinh giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng
của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy. Đó là ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa trọng
thương vẫn còn tồn tại rất nặng trong ông.
Ông đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn
gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Từ đó
Petty có ý định đo giá trị bằng hai đơn vị lao động và đất đai. Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: “Lao
động là cha, còn đất là mẹ của của cải”. Về phương diện của cải nói như vậy là đúng, chỉ rõ nguồn
gốc giá trị sử dụng. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị lao động khi kết luận "lao động và đất đai
là nguồn gốc của giá trị". Sai lầm của ông chính là tư tưởng coi hai yếu tố xác định giá trị là lao
động và tự nhiên.
4
Học thuyết giá trị lao động
2. Adam Smith - Ngƣời đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động:
Adam Smith (1723 – 1790) là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn
tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích lũy và phát triển lực lượng
sản xuất theo con đường tư bản. Thế giới quan của A.Smith về cơ bản là duy vật, đạt tới một trình độ
tiến xa hơn so với những người đi trước, tập trung tìm hiểu các quy luật kinh tế. Song hành cùng với
nó là phương pháp luận hai mặt mâu thuẫn, trộn lẫn các phần tử khoa học và tầm thường. Phương
pháp luận của ông có ảnh hưởng rất lớn tới kinh tế học tư sản sau này.
Về học thuyết giá trị lao động của A.Smith so với W.Petty có bước tiến đáng kể. Trước hết, ông
chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị lao động là thước đo cuối cùng của giá
trị. Ông đã phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng với giá trị trao đổi. A.Smith cho rằng giá trị có hai nghĩa
khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua
do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, và cái
sau gọi là giá trị trao đổi. Ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm chí còn không có. Việc
phân biệt rõ ràng hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị
trao đổi lớn hay nhỏ không liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là công lao của A.Smith. Nhưng ông
cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì lại sai lầm.
Theo A.Smith giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị trao đổi là do hao phí lao động để
sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là khái niệm đúng đắn về giá trị. Lao động là thước đo thật sự để
xác định giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hoá. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị hàng hoá là
công lao và thành tích khoa học của ông. Nhưng ông không hiểu được tính chất xã hội của loại lao
động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem lao động gì quyết định giá trị của hàng hoá, lao động
xác định giá trị hàng hoá như thế nào thì ông rơi vào hỗn loạn. Một mặt ông cho rằng lao động quyết
định giá trị hàng hoá là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá. Lượng giá trị của hàng hoá tỷ lệ
thuận với lượng thời gian lao động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn nghiên cứu sự phân
biệt giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một thời gian, lao động
phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. Nhưng đồng thời ông lại cho rằng giá trị một
hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hoá đó. Đây là điều luẩn
quẩn và sai lầm của A.Smith, dùng giá trị quyết định giá trị. Ông đã lẫn lộn vấn đề giá trị đã được
quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao đổi.
Về cấu thành giá trị của hàng hóa, theo A.Smith, trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan điểm của
ông hoàn toàn đúng đắn khi cho rằng tiền lương (v), lợi nhuận (p) và địa tô (r) là nguồn gốc đầu tiền
của mọi thu nhập, cũng như của mọi giá trị trao đổi. Song ông sai lầm ở chỗ, coi các khoản thu nhập
để hình thành giá trị và phân phối giá trị, xem thường tư bản bất biến (c) và không xác định có nó
trong cơ cấu giá trị (v + p + r = v + m).
A.Smith nghiên cứu quy luật giá trị và tác dụng của nó. Ông đã phân biệt giá cả tự nhiên với giá
cả thị trường. Về bản chất, giá cả tự nhiên là biểu hiện bằng tiền tệ của giá trị. Ông viết: "Nếu giá cả
của một loại hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho thanh toán về tiền tô, trả lương
cho công nhân và lợi nhuận tư bản được chi phí cho khai thác, chế biến và đưa ra thị trường, thì có
thể nói hàng hoá đó được bán theo giá cả tự nhiên. Còn giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán
5
Học thuyết giá trị lao động
gọi là giá cả. Nó có thể cao hơn, thấp hơn hay trùng hợp với giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả tự
nhiên có tính chất khách quan, còn giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ngoài giá cả tự
nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào quan hệ cung - cần và các loại độc quyền khác.
Công lao chủ yếu của A.Smith về lý luận giá trị lao động là đã phân biệt được giá trị sử dụng và
giá trị trao đổi, hơn nữa, ông cho rằng lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa
này, ông là người đứng vững trên cơ sở học thuyết giá trị lao động. Ông còn khẳng định, giá trị là do
lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá, từ đó suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng
trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu
nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô. Ông viết "tiền lương, lợi nhuận, địa
tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào". Tuy nhiên,
tư tưởng này xa rời học thuyết giá trị lao động: “giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá
quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”. Do đó lý luận của ông vẫn còn có những
sai lầm và hạn chế.
3. David Ricardo - Với lý luận về giá trị lao động đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị
của trƣờng phái cổ điển Anh:
David Ricardo (1772 - 1823) sinh ra trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành,
máy móc được áp dụng rộng rãi, lao động thủ công được thay thế bằng lao động cơ khí hóa. Phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập địa vị thống trị hoàn toàn và phát triển trên cơ sở chính nó,
với hai giai cấp cơ bản: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đối lập nhau, mâu thuẫn giữa hai giai cấp
bọc lé rõ ràng hơn. Ông nhìn nhận được mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đồng thời
vạch ra được những cơ sở kinh tế của các mâu thuẫn đó. Ông công khai bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư
sản công nghiệp với ý thức để thúc đẩy sự phát triển của nước Anh.
Nếu A.Smith còn dao động giữa phương pháp khoa học tầm thường thì D.Ricardo nhất quán kết
cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất: thời gian lao động quyết định
giá trị, tức là lấy lý luận giá trị lao động làm cơ sở cho toàn bộ họ thuyết kinh tế của ông. Ông đã
xem xét lại tất cả các phạm trù kinh tế dưới ánh sáng lý luận giá trị lao động. Ông đứng trên lập
trường duy vật (chủ nghĩa duy vật máy móc) để đi tìm quy luật kinh tế.
Lý luận giá trị chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm của D.Ricardo. Trong lý thuyết
giá trị, D.Ricardo dựa vào lý thuyết của A.Smith và kế thừa, phát triển tư tưởng của A.Smith. Cũng
như A.Smith, ông phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Chỉ rõ
giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ
một số ít hàng hoá khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn đại đa số hàng hoá
khác, giá trị do lao động quyết định. Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối, được biểu hiện ở một số
lượng nhất định của hàng hoá khác (thay tiền tệ) nên D.Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương
đối còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh, giá trị trao
đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối.
Ông bác bỏ lý luận giá trị sử dụng quyết định giá trị hàng hoá, chứng minh rằng các nhân tố tự
nhiên giúp con người tạo nên giá trị sử dụng, nhưng không thêm một phần tử gì vào giá trị hàng hoá
cả. Ông có ý kiến kiệt xuất: “Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dù hàng hoá
6
Học thuyết giá trị lao động
rất cần giá trị này” và “Giá trị khác xa với của cải, giá trị không phụ thuộc vào việc có nhiều hay ít
của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi”. Theo ông sở dĩ có nhiều nhầm
lẫn trong khoa học kinh tế chính trị là do người ta coi “sự tăng của cải và tăng giá trị là một”, là do
người ta quên rằng thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải vì của cải không phụ thuộc vào giá
trị. Theo ông giá trị trao đổi hàng hoá được quy định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá,
lượng lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hoá. Tính hữu ích không tăng cùng nhịp độ
với tăng giá trị, tính hữu ích là cần thiết vì vật không có ích, nó không có được giá trị trao đổi.
D.Ricardo phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Ông cho rằng, không một hàng hoá nào
mà giá cả không bị ảnh hưởng của biến động ngẫu nhiên hay tạm thời. Nhưng nguyện vọng của các
nhà tư bản luôn có xu hướng muốn rút số vốn của mình ra khỏi một công việc kinh doanh ít lãi và
đầu tư vào một công việc kinh doanh có nhiều lãi hơn, nguyện vọng đó không cho phép giá cả thị
trường của các hàng hoá dừng lâu ở một mức nào đó cao hơn nhiều hay thấp hơn nhiều so với giá cả
tự nhiên của chúng. D.Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc của giá trị, công lao
to lớn của ông là đã đứng trên quan điểm đó để xây dựng lý luận khoa học của mình. D.Ricardo soát
xét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những dư thừa và mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của
A.Smith. Ông phê phán khi A.Smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo
ông giá trị hàng hoá không phải do các nguồn gốc thu nhập hợp thành, mà ngược lại, được phân
thành các nguồn thu nhập.
Về cơ cấu giá trị hàng hoá, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo điều của A.Smith khi bỏ (c)
ra ngoài giá trị hàng hoá. Ricardo cho rằng: không chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, mà
ngay cả trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng
trong cơ cấu giá trị hàng hoá phải bao gồm 3 bộ phận là (c + v + m). Tuy nhiên ông chưa phân tích
được sự chuyển dịch (c) vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào, ông có ý định phân tích lao động
giản đơn trung bình. Ông nói, lao động xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hoá, song lại
cho rằng, lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất ấy quyết định.
Nhưng phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hoá của ông còn mang tính siêu hình. Ông coi giá trị
là phạm trù vĩnh viễn, đó là thuộc tính của mọi vật, ông không thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử
dụng và giá trị, vì chưa có được học thuyết về tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, ông chịu
ảnh hưởng của tính khan hiếm quyết định giá trị, chưa phân biệt được giá trị hàng hoá với giá cả sản
xuất, mặc dù ông có nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận.
Tóm lại, học thuyết kinh tế của D.Ricardo đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Ông đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị – lao động để giải thích các vấn đề lý thuyết kinh tế. Marx
đánh giá “Nếu A.Smith đã đưa khoa học kinh tế chính trị vào hệ thống, thì D.Ricardo đã kết cấu toàn
bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất, nguyên lý chủ yếu quyết định của ông
là thời gian lao động quyết định giá trị”.
7
Học thuyết giá trị lao động
III. LÝ LUẬN CỦA K.MARX VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
1. Cơ sở lý luận của học thuyết:
Bất cứ học thuyết kinh tế nào ra đời hay hình thành cũng dựa trên hai tiền đề thực tiễn và học
thuyết. Bởi lẽ tư duy học thuyết bắt nguồn từ thực tiễn rồi trở lại thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng
đắn (chân lý) của học thuyết. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là W.Petty, rồi đến
A.Smith và D.Ricardo, là những người đóng góp lớn vào học thuyết giá trị lao động. Tuy vậy, phải
qua nhiều thế kỉ trao đổi hàng hoá, con người mới dần dần hiểu ra được thực thể của giá trị và nhận
thức được quy luật giá trị. Phải chờ đến K.Marx thì học thuyết giá trị lao động mới phát triển đầy đủ.
Đặc điểm kinh tế của K.Marx là tính phê phán và kế thừa. Kế thừa cái đã có đồng thời phê phán để
tìm ra cái hạn chế của học thuyết đã có để bổ sung, hoàn thiện, sáng tạo và phát triển học thuyết từ
trừu tượng đến cụ thể trong xã hội tư bản gắn với giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết kinh tế của K.Marx được trình bày trong tác phẩm vĩ đại của mình – bộ Tư bản.
2. Những đóng góp của K.Marx vào học thuyết giá trị lao động:
Trong hệ thống các học thuyết kinh tế, học thuyết về giá trị - lao động được trình bày như là cơ
sở của tất cả các học thuyết kinh tế của K.Marx. Lần đầu tiên, giá trị được xem xét như là quan hệ
sản xuất xã hội của những người sản xuất hàng hoá, còn hàng hoá là nhân tố tế bào của xã hội tư sản.
Giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là phạm trù
lịch sử - có sản xuất hàng hoá thì mới có giá trị hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện
của giá trị. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Theo K.Marx, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Ông đã tiến xa hơn lý luận
của các nhà tư sản cổ điển là phân biệt một cách rõ ràng hai thuộc tính này, đó là: “Giá trị sử dụng là
công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Còn giá trị là lao động xã
hội thể hiện và vật hoá trong hàng hoá. Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính cùng tồn tại và
thống nhất với nhau ở một hàng hoá”. Quá trình thực hiện giá trị và quá trình thực hiện giá trị sử
dụng là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Trước khi thực hiện giá trị sử dụng của
hàng hoá, phải thực hiện giá trị của nó nếu không thực hiện được giá trị thì sẽ không thực hiện được
giá trị sử dụng.
K.Marx chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình vạn trạng, không
thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của
hàng hoá ra, hàng hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị
của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho nên, chúng ta thường nói
rằng, lao động tạo ra giá trị. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản
bắt buộc phải tìm trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính
đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại
hàng hoá đặc thù đó chính là sức lao động của con người. Ðiều cần lưu ý lao động và sức lao động là
hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử
dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị.
Ông cũng định nghĩa lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó
8
Học thuyết giá trị lao động
trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và
một cường độ lao động trung bình trong xã hội. Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá thay đổi thì lượng giá trị hàng hoá sẽ thay đổi.
K.Marx chỉ ra ảnh hưởng khác nhau tới lượng giá trị hàng hoá của lao động giản đơn và lao động
phức tạp: “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên luỹ thừa, hay nói cho đúng
hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương
đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn”. Vì vậy, khi trao đổi người ta lấy lao động giản
đơn làm đơn vị tính toán và quy tất cả những lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
Đồng thời, K.Marx phê phán các quan điểm của W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo về giá trị hàng
hoá. Ông đã hoàn thiện các yếu tố cấu thành lên giá trị hàng hoá gồm 3 bộ phận: c + v+ m (trong đó c
là lao động quá khứ, v là lao động sống và m là giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra). Ricardo nói
riêng và các nhà kinh tế học tư sản nói chung chưa hiểu được, chưa phân tích các hình thái giá trị.
Nhưng Marx chỉ rõ: “giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị”. Lý luận về giá cả hàng
hoá, ông cho rằng giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác
động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.
3. Karl Marx là ngƣời đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất ra hàng
hoá, thực hiện một cuộc cách mạng hết sức to lớn trong học thuyết giá trị lao động:
K.Marx là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, đó là lao
động trừu tượng và lao động cụ thể. Trên cơ sở phát hiện này, Marx đã thực hiện một cuộc cách
mạng trong lịch sử học thuyết kinh tế. Ông xây dựng học thuyết giá trị lao động một cách hệ thống
và hoàn chỉnh. Đồng thời dựa vào phát hiện này, ông đã trình bày một cách khoa học hệ thống các
phạm trù kinh tế chính trị mà trước đó, chưa ai có thể làm được.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể, có đối tượng lao động, mục đích,
phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó phân biệt được các loại lao động cụ
thể khác nhau. Mỗi lao động cụ thể tạo ra 1 giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể tồn tại vĩnh
viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội
nào. Còn lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện
cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. Đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức bắp
thịt, thần kinh của con người. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Chỉ có lao động sản xuất
hàng hoá mới có tính chất là lao động trừu tượng.
Ý nghĩa của việc phát hiện tính hai mặt lao động sản xuất hàng hoá có giá trị giống như "chìa
khoá" khoa học mà dựa vào đó, K.Marx xây dựng toàn bộ học thuyết kinh tế của mình. Ông cho rằng
"Toàn bộ khoa Kinh tế chính trị xoay quanh phát hiện ấy". Tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá có liên hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá. Sự phân
công lao động xã hội tạo ra sự phụ thực lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua trao
đổi. Việc trao đổi hàng hoá không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động chung
nhất, lao động trừu tượng.
9
Học thuyết giá trị lao động
Chính phát hiện tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá giúp K.Marx lý giải một cách khoa
học vì sao hàng hoá lại có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng và đưa ra định nghĩa giá trị hàng
hoá một cách khoa học. K.Marx đã lý giải làm sao năng suất lao động tăng chỉ làm cho lượng giá trị
sử dụng tăng còn tổng giá trị hàng hoá thì không thay đổi. Vì năng suất lao động gắn trực tiếp với lao
động cụ thể chứ không gắn với lao động trừu tượng.
Từ những lý luận trên của K.Marx về học thuyết giá trị lao động có sự kế thừa và phát triển. Ông
là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, có thể khẳng định K.Marx
chính là người đã làm cuộc cách mạng hết sức to lớn trong học thuyết giá trị lao động mà các nhà
kinh tế học cổ điển chưa làm được.
IV. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
1. Ý nghĩa lý luận:
Học thuyết về giá trị lao động của K.Marx đã vạch trần bản chất bóc lột, sự tàn bạo của giai cấp
tư sản đối với giai cấp vô sản làm thuê. Đặc biệt, nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong
sản xuất hàng hoá, phát hiện được tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá, ông đã giải đáp được rất
nhiều điểm bế tắc trong các học thuyết của trường phái kinh tế học cổ điển Anh.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng thời kỳ K.Marx nghiên cứu chủ nghĩa tư bản là thời kỳ tích lũy
nguyên thủy của tư bản, thời kỳ sản xuất hàng hóa phát triển chưa cao, quy mô sản xuất còn rất nhỏ,
khối lượng sản phẩm tạo ra chưa nhiều, một doanh nghiệp nào đó vươn lên hoặc phá sản cũng không
hề ảnh hương tới các doanh nghiệp khác. Đặc điểm in đậm dấu ấn của lịch sử này cho thấy lực lượng
sản xuất phát triển còn thấp. Phạm trù lao động được hiểu ở đây là lao động trực tiếp, chủ yếu là lao
động giản đơn, công cụ lao động chỉ có ý nghĩa giống như việc nối dài cánh tay của con người. Vì
thế, sự hoạt động của sức lao động là phải trực tiếp tác động đến đối tượng lao động thông qua tư liệu
lao động. Phạm trù hàng hóa do lao động tạo ra, thì lao động quá khứ đang chiếm một tỷ trọng lớn,
nhưng lao động sống chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Hơn nữa, vấn đề phân công lao động chưa vượt
ra khỏi phạm vi của một quốc gia và trở thành quốc tế, vấn đề quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hóa đời
sống, vấn đề toàn cầu chưa được đặt ra. Chính vì vậy việc nghiên cứu kinh tế hàng hóa chỉ thu hẹp
trong phạm vi của mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ, cả về quá trình hình thành giá trị, cũng như việc thực
hiện giá trị sử dụng của hàng hóa. Nhu cầu dịch vụ cho sản xuất, dịch vụ cho tiêu dùng chiếm một tỷ
trọng rất ít, không đáng kể. Các khoản chi phí của quá trình sản xuất trong lĩnh vực việc lưu thông,
chi phí lưu thông thuần túy càng ngày càng được giảm một cách tối đa, vì nó trở thành thừa, trở
thành không cần thiết. Do đó, việc tiếp cận học thuyết giá trị lao động của K.Marx đòi hỏi phải gắn
liền giữa sản xuất và lưu thông, giữa sản xuất và tiêu dùng, phải tiếp cận một cách toàn diện từ các
yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất, đầu ra, thậm chí sản phẩm đó đã được đi vào tiêu dùng như thế
nào.
Thị trường là nơi diễn ra trao đổi, là nơi thực hiện giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa được
sản xuất ra, nơi xác định mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất. Thực chất sâu xa trong quan hệ này,
chính là xác định một tỷ lệ trao đổi, để có thể trao đổi lẫn nhau về một hàng hóa hay một số hàng hóa
nào đó, là mối quan hệ giữa người này với người khác, giữa tập thể này với tập thể khác. Làm thế
nào để có thể giữ mối quan hệ, làm thế nào để đảm bảo cơ sơ tồn tại cho nhau, đảm bảo tái sản xuất...
10
Học thuyết giá trị lao động
cái gì là cơ sở sâu xa của nó? Đó chính là thành quả của lao động. Chúng ta có thể khẳng định rằng:
mặc dù lịch sử có nhiều đổi thay, có nhiều nhân tố tác động, điều kiện để sản xuất ra hàng hóa cũng
có nhiều thay đổi khác trước nhưng phạm trù lượng giá trị hàng hóa là lượng lao động kết tinh, là
thời gian lao động xã hội cần thiết mà K.Marx đã phân tích trước đây, hiện nay vẫn đúng và hết sức
cần thiết. Đương nhiên, phạm trù này, cần phải được phát triển, cần được hiểu rộng hơn trong điều
kiện mới, không chỉ đặt trong phạm vi của một ngành, một lĩnh vực, một nước mà đặt trong phạm vi
quốc tế; không chỉ sản xuất cho riêng mình mà phải gắn với nhu cầu quốc tế hóa đời sống và quốc tế
hóa sản xuất; không chỉ thu hẹp trong phạm vi của mỗi nước, từng khu vực, mà phải đặt trong cơ cấu
kinh tế "mở", vấn đề toàn cầu, đặt trong lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo, đặt trong quan hệ
của quy luật cạnh tranh, trong hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, trong tăng trương kinh tế...
Vai trò sức lao động của con người không những ngày càng phát triển mà còn có sự thay đổi về
chất, đó là lao động chất xám, lao động trí tuệ. Chính sự thay đổi về chất của sức lao động, dẫn đến
một loạt các nhân tố thay đổi theo, đầu tiên đó là các phát minh, sáng kiến mới. Phát minh quan trọng
hàng đầu là tạo ra các tư liệu lao động mới, sự thay đổi này là cơ sơ quan trọng để sư dụng đối tượng
lao động ngày càng ít. Do đó nếu không có kế hoạch sử dụng tư liệu lao động hợp lý, không tiếp cận
nhanh với thành tựu mới của khoa học công nghệ dẫn đến lãng phí tài sản vô hình rất lớn. Cũng trên
cơ sở sự phát triển của sức lao động đã xuất hiện một loạt các loại lao động mới, mà kết quả của nó
có thể là hữu hình, có thể là vô hình, có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dịch vụ,... Hơn nữa, với sự
phát triển của lao động trí tuệ, lao động chất xám, thì lao động hao phí trong mỗi đơn vị sản phẩm
cũng thay đổi, xu hướng hao phí lao động quá khứ ngày càng giảm, lao động sống ngày càng tăng
lên. Chính vì lẽ đó, lao động hao phí trong một đơn vị sản phẩm không thể chỉ tính ở kết quả lao
động trực tiếp tạo ra sản phẩm như trước, mà là gián tiếp gắn với các quá trình lao động khác nhau để
cùng tạo ra một sản phẩm. Mặt khác, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cũng xuất hiện
nhiều mối quan hệ trong lượng giá trị cần giải quyết.
Yêu cầu của quy luật giá trị là trao đổi ngang giá, giá cả hàng hóa này ngang bằng với giá cả
hàng hóa kia, thực chất bên trong là lượng lao động trong hàng hóa này ngang bằng với hàng hóa
khác. Trao đổi ngang giá cũng không dừng lại trong phạm vi quốc gia mà là trên phạm vi quốc tế.
Chính vì vậy, nếu không tiếp cận kịp thời các thành tựu mới của khoa học, công nghệ để giảm chi phí
sản xuất, giảm lao động hao phí sẽ là một thiệt thòi rất lớn đối với các nước đang phát triển. Hơn nữa
với cơ chế mở, cơ chế thị trường, buộc các nước phải tuân theo quy luật chung của quá trình trao đổi.
Việc lựa chọn các mặt hàng để sản xuất, lựa chọn mặt hàng để trao đổi, với lao động hao phí thấp,
dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh, không còn là phạm vi của một mặt hàng, một ngành, một vùng một
nước, mà là trên phạm vi quốc tế, xuất phát từ các điều kiện tự nhiên, xã hội kinh tế khác nhau.
Mặc dù lịch sư đã đổi thay, biết bao nhân tố tác động đến sự hình thành giá trị, tính muôn màu,
muôn vẻ trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Song dẫu sao đi nữa thì cơ sở sâu xa của lý luận giá
trị vẫn là kết quả lao động, giá trị do lao động tạo ra; vẫn thể hiện đầy đủ ý nghĩa lịch sử của nó. Vẫn
là cơ sơ để các đơn vị tính toán, hạch toán kinh doanh, bù đắp chi phí sản xuất, cơ sơ đảm bảo tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng trong điều kiện hiện nay.
11
Học thuyết giá trị lao động
2. Ý nghĩa thực tiễn:
Vận dụng học thuyết giá trị lao động của K.Marx, chúng ta cũng cần lưu ý rằng trong điều kiện
ngày nay, nền sản xuất xã hội hóa ngày càng cao. Quá trình xã hội hóa đã vượt ra khỏi phạm vi quốc
gia và trở thành quốc tế. Trong thực tiễn đã hình thành chi phí sản xuất quốc tế. Việt Nam là một bộ
phận trong hệ thống phân công lao động quốc tế, việc tính toán chi phí sản xuất, lao động hao phí của
một đơn vị sản phẩm không phải chỉ riêng ở nước ta mà phải đặt trong mối quan hệ chung đó. Chính
những vấn đề này đặt ra cho chúng ta một số vấn đề cần suy nghĩ sau đây:
Một là, từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu phong kiến, lại trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ sở vật
chất bị tàn phá hết sức nặng nề, năng suất lao động còn thấp, để nước ta có thể tham gia một cách
tích cực vào phân công lao động quốc tế, không còn cách nào khác hơn là phải nhanh chóng tiếp cận
các thành tựu mới của khoa học, công nghệ, đổi mới trang thiết bị máy móc, xây dựng và phát triển
nhanh cơ cấu hạ tầng, chóng hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, vào thời kỳ quá độ nền
kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn
theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta
càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó. Ðiều có sức
thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật, lấy luật làm công
cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung và cả hành vi bóc lột nói riêng. Trong nhận
thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm
giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh
nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua
Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Mặt khác, cũng phải bảo vệ
những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các
chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong
quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những
xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế
độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một
bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng
là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, lao động sống, nhân tố cấu thành lượng giá trị hàng hóa, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở
nước ta hiện nay, mỗi năm bổ sung cho đội ngũ lao động một lực lượng rất lớn, gần hai triệu người.
Những mặt tích cực trong đội ngũ lao động hiện có là có trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, cần cù,
chăm chỉ, chịu khó, thông minh, nắm bắt nhanh những thành tựu văn minh của nhân loại. Tuy nhiên,
bên cạnh đó thì đội ngũ lao động hiện có, kể cả bổ sung hàng năm cũng đang đặt ra những yêu cầu
cấp thiết, những vấn đề cần giải quyết. Trước hết đó là cơ cấu đội ngũ lao động không đồng đều giữa
khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng. Các thứ bậc trong bằng cấp chưa tương xứng với trình độ
chuyên môn, giữa đại học, trung cấp, sơ cấp, công nhân lành nghề chưa tương xứng hợp lý. Vận
dụng học thuyết giá trị lao động của K.Marx trong tình hình cụ thể hiện nay, yêu cầu cấp bách về
việc đào tạo một đội ngũ lao động có đủ những tiêu chuẩn cơ bản về chính trị vững vàng, gắn bó với
quê hương, yêu nghề, có trình độ chuyên môn giỏi, cần đạt được một cơ cấu thích hợp giữa các nhà
12
Học thuyết giá trị lao động
khoa học nghiên cứu, đội ngũ thực hành, giữa các ngành nghề, phù hợp với kết cấu của tổng giá trị
hàng hóa cần tạo ra mà nhu cầu xã hội đòi hỏi. Giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa lao
động phức tạp và lao động giản đơn, cần có kế hoạch trong đào tạo để có sự chuyển dịch theo một tỷ
trọng hợp lý, theo hướng lao động trí tuệ, lao động chất xám ngày càng tăng trong cấu thành giá trị
hàng hóa. Bên cạnh đó việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý cũng là một yêu cầu cấp thiết. Bởi lẽ, có
các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất mới chỉ là khả năng, muốn biến khả năng thành hiện thực
tạo ra nhiều của cải thì cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giỏi. Do đó, chúng ta cần phải có kế
hoạch cụ thể trong vấn đề này, theo yêu cầu xã hội hóa sản xuất ngày càng cao trên phạm vi quốc tế.
Ba là, trong kinh tế thị trường bốn khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng thì sản xuất và tiêu dùng đóng vai trò quyết định. Để giảm chi phí sản xuất, giảm hao phí
lao động quá khứ và lao động sống trong một đơn vị sản phẩm, điều cần thiết là phải mở rộng thị
trường, hình thành hệ thống thị trường hoàn chỉnh đồng bộ. Phải phát triển mạng lưới giao thông vận
tải như đường bộ đường thủy, đường sông, đường hàng không...Tận dụng tất cả các loại phương tiện,
nâng cấp các phương tiện sẵn có, đổi mới trang thiết bị. Ưu tiên lựa chọn các loại phương tiện vận
chuyển có hiệu quả cao. Có sự chọn lựa thích hợp trong quá trình sản xuất như địa điểm thích hợp, vị
trí thuận lợi, nhu cầu đòi hỏi cho sản xuất và tiêu dùng.
Bốn là, vận dụng lý luận giá trị lao động của K.Marx trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Với cơ
cấu kinh tế ở nước ta, đó là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần. Mặc dù, các thành phần kinh tế đều
là một bộ phận trong hệ thống phân công lao động xã hội, đều sản xuất hàng hóa, đều hướng ra thị
trường, đều chịu sự chi phối của các quy luật sản xuất hàng hóa... nên thống nhất với nhau. Tuy
nhiên, các thành phần kinh tế vẫn còn tồn tại mâu thuẫn với nhau, như mâu thuẫn trong nội bộ mỗi
thành phần kinh tế, giữa thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu với thành phần kinh tế dựa trên
chế độ tư hữu. Chính vì vậy, việc vận dụng lý luận giá trị vào mỗi thành phần kinh tế có sự khác
nhau. Trong chừng mực nào đó, với bản chất của mỗi thành phần kinh tế, việc chạy theo mục đích
duy nhất là lợi nhuận có thể dẫn đến tác hại không lường, có thể dẫn đến sự tách rời quá xa giữa giá
cả và giá trị hàng hóa. Hoặc cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến tình trạng cả lớn nưốt cá bé, tình
trạng phá sản, tình trạng đói nghèo, khoảng cách ngày càng xa giữa các từng lớp giai cấp trong xã hội
là không thể tránh khỏi. Do đó, một mặt lấy kinh tế quốc doanh, dựa trên chế độ công hữu làm gốc
nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặt khác tạo điều kiện, khuyến khích các nền kinh tế
khác phát triển để xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần vững mạnh, có hiệu quả.
13
Học thuyết giá trị lao động
KẾT LUẬN
Lý luận giá trị lao động đã trải qua chiều dài lịch sử của nhân loại và giữ vai trò quan trọng trong
hệ thống các học thuyết kinh tế, có tác dụng giải thích một loạt các hiện tượng kinh tế qua các thời kỳ
phát triển. Đồng thời, nó còn là cơ sở cho hệ thống các lý luận khác về tư bản, tiền công, lợi nhuận,
địa tô trong xã hội. Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu lý luận giá trị lao động đã chỉ rõ mối quan hệ
bản chất, bên trong của nền sản xuất hàng hoá, mối liên hệ phổ biến giữa giá trị và giá trị sử dụng,
các vấn đề về giá cả hàng hoá lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá.
K.Marx có công lớn trong việc khắc phục những hạn chế về học thuyết giá trị lao động của các
nhà kinh tế trước đó, giúp hoàn thiện những khái niệm giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, khái niệm thời
gian lao động xã hội cần thiết... trở thành cơ sở để xây dựng các học thuyết kinh tế sau này. Việc ứng
dụng những học thuyết đó trong quá trình hướng nền kinh tế đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là vô cùng quan trọng. Nhận thức đầy đủ và toàn diện về các giá trị to lớn của các học
thuyết kinh tế mà K.Marx đã xây dựng, đồng thời hoàn thiện góp phần cho chúng ta cái nhìn đầy đủ,
đúng đắn hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Ðất nước ta đi lên từ một
nước nông nghiệp và hiện đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc vận dụng học
thuyết của K.Marx một cách khoa học sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình đó giúp nước ta ngày càng
phát triển. Từ đó khẳng định quyết tâm đồng thời có những bước đi chắc chắn để tiến theo con đường
mà toàn Đảng, toàn dân ta đã chọn.
14
Học thuyết giá trị lao động
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn, chuyên ngành thẩm định giá, Cục quản lý giá – Bộ tài
chính, năm 2007 ( />Lữ Phương, Học thuyết Marx: Từ giá trị lao động đến tư bản, báo trực tuyến Tạp Chí Thời Đại
số 20, tháng 11/2010 ( />Songcham, Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam, diễn đàn trực
tuyến Kilobooks, ngày 11/04/2012 ( />Nguyễn Hữu Thảo, Phương pháp tiếp cận học thuyết giá trị lao động của Karl Marx trong kinh
tế thị trường ở Việt Nam, diễn đàn trực tuyến Tài Liệu Việt Nam, ngày 03/08/2011
( />PGS. TS. Vũ Anh Tuấn, Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thanh Niên, năm 2010
Nguyễn Thị Mai Yên, Lý luận Học thuyết Giá trị lao động của trường phái cổ điển Anh và
những đóng góp to lớn mang tính cách mạng của C. Mác vào học thuyết này, diễn đàn trực tuyến
Doko Việt Nam, ngày 22/11/2011 ( />
15
Học thuyết giá trị lao động
PHỤ LỤC
Bài viết “Dùng Vật lý học để kiểm chứng học thuyết giá trị lao động” do dịch giả Vô Tư trích
dịch từ bài “How physics is validating the Labor Theory of Value” của tác giả Paul Cockshott,
đăng trên blog cá nhân vào ngày 27/08/2008.
Đƣờng dẫn bài dịch: o/forum/showthread.php?t=28568
Đƣờng dẫn bài gốc: />
Khi tôi còn là một sinh viên, một giáo sư kinh tế học của tôi nói với chúng tôi rằng trong khi học
thuyết giá trị lao động có một vai trò lịch sử quan trọng trong sự phát triển của môn kinh tế học, nó
đã cho thấy có sự thiếu sót nghiêm trọng. Những nhà kinh tế học của thế kỉ 20 như Samuelson hay
Sraffa đã chỉ ra rằng không cần thiết phải đưa yếu tố lao động vào vị trí đặc biệt trong hiểu biết của
chúng ta về giá. Thay vào đó, cấu trúc của giá cả có thể được hiểu một cách tốt nhất như là kết quả
của chi phí tiền tệ của các hãng và hành vi tối đa hóa lợi nhuận của các doanh nhân. Nếu trên thực tế
không có thứ nào là giá trị lao động thì nó sẽ dẫn đến việc học thuyết của Marx về bóc lột chỉ là một
sự xâm nhập không hợp lệ của thành kiến đạo đức vào "khoa học thực chứng" của môn kinh tế học .
Người giáo sư dạy chúng tôi điều này, Ian Steedman,thực ra là một người theo cánh tả, một thành
viên tích cực của Đảng Cộng Sản.
Đây thực ra cũng chỉ là chuyện nhỏ, nhưng sự thật rằng, ngay cả một trí thức cộng sản kì cựu tin
rằng yếu tố trung tâm trong học thuyết của Marx không có giá trị về mặt khoa học, là rất có nghĩa.
Nhìn lại, nó cho thấy những người trí thức của phong trào cộng sản được chuẩn bị nghèo nàn như thế
nào khi phải đối mặt với cuộc tấn công rất mạnh mẽ về ý thức hệ vào những năm 1980 và 1990.
Nhưng 25 năm sau sự hỗ trợ đã tới từ một nơi không ngờ, 2 nhà toán học Moshe Machover và
Emanuel Farjoun, viết một cuốn sách có tựa đề Luật của sự hỗn loạn. Cuốn sách của họ đưa ra một
cách nhìn rất cấp tiến về cách mà chủ nghĩa tư bản hoạt đông như một hệ thống hỗn độn và vô tổ
chức. Farjoun và Machover thấy được rằng Vật lý học đã phát triển các lý thuyết để miêu tả các hệ
thống hỗn loạn và vô tổ thức tương tự.
Trong một nền kinh tế thị trường, hàng trăm nghìn doanh nghiệp và các cá nhân tác động qua lại,
mua bán hàng hóa và dịch vụ. Điều này tương tự như trong trạng thái khí mà ở trong đó một số lượng
lớn các phân tử tương tác, va chạm vào nhau. Vật lý nói rằng những hệ thống như vậy có mức độ tự
do cao, nghĩa là sự di chuyển của từng phân tử là tự do hay ngẫu nhiên. Nhưng mặc dù các hạt phân
tử di chuyển tư do, vẫn có thể chỉ ra những đặc điểm về tổng thể. Chúng ta có thể biết được tốc độ
trung bình của chúng (nhiệt độ) và chúng phân phối như thế nào trong không gian.
Ngành vật lý nghiên cứu vấn đề này là cơ học thống kê hay nhiệt động học. Thay vì có những
tuyên bố mang tính quyết định, môn này sử dụng xác suất và các giá trị trung bình, nhưng nó vẫn
tuân theo quy luật cơ bản của động nhiệt học, các quy luật này chi phối toàn bộ hành vi của vũ trụ.
16
Học thuyết giá trị lao động
Giờ đây là sự bất ngờ! Khi họ áp dụng phương pháp của cơ học thống kê vào nền kinh tế tư bản,
họ thấy rằng dự đoán đưa ra trùng khớp gần như chính xác với học thuyết giá trị lao động đã được đề
cập trong tập 1 của Tư bản luận. Thống kê cơ học cho thấy rằng giá bán của hàng hóa sẽ thay đổi
tương xứng với lượng lao động trong nó giống như Marx đã giả định. Bởi vì thị trường là hỗn loạn,
giá cả của mỗi hàng hóa sẽ không bằng chính xác giá trị lao động nhưng chúng sẽ xoay quanh rất sát
giá trị lao động ấy. Trong khi ở Tư bản luận học thuyết giá trị lao động chỉ được đưa ra như là một
phỏng đoán thực nghiệm. Marx biết điều này đúng nhưng không giải thích vì sao. Cuối cùng ở đây
đã có một lý thuyết vật lý hợp lý giải thích được nó.
Công việc của khoa học bây giờ là khám phá ra cơ chế nhân quả. Một khi điều này được thực
hiện nó có thể đưa ra các tiên đoán có thể được thử nghiệm. Nếu hai lý thuyết cạnh tranh nhau đưa ra
những tiên đoán khác nhau về hiện thực khách quan,chúng ta có thể quyết định lý thuyết nào là đúng
thông qua việc quan sát. Đây là phương pháp khoa học thông thường.
Lý thuyết của Farjoun và Machover đưa ra những tiên đoán chắc chắn đi ngược lại với những
tiên đoán bởi những người phê phán Marx như Samuelson. Đặc biệt, lý thuyết của họ tiên đoán rằng
những ngành công nghiệp với tỉ lệ lao động trên tư bản lớn sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Kinh tế
học truyền thống tiên đoán rằng sẽ không có sự khác nhau hệ thống giữa tỉ lệ lợi nhuận của các
ngành công nghiệp khác nhau như thế. Thực nghiệm hóa ra đã cho thấy Farjoun và Machover đã
đúng. Những ngành công nghiệp với tỉ lệ lao động trên tư bản lớn sẽ có lợi nhuận hơn. Nhưng đây là
chính xác những gì mà chúng ta trông đợi nếu nguồn gốc của lợi nhuận là từ sự bóc lột lao động hơn
là từ tư bản. Lý thuyết của họ đưa ra những tiên đoán không chỉ chính xác về mặt thực nghiệm mà
còn đồng thời kiểm nghiệm học thuyết của Marx về sự bóc lột công nhân.
Bước tiến lớn tiếp theo tạo bởi nhà vật lý Viktor Yakovenko, chỉ ra trong bài viết Cơ học thống
kê của tiền tệ của mình rằng tiền trong một nền kinh tế thị trường đóng cùng vai trò như năng lượng
trong Vật lý học.
Giống như năng lượng được bảo toàn trong trong sự va chạm giữa các phân tử, tiền cũng được
bảo toàn trong quá trình mua và bán. Quá hiển nhiên!
Thứ không hiển nhiên là những gì lý thuyết này hàm ý. Yakovenko chỉ ra rằng các định luật của
nhiệt động học hàm ý sự phân phối thu nhập giữa mọi người sẽ cùng một dạng với sự phân phối năng
lượng giữa các phân tử trong chất khí được gọi là hàm phân phối Gibbs-Boltzmann. Điều nay có vẻ
rất khoa học, nhưng thực sự có ý nghĩa gì?
Hàm phân phối Gibbs-Boltzmann của tiền cho thấy một số ít người cuối cùng sẽ kiếm được rất
nhiều tiền và rất nhiều người sẽ có rất ít tiền. Nó cho thấy sự phân phối thu nhập sẽ rất bất công,
giống như chúng ta đã thấy trong xã hội tư bản. Trên thực tế Yakovenko chỉ ra rằng sự phân phối của
cải ở Hoa Kỳ rất phù hợp với hàm phân phối Gibbs-Boltzman.
Có một xu hướng cho rằng người giàu có được của cải là nhờ trí tuệ hay nỗ lực, nhưng vật lý nói
rằng không phải. Trong một nền kinh tế thị trường thì quy luật cơ hội nghĩa là một lượng lớn tiền
cuối cùng sẽ chỉ rơi vào tay một số người.
17
Học thuyết giá trị lao động
Trên thực tế khi xem xét nước Mỹ chúng ta thấy rằng sự phân phối của cải thậm chí còn bất công
cả hơn những gì được dự đoán từ hàm phân phối Gibbs-Boltzmann. Nếu hàm Gibbs Boltzman được
áp dụng, sẽ có những triệu phú nhưng sẽ không có tỉ phú. Tại sao lại có sự chênh lệch như vậy?
Phương trình gốc của Yakovenkos đưa ra một nền kinh tế mà Marx gọi là sản xuất hàng hóa giản
đơn. Nó giả sử chỉ có mua và bán. Những nghiên cứu gần đây của Yakovenko và Wright đã cho thấy
rằng nếu điều chỉnh các phương trình này sao cho có thể cho phép sự hưởng lãi suất của đồng tiền,
hay sự thuê lao động trả lương thì những phương trình này tiên đoán một sự phân cực của dân cư
thành hai nhóm. Một số lượng lớn những người thuộc giai cấp công nhân và tiểu tư sản tuân theo
hàm phân phối thu nhập Gibbs-Boltzmann. Nhưng có một tầng lớp khác mà thu nhập của họ có được
từ tư bản, của cải của họ sẽ tuân theo một quy luật khác, quy luật hàm mũ. Một lần nữa, nhìn vào chi
tiết sự phân phối của cả và bạn đưa ra chính xác sự phân phối được tiên đoán bởi lý thuyết của
Yakovenko. Yakovenko nói rằng điều này chứng tỏ Marx đã đúng khi ông nói rằng xã hội hiện đại bị
chia thành hai giai cấp khác biệt và đối lập: nhà tư bản và người lao động.
Vậy vật lý học hiện đại đã cho thấy rằng Marx không chỉ đúng trong những phân tích của mình,
mà ông con đúng vì những kết luận của ông đi từ những quy luật cơ bản nhất của vật lý, quy luật
nhiệt động học.
Cũng có một kết luận kém hiển nhiên hơn mà chúng ta có thể rút ra được từ Vật lý học liên quan
đến điều không đáng mong muốn của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có thể thấy
được từ công trình của Yakovenko rằng một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cũng sẽ có một
sự phân phối rất không công bằng. Quy luật phân phối Gibbs-Boltzmann cũng sẽ thống trị ở đó. Một
số ít người hay hợp tác xã sẽ kiếm được rất nhiều tiền, và rất nhiều người hay hợp tác xã sẽ trở về
tình trạng nghèo khổ. Từ đây chủ nghĩa tư bản có thể sẽ khôi phục lại. Như Lenine đã viết: "sản xuất
nhỏ tạo nên chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản một cách liên tục, hàng ngày,hàng giờ một cách tự
phát trên quy mô lớn".
18