Bố cục:
Phần mở đầu
Phần nội dung
I, Quan niệm của HCM về dân chủ
1, Dân chủ là gì?
2, Dân chủ trong TT HCM
3, Quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
4, Quan niệm của HCM về việc thực hiện dân chủ trong trường học
II, Nội dung cơ bản của quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường
III, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các trường Đại Học
IV, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của trường Đại Học Mỏ - Địa Chất
V, Phương hướng nhằm nâng cao việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của
trường Đại Học Mỏ - Địa Chất
Phần kết luận
Chi tiết
Phần mở đầu
Năm 1962 của một nhà văn châu Á nổi tiếng đã từng viết: "Chúng ta có thể cùng
nhau bàn luận và cũng không dễ thống nhất để tìm xem trên đời này, ai là người vĩ
đại nhất, ai là người danh tiếng nhất, ai là người tài giỏi nhất, ai là người uyên bác
nhất... Nhưng Hồ Chí Minh dứt khoát là người hoàn toàn nhất, con người giàu chất
người nhất trên thế giới này". Con người "giàu chất người nhất trên thế giới này",
“hoàn toàn nhất” này chính là con người có tầm mắt đại bàng của tư duy (theo
cách nói của Heghen - nhà triết học duy tâm khách quan cổ điển Đức). Có được
tầm mắt thiên tài chính là vì nhịp đập của trái tim Hồ Chí Minh gắn liền với vận
mệnh đất nước và nỗi niềm của nhân dân.
Một trong những nhận thức thể hiện tầm mắt đại bàng của tư duy là Người đã
sớm nhìn thấy bản chất thật sự của nền giáo dục thực dân, chỉ rõ bộ mặt thật của
cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được
"đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp",
những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu
chè, cờ bạc, thuốc phiện; tố cáo đanh thép nền giáo dục thực dân trong việc "làm
cho dân ngu để trị", "gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn
cả sự dốt nát". Đồng thời dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước
những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động. Đó là nền
giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả.
Trong nền giáo dục ấy, việc phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục ở nhà trường
luôn là tiền đề cần thiết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có
của con người; là nền giáo dục mà theo Người “dạy và học cần phải theo nhu cầu
của dân tộc, của Nhà nước”. Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công
nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân, số
5299, ngày 16/10/1968, Hồ Chí Minh viết: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng.
Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và sự
nghiệp giáo dục nói riêng của đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Với quan
niệm dân chủ là của quý báo nhất của nhân dân và thực hành dân chủ là chìa
khóa để giải quyết mọi khó khăn, trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, hơn bao giờ hết
tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường càng
có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời sự sâu sắc, vì rằng chỉ có thực hiện và phát
huy được dân chủ trong nhà trường mới đảm bảo là cơ sở, nền tảng vững chắc cho
việc khơi thông mọi tiềm năng về trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi con người Việt
Nam, nhất là tầng lớp sinh viên, học sinh để đào tạo ra những con người toàn diện,
vừa "hồng" vừa "chuyên", vừa “hiền” vừa “minh”, có tri thức khoa học kỹ thuật- tự
nhiên - xã hội, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức, sức khoẻ,...
Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo
dục đã được khởi xướng ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An
Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây là: "tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và
chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ". Đây là quyền tự do của mọi
người được hưởng sự giáo dục không hạn chế, được làm chủ kho tàng tri thức của
nhân loại. Trong điều kiện lúc bấy giờ, đó là quyền được tự do học tập, quyền phát
triển các loại trường ngoài hệ thống trường công của thực dân Pháp, được mở
những loại trường như Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội, như trường Dục Thanh ở
Phan Thiết, nơi Hồ Chí Minh đã từng dạy học - là nhằm đào tạo những nhân tài
cho đất nước, góp phần mở mang, nâng cao dân trí, chiến thắng nghèo nàn và lạc
hậu.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh đều đặc biệt
quan tâm đến giáo dục nói chung và việc phát huy dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường nói riêng để đào tạo ra nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ đất nước. Người là
chiến sỹ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức tĩnh nhân dân, tổ chức,
đoàn kết, huấn luyện, đưa nhân dân ra đấu tranh giành tự do độc lập; giải phóng
nhân dân thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng
buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân
đứng lên làm chủ nền văn hóa, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình trong nền
giáo dục mới mà Người đã dày công vun đắp.
Phần nội dung
I, Quan niệm của HCM về dân chủ
1, Dân chủ là gì?
Theo định nghĩa, trong từ điển Dân Chủ nghĩa là "chính phủ được thành lập bởi
nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi
nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”.
Theo HCM, Dân chủ có nghĩ là “dân làm chủ” .Khi xác định như thế , có lúc
HCM đem quan niệm “dân là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan
điểm được HCM diễn đạt ngắn, gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong
cấu tạo quyền lực của xa hội. Mở rộng theo ý đó, HCM còn cho rằng :” nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “ chế độ ta là chế độ dân
chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “ nước ta là nước dân chủ , địa vị cao nhất là dân,
vì dân làm chủ”. Như vậy, quan niệm HCM về dân chủ được biểu đạt qua hai
mệnh đề ngắn gọn :” Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như thế, chúng ta
có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa
là đề cập năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai vế này luôn luôn đi đôi với nhau,
thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Quan niệm này phản ánh
đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân
dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự
dân chủ.
2, Dân chủ trong tư tưởng HCM
Có lẽ không có cách gì tìm hiểu về tư tưởng một con người tốt hơn là qua bài
viết của người đó ở những thời kì lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu
chuyên ngành Lịch Sử khác nhau. Xuyên suốt các thời kì lịch sử, có lẽ nguyện
vọng lớn nhất của cụ Hồ là xây dựng một Việt Nam “ Dân chủ mới “, một nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như các nước văn minh trên thế giới.
Giở lại lịch sử, ngay khi đất nước còn đang chìm trong đêm trường nô lệ, tại
nước Pháp, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được những quyền lợi
căn bản mà một con người, một công dân trong xã hội phải có, vì đó là “ những
quyền không ai có thể xâm phạm được “ (Tuyên ngôn độc lập). Tại đại hội Tours
năm 1920 của đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu như sau:
Người Việt Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người
châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự
do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có.
Việc nhận thức được thế nào là nhân quyền, dân quyền có lẽ là một bước phát
triển rất lớn trong tư tưởng của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc. Với nhận thức
rằng chính phủ sinh ra là để phục vụ dân chứ không phải để cai trị dân, chính phủ
không có quyền ngăn cấm công dân phát biểu và hội họp với nhau. Do vậy, chính
phủ thực dân Pháp đã xử sự hoàn toàn sai trái khi ngăn cấm và hạn chế quyền tự do
ngôn luận, tự do hội họp của người Việt Nam.
Dù vậy, thực dân Pháp vẫn huênh hoang là họ có công “khai hóa” cho nhân dân
Việt Nam. Thực dân Pháp đã tổ chức những cuộc vui chơi, thể dục thể thao, âm
nhạc, thậm chí cho bầu cử giả hiệu để thanh niên Việt Nam lãng quên nghĩa vụ giải
phóng đất nước. Nhìn bề ngoài không ai có thể nghĩ rằng người dân Việt Nam cần
độc lập, tự do, dân chủ nhưng với con mắt nhìn xa trông rộng, cụ Hồ đã nhìn thấy
điều khác hẳn.
Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín
muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không muốn
cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường
vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa. Sự thật là người Đông Dương không có
một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập hội, đi lại đều
bị cấm… Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có
một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng.
Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có
nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.
Để phục vụ cho chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, chế độ thực dân đã
tranh thủ và huy động sự tham gia của người dân sống ở các nước thuộc địa tham
gia giải phóng “ Mẫu quốc “, với vô số lời hứa hẹn sẽ ban bố quyền “ tự do, dân
chủ “ cho người dân. Thế nhưng, khi cuộc chiến kết thúc, tất cả chỉ là những lời
hứa suông. Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ điều đó, không chỉ cho
người dân Việt Nam mà toàn thể nhân loại đang sống ở chế độ thuộc địa. (trích bài
Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên tạp chí Cộng sản Pháp, số 14, năm
1921).
Nhưng khi cơn bão táp đã qua, thì cũng vẫn như trước, anh em phải sống trong
chế độ bản xứ, với những điều luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên
ngành Luật đặc biệt, thiếu hẳn các quyền lợi gắn liền với phẩm giá con người như
quyền tự do lập hội và hội họp, tự do báo chí, tự do đi lại ngay cả trong nước. Đó
là về mặt chính trị.Nói tóm lại, người ta hứa hẹn đủ thứ, nhưng giờ đây mọi người
đều thấy toàn là những lời lừa dối. Chỉ có bản thân nỗ lực đấu tranh thì mới mong
có giải phóng được.(Tuyên ngôn của hội “ Liên hiệp thuộc địa”)
Khi các nước thắng trận như Mỹ, Anh, Pháp họp ở Versailles ngày 18 tháng 1
năm 1919, nhiều đoàn đại biểu các nước bị áp bức đã đến hội nghị này để đưa
nguyện vọng của mình. Nguyễn Ái Quốc đã nhân danh “ một nhóm người Việt
Nam yêu nước “ ở Pháp đã gửi bản “ Những yêu sách của nhân dân Việt Nam “
cho nghị viện Pháp và tất cả những đoàn đại biểu ở hội nghị này.
Bản yêu sách đã thể hiện tư tưởng ngời sáng của cụ Hồ, thể hiện sự tiếp nhận sâu
sắc tư tưởng nhân quyền, dân quyền của cụ Phan Châu Trinh. Tư tưởng này đã
khởi đầu cho nhận thức về một đất nước Việt Nam trong đó quyền tự do của người
dân được bảo đảm, một thể chế dân chủ, pháp trị chứ không phải hoạt động dựa
trên “ chỉ thị “ hay “ sắc lệnh “ của một nhóm người cai trị nào.
- Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam.
- Cải cách nền pháp lý Đông Dương, cho người Việt Nam cũng được bảo đảm về
mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn tòa án đặc biệt, công cụ để khủng bố Tự do báo
chí và tự do tư tưởng.
- Tự do lập hội và tự do hội họp.
- Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
- Tự do học tập và mở các trường kỹ thuậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu
chuyên ngành Kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh.
- Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ đạo luật.
- Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở bên cạnh
nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ. (Nguyễn Ái Quốc Những yêu sách của nhân dân Việt Nam)
Không chỉ giác ngộ cách mạng cho tầng lớp công nhân và nông dân, cụ Hồ còn
chủ trương giúp đỡ các tầng lớp khác trong xã hội thành lập đảng đại diện cho
nguyện vọng của họ. Có lẽ cụ đã vượt trước thời đại rất xa khi thấu hiểu sự cần
thiết của nhiều đảng phái trong xã hội để nói lên tiếng nói của nhiều tầng lớp. Ngay
trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của đảng Lao
Động Việt Nam (sau đổi tên thành đảng Cộng Sản), cụ Hồ đã phát biểu “Đảng Lao
Động lại giúp những anh em trí thức tiến bộ thành lập đảng Dân Chủ Việt Nam để
thu hút những thanh niên trí thức và công chức Việt Nam”.
Không chỉ vậy, đảng Lao Động còn học hỏi những điều tốt đẹp của các đảng phái
khác. Trong lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11/06/1948, chủ tịch Hồ Chí minh đã
nêu ra chủ trương của Việt Nam Quốc Dân Đảng để toàn dân hướng vào, đó là chủ
thuyết Tam Dân mà tác giả là Tôn Trung Sơn, người cha của nền Cộng hòa Trung
Quốc: “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Ba chữ “Độc lập”,
“Tự do”, “Hạnh phúc” đã trở thành ba mục tiêu lớn nhất của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và bây giờ là nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam.
Đến tận những năm cuối đời, cụ Hồ vẫn căn dặn những lời hết sức hợp tình hợp
lý. Trong di chúc, cụ mong muốn xây dựng một Việt Nam “Hòa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ, và giàu mạnh”. Nếu ai đọc được các văn bảnThư viện các
mẫu văn bản do cụ Hồ viết qua từng thời kì, sẽ hiểu ngay đường lối chiến lược này
của cụ.
“Hòa bình” nghĩa là các bên tham gia chiến tranh phải ngưng bắn để bước vào bàn
đàm phán.
Tiếp theo, “độc lập” nghĩa là nước ngoài không được can thiệp vào nội bộ Việt
Nam, cụ thể là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam vô điều kiện.
Rồi đến “thống nhất”, nghĩa là hai miền Nam Bắc sẽ tổ chức bầu cử tự do và công
bằng để bầu ra chính phủ thống nhất trên toàn quốc.
Ngay sau đó, chính phủ thống nhất cần thực hiện ngay thể chế “dân chủ”, chấm dứt
tình trạng phải hạn chế nhân quyền, dân quyền do yêu cầu của thời chiến ở cả hai
miền.
Một khi đã có nền tảng dân chủ vững chắc, chúng ta mới có thể xây dựng đất
nước “giàu mạnh”, và giàu mạnh một cách bền vững.
Nh vy, t tng H Chớ Minh t u n cui vn l u tranh tr li nhng
quyn cn bn cho ngi dõn, thc hin th ch dõn ch bo m nhng quyn
t do ca ngi dõn c thc thi nh quyn t do ngụn lun, t do bỏo chớ, t do
lp hi v hi hp, t do ng c v t do bu c
Ngay trong bi vit Thc hnh tit kim v chng tham ụ, lóng phớ, chng bnh
quan liờu nm 1952, c H ó vit Dõn ch l da vo lc lng qun chỳng, i
ỳng ng li qun chỳng. lm c nh vy thỡ ý dõn cn phi c th
hin qua bỏo chớ t do v bu c cụng bng.
3, Quan nim ca HCM v nh nc ca dõn, do dõn, vỡ dõn
Tin thc hin mi quyn dõn ch trong mi lnh vc ca i sng xó hi l
phi xõy dng mt nh nc dõn ch, mt nh nc ca dõn, do dõn, vỡ dõn.Khi
núi n dõn ch thỡ HCM luụn cp u tiờn ti mt nh nc ca dõn, do dõn, vỡ
dõn. Mt l nc dõn ch l tin mi dõn ch khỏc.
* Cơ sở hình thành:
- Cơ sở lý luận: Quan điểm của CN Mac-Lê Nin
- Cơ sở thực tiễn: Kế thừa những t tởng tiến bộ của dân tộc về xây dựng nhà nớc.
* Nhà nớc của dân .
- Quan điểm nhất quán của HCM là xác lâp ta át cả mọi quyền lực trong nhà
nớc và trong xã hội thuộc về nhà nớc trong 24 năm làm chủ tịch nớc HCM đã lãnh
đạo soạn 2 bản hiến pháp 46 +9 hiến pháp 1946 nêu rõ.Tất cả quyền bính trong nhà
nớc đều là của toàn thể nhân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, tôn giáo, giai cấp, những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đa ra toàn
dân phúc quyết.
- Nhân dân Việt Nam có quyền kiểm soát nhà nớc, kiểm tra, giám sát và bãi
miễn đại biểu hội đồng nhân dân các cấp khi họ không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân.
- Nhân dân cũng là ngời xây dựng nó.
* Nhà nớc do dân:
- Nhà nớc đó là do dân lựa chọn và bầu ra theo giai đoạn của hiến pháp.
- Nhà nớc đó là nhà nớc do dân đóng góp tiền của để nhầ nớc chi tiêu mọi hoạt
động. Nhà nớc khong trực tiếp tạo ra tiền bạc và của cải mà nhân dân mới trực tiếp
tạo ra tiền bạc của cải cho xã hội. Nguồn tiền mà nhân đóng góp dới nhiều hình
thứcnh thế, lệ phí công trái là nguồn gốc nhà nớc chi tiêu hoat động nhằm thực hiện
chức năng nhiệm vụ của mình.
- Nhà nớc do dân là nhà nớc do dân ủng hộ và giúp đỡ. Nhân dân chính là ngời
thực hiện các chủ trơng, đờng lối kế hoạch của nhà nớc. Dân không chỉ đóng góp
tiền của mà đóng góp cả công sức để xây dựng nhà nớc đó.
- Nhà nớc đó cũng nhà nớc do dân phê bình, xây dựng. Nhân là ngời đóng góp
cả trí tuệ để xây dựng cũng cố nhà nớc.
Chính vì vậy, HCM thờng nhấn mạnh nhiệm vụ của những ngời làm cách
mạng là phải cho dân hiểu, làm cho dâb giác ngộ để nâng cao đợc trách nhiệm làm
chủ, nâng cao đợc ý thức trác nhiệm chăm lo xây dựng nhà nớc của mình HCM
khẳng định: Việc nớc là việc của chung, mỗi ngời phải có trách nhiệm: Nghé vai
gánh vác 1 phần quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm nghĩa
vụ.
* Nhà nớc vì dân:
- Yêu cầu thiết chế tổ chức:
+ Nhà nớc vì dân là nhà nớc lấy việc lo cho dân cụ thể là lo cho những lợi ích
thiết thực cho ngời dân: Ăn, ở, mặc, đi lại Làm mục tiêu hoạt động cho mình,
ngoài ra khong có đặc quyền đặc lợi gì.
+ Nhà nớc này xuất phát từ việc lo cho những ợi ích của dân tộc dựa trên đó
hoàn thành thuyết chế bộ máy nhà nớc.
- Về đội ngũ cán bộ công chức làm việc trong bộ máy nhà nớc phải xác định
mình là công bộc của dân Lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu.
HCM căn dặn: Tất cả những thứ chung ta dùng hàng ngày đều do dân cung cấp nên
phải hết lòng, hết sức phục vụ do dân cung cấp nên phải hết lòng, hết sức phục cho
dân, việc gì có lợi ích cho dân thì phải hết làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh:
tóm lại, t tởng về nhà nớc kiểu mới không chỉ đợc thể hiện trong lời nói
mà đợc thể hiện rất thiết thực trong chính việc làm của HCM.
4, Quan nim ca HCM v vic thc hin dõn ch trong trng hc
Trong mt nn giỏo dc kiu mi, H Chớ Minh yờu cu phi xem giỏo dc l
s nghip ca qun chỳng. Mt trong nhng mc tiờu cao nht ca nn giỏo dc
mi, nn giỏo dc cỏch mng Vit Nam l "o to cỏc em nờn nhng ngi cụng
dõn hu ớch cho nc Vit Nam ... lm phỏt trin hon ton nhng nng lc sn cú
ca cỏc em", trang b cho mi ngi dõn cú kin thc mi "bin mt nc dt
nỏt, cc kh thnh mt nc vn húa cao v i sng ti vui hnh phỳc". lm
c iu ú, Ngi yờu cu phi phỏt huy y dõn ch xó hi ch ngha vỡ
theo Ngi, ch cú phỏt huy dõn ch n cao thỡ mi ng viờn c tt c sinh
viờn, hc sinh ra sỏng kin. Theo ú, cỏc cp y, chớnh quyn, cỏc ngnh cỏc
cp, cỏc on th qun chỳng v ton xó hi phi tht s quan tõm n cụng tỏc
giỏo dc, to iu kin giỳp cỏc trng v mi mt, riờng nh trng phi tht
s m rng dõn ch trong c quan, phi phỏt huy cao dõn ch trong giỏo dc,
to nờn s on kt nht trớ gia thy vi thy, thy vi trũ, trũ vi trũ, to ra mi
quan h mt thit gia nh trng - gia ỡnh - xó hi cựng cng ng trỏch nhim
phỏt trin giỏo dc, y mnh s nghip giỏo dc ca ta lờn nhng bc phỏt
trin mi. Trong Bi núi ti Hi ngh cỏn b ng ngnh Giỏo dc (t ngy 3 n
8/6/1957, ti H Ni), H Chớ Minh núi: giỏo dc trong nh trng dự cú tt my
nhng thiu Giỏo dc trong gia ỡnh v ngoi xó hi thỡ kt qu cng khụng thu
c hon ton.
Trong khuụn kh giỏo dc nh trng, vic thc hnh dõn ch l mt ũi hi
ht sc bc thit, theo ú, Ngi yờu cu nhng ngi lm cụng tỏc qun lý giỏo
dc phi nhn thc ỳng tm quan trng ca dõn ch trong giỏo dc, xỏc nh giỏo
dc l s nghip ca qun chỳng, l nhim v ca ton ng, ton dõn; ch trng
của Nhà trường phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương,
chính sách của Nhà nước với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú
của quần chúng, của cán bộ và của địa phương.
Để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường phát huy được hiệu quả,
theo Hồ Chí Minh yếu tố cần thiết đầu tiên là phải đào tạo và xây dựng đội ngũ
những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là các cô giáo, thầy giáo - những
người vẻ vang nhất, những anh hùng vô danh, người kỹ sư tâm hồn, vì theo Người,
“không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Để xứng đáng với danh hiệu ấy,
Người cho rằng “mỗi người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi chuyên
môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa "hồng"
vừa "chuyên", "phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiện vụ, chớ tự
mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải
mình trước. Phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo con em, cải tạo xã hội”,
phải thật sự yêu nghề, yêu trường. Quán triệt quan điểm của Mác - Lênin: "bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục", Hồ Chí Minh cho rằng: "người
huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình - người huấn
luyện nào tự cho mình là biết đủ cả rồi thì người đó là dốt nhất". Ngoài việc nhắc
nhở về học tập chuyên môn, Người cũng lưu ý một vấn đề hết sức quan trọng đó là
học tập chính trị, vì "có học tập lý luận Mác - Lênin thì mới củng cố được đạo đức
cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết về trình độ chính trị mới
làm nòng cốt công tác Đảng giao phó". Mặt khác, Người cho rằng bản thân người
thầy cũng phải học tập chính từ thực tiễn sinh động. Người nhắc lại câu "giáo bất
nhiêm, sư chi toạ", tức là dạy không nghiêm túc, không đến nơi đến chốn là do
thầy lười nhác. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của hoạt động giảng dạy bản thân
mỗi người thầy giáo phải không ngừng rèn luyện trong thực tiễn sinh động của xã
hội, tiếp thu lấy chất lượng sống ở đó mà truyền lại cho thế hệ trẻ: thầy giáo và học
trò, tuỳ hoàn cảnh và khả năng cần tham gia vào những công tác xã hội ích nước
lợi dân, Những kiến thức thực tiễn đó mới thật là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng
thế hệ đang lớn lên.
Mặt khác, để nâng cao trình độ nhận thức của người học, Hồ Chí Minh cho rằng
thầy cô giáo phải có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ, áp đặt và cần
tạo môi trường, điều kiện để người dạy và người học có sự đối thoại, trao đổi trong
quá trình giảng dạy, học tập. Người chỉ rõ “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý”, “được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến,
dù đúng hoặc không đúng cũng vậy", và nhấn mạnh “trong trường, cần có dân chủ.
Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà
phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” và "khi mọi người
đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền
tự do phục tùng chân lý". Một cách cụ thể hơn, Hồ Chí Minh kêu gọi giảng viên
phải biết tôn trọng ý kiến của đồng nghiệp, của sinh viên, không nên có thành kiến
đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình, phải "nêu cao tác phong độc lập suy
nghĩ và tự do tư tưởng","phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực
dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu
tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư
tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân".
Trong mối tương quan giữa người dạy và người học, xét ở góc độ tác động của
người dạy đến người học, thì một giảng viên giỏi là một giảng viên biết hướng dẫn
sinh viên đi tìm chân lý vì vốn dĩ theo Hồ Chí Minh, “lý luận không phải là một cái
gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo”. Để làm được điều này, điều cần thiết là
phải thật sự tạo ra được một môi trường học tập thật dân chủ, trong môi trường này
thầy và trò cùng nhau thảo luận, đối thoại, ở đó không khí thoải mái, hăng hái sẽ
được tạo ra, sinh viên có nhiều cơ hội để thể hiện, phát huy năng lực của mình và
đích đến của nó là sự sáng tạo như lời Người đã nói: “dân chủ, sáng kiến, hăng hái,
ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề
ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm
hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng
hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”. Từ đó,
Người yêu cầu: giảng viên cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng
sinh viên, bày cho họ suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi, đề nghị,.... Khi họ đã có ít nhiều
sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế,
thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính
hăng hái ngày càng nhiều thêm.
Tuy nhiên, để dân chủ trong giáo dục ở nhà trường được hoàn bị, Hồ Chí Minh
yêu cầu “dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là
“cá đối bằng đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công
khai, khách quan, phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, “không
được nói gàn, nói vòng quanh”,… Đó là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong
đối thoại. Cụ thể như việc đọc tài liệu, Người yêu cầu “phải đào sâu hiểu kỹ, không
tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề không thông suốt thì
mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẻ” cũng như đối với bất cứ vấn đề gì đều phải
đặt câu hỏi "vì sao?", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không,
có thật đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách
xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn".
Như vậy, mặc dù đề cao và yêu cầu phải dân chủ, phải nêu cao tác phong độc lập
suy nghĩ, tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng khẳng định không thể có dân chủ quá
trớn hay tùy tiện, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, tự do phải gắn liền với kỷ
cương. Về mối quan hệ này, Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân
dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có
khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà
phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân
chủ” và "không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi.
Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để
bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện.
Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy".
Ngoài ra, việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường, ngoài những yêu
cầu về người thầy, cũng như sự tương tác giữa người dạy và người học, Hồ Chí
Minh cũng đặc biệt quan tâm đến sự tương tác giữa người học đối với người dạy
như nêu ra những yêu cầu về phía người học: “Chúng ta là những người lao động
làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta
học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống
mới... Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động,
mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực
làm chủ của mình”; “con người xã hội chủ nghĩa” - con người toàn diện, “nhất
định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý
luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đạt hiệu quả, bản
thân sinh viên, học sinh phải xác định được ý thức làm chủ, ra sức học tập, nghiên
cứu, phát huy tinh thần tự học để xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước,
người chủ của chính cuộc sống của mình.
Trên đây là nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo
dục ở nhà trường, xuất phát từ quan niệm của Người: “xã hội ngày càng tiến, công
tác của ta cũng phải ngày càng tiến”, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn đổi mới và
phát triển hiện nay của đất nước, tư tưởng đó của Người luôn soi sáng sự nghiệp
trồng người ở Việt Nam, nó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến
lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt
Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh
nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người
làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay. Bài học này
nhắc chúng ta luôn quán triệt rằng một nền giáo dục mới nhất thiết phải thực hiện
tốt dân chủ mới; một nhà trường phát triễn vững mạnh nhất thiết phải có dân chủ
và thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động giáo dục. Dân chủ đó nhất thiết phải gắn
liền kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm khắc đối với
những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động giáo dục bằng những
chế tài nhất định. Đó là tiền đề, là cơ sở cho mọi năng lực của ta, sáng kiến của ta,
tiến bộ của ta luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng xứng đáng là một nền
giáo dục mới Việt Nam mà “con mắt đại bàng của tư duy” của Hồ Chí Minh đã
phát hiện và dày công vun đắp.
II, Nội dung cơ bản của việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường
Trên cơ sỏ tư tưởng HCM về dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Đảng và
nhà nước ta đã xây dựng một bộ chế tài về quy chế dân chủ trong trường học.Trên
cơ sở quy định của Hiến pháp, Pháp luật và Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998
của Bộ Chính trị, Nghị định số 71/1998-NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ,
vào ngày 01/3/2000 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký ban hành Quyết định
số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường.
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà trường nêu rõ: mục đích
của việc thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả
nhất những quy định của Luật Giáo dục theo phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” trong các hoạt động của nhà trường thông qua hình thức
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đảm bảo cho cán bộ, giảng viên, nhân viên
được quyền đóng góp ý kiến, giám sát, kiểm tra, đóng góp cho các hoạt động của
nhà trường. Thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhằm phát huy tiềm năng, trí
tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, cán bộ, công chức, người lao động trong
nhà trường trong quá trình phát triển và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
trường.
Quy chế thực hiện dân chủ trong nhà trường quy định “Hiệu trưởng là người do
cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm, có trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động
của nhà trường” (Điều 4) và “thực hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý nhà
trường. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường phát huy
dân chủ trong hoạt động của nhà trường” (Điều 7).
Những việc Hiệu trưởng cần phải lấy ý kiến đóng góp của các cá nhân và tổ chức,
đoàn thể trước khi ra quyết định:
‒
Kế hoạch phát triển, tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt
động khác của nhà trường.
‒
Quy trình quản lý đào tạo, những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy trong nhà trường.
‒
Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
nhà giáo, cán bộ, công chức.
‒
Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ, sản
xuất của nhà trường.
‒
Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hằng năm, xây dựng
nội quy, quy chế trong nhà trường.
‒
Các báo cáo sơ kết, tổng kết năm học.
Quy chế về thực hiện dân chủ trong Nhà trường cũng nêu rõ những việc nhà giáo,
cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình
thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua tổ chức, đoàn thể trong nhà trường:
‒
Những chủ trương, chính sách, chế độ của nhà trường và nhà nước đối với
nhà giáo, cán bộ, công chức.
‒
Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.
‒
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật nếu có.
‒
Công khai các khoản đóng góp của người học, việc sử dụng kinh phí và chấp
hành chế độ thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành.
‒
Giải quyết các chế độ, quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo,
cán bộ, công chức, người học.
‒
Việc thực hiện thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương,
thuyên chuyển, biểu dương, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.
‒
Những vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi trong năm học.
‒
Báo cáo sơ kết, tổng kết, nhận xét, đánh giá công chức hàng năm.
III, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các trường Đại Học
Theo qui luật phát triển, nơi nào trình độ dân trí cao thì việc thực hiện dân chủ
diễn ra như một quá trình tự nhiên, tất yếu. Nó không chỉ là mục tiêu mà còn là
phương pháp, là công cụ không thể thiếu để tiếp tục phát triển.
Các trường đại học và cao đẳng là một trong những nơi tập trung chất xám, trí tuệ
của xã hội, vì vậy dân chủ cần phải phải được biểu hiện rõ ràng trong mọi hoạt
động của nhà trường, từ hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý,
xây dựng cơ sở vật chất, chương trình đào tạo cho đến tổ chức quản lý, hợp tác đào
tạo, xây dựng môi trường văn hóa học đường... Chỉ như vậy mới huy động và phát
huy năng lực, trí tuệ, sức mạnh của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội vào sự phát
triển của nhà trường.
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường đã được các trường
đại học và cao đẳng ở nước ta triển khai thực hiện từ sau khi được ban hành và do
Hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo. Thực hiện dân chủ cơ sở gắn liền với nhiệm vụ
chính trị của nhà trường, kết hợp với việc củng cố, kiện toàn tổ chức, đặc biệt là
công tác cán bộ, xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh.
Một là, dân chủ trong việc “biết”, “bàn” của cán bộ, giảng viên, nhân viên các
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn cả nước.
Vấn đề đầu tiên trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở chính là “dân biết”, “dân”
trong các trường cao đẳng, đại học chính là đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên
và sinh viên nhà trường.
Tại mục 2 Điều 7 Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT của Bộ Giáo dục và Đào
tạo ngày 01/3/2000 quy định rõ những việc nhà giáo, cán bộ, công chức được biết,
tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc
thông qua các tổ chức, đoàn thể trong nhà truong.
Hai là, dân chủ trong việc “làm” và “kiểm tra” của cán bộ, giảng viên, nhân
viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn cả nước.
Từ tháng 5/2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế thực hiện 3 công
khai đối với các cơ sở giáo dục. Các nội dung của 3 công khai phải được công bố ở
Website của mỗi trường, ở các khoa, thư viện để mọi người dễ tiếp cận, tạo sự
giám sát của xã hội về chất lượng cũng như mọi hoạt động của nhà trường và là
động lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo. Rõ ràng thực hiện dân chủ trong
nhà trường nhằm phát huy quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu
trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, công chức; ngăn chặn các hiện tượng
tiêu cực và tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng nề nếp, trật tự kỷ cương trong mọi
hoạt động của nhà trường, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Ở tất cả các trường đại học, cao đẳng đều có Ban thanh tra giáo dục và Ban thanh
tra nhân dân, trong đó, Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm thực hiện chức năng
giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ, có trách nhiệm lắng nghe ý kiến
của quần chúng, phát hiện những vi phạm quy chế dân chủ trong nhà trường để đề
nghị hiệu trưởng giải quyết. Hiệu trưởng không giải quyết được thì báo cáo lên cấp
có thẩm quyền trong ngành theo phân cấp quản lý để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết.
Tuy nhiên, thành viên của Ban thanh tra nhân dân thường là kiêm nhiệm, do đó chỉ
khi nào có vấn đề nổi cộm xảy ra mới hoạt động, chính vì vậy Ban thanh tra nhân
dân chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong hoạt động của nhà trường.
Trách nhiệm và quyền hạn của nhà giáo, cán bộ, công chức được quy định một
cách cụ thể trong Luật Giáo dục, ngay tại Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT
cũng chỉ rõ 8 vấn đề mà nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến và
kiểm tra, giám sát. Điều 13 Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở trong nhà trường quy
định trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức trong nhà trường (dân chủ đại
diện), trong đó quy định người đứng đầu các đoàn thể, các tổ chức trong nhà
trường là người đại diện cho đoàn thể, tổ chức đó có trách nhiệm: Phối hợp với nhà
trường trong việc tổ chức, thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà
trường. Các tổ chức, đoàn thể tham gia đóng góp ý kiến cho các hoạt động của nhà
trường, phát huy vai trò làm chủ của cán bộ, giảng viên, nhân viên, tạo môi trường
học tập trong sáng, lành mạnh cho sinh viên. Phối hợp với Đảng ủy, chính quyền,
các tổ chức đoàn thể phát động các hoạt động phong trào gắn liền với những nội
dung xác định. Tuy nhiên trên thực tế, các tổ chức này hoàn toàn bị động vì sử
dụng kinh phí của nhà trường; phần lớn là thực hiện theo sự phân công của nhà
trường.
Điều 11 Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT quy định trách nhiệm của nhà
trường – đó cũng là những nội dung cán bộ, giảng viên, nhân viên, sinh viên được
kiểm tra. Kiểm tra là khâu cuối cùng của phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” nhưng là khâu không thể thiếu nhằm đảm bảo cho tổ chức vận
hành trong quỹ đạo của những nguyên tắc đã được quy định, đề cao giá trị dân chủ,
đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là
công cụ, phương thức thực thi dân chủ. Muốn kiểm tra được, tối thiểu cán bộ,
giảng viên, nhân viên, sinh viên phải có quyền được thông tin về mục tiêu đào tạo,
chương trình và quy trình đào tạo, kế hoạch tuyển sinh, các nội quy, quy chế của
nhà trường; về các thông báo công khai các chế độ, chính sách đối với nhà giáo,
cán bộ công chức và người học; về các chế độ đối với người học như: chế độ đóng
học phí, chế độ miễn giảm học phí, chế độ trợ cấp xã hội, chế độ ưu tiên con em
gia đình diện chính sách có công với cách mạng, các chế độ được ở kí túc xá…
Ngoài ra, nhà trường phải đặt hòm thư góp ý hoặc có các hình thức góp ý khác để
cá nhân, tổ chức, đoàn thể trong nhà trường thuận lợi trong việc góp ý kiến.
Trong phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thì kiểm tra là
khâu yếu nhất. Thực tế kiểm tra, giám sát của người học, của cán bộ, giảng viên
chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi những chương trình, chế độ, chính sách liên
quan trực tiếp, thiết thực đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Hoạt động của ban thanh
tra nhân dân chưa phát huy. Thực thi dân chủ hiện nay chưa phát huy hết hiệu
lực.Chất lượng dân chủ đại diện còn thấp, vai trò các đoàn thể chưa rõ nét, đa số
chạy theo phong trào.
Tư duy dân chủ và phương thức lãnh đạo thực thi dân chủ trong điều kiện hiện
nay còn nhiều lúng túng, thiếu kiên quyết, thiếu biện pháp cụ thể, khả thi. Kết quả
thực hiện dân chủ ở cơ sở mới là bước đầu và chưa đồng đều ở các trường, các
khâu. Nhận thức về thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường từ
người học, cán bộ, giảng viên cũng như từ phía lãnh đạo mặc dù có nhiều chuyển
biến nhưng chưa thật sâu sắc, đầy đủ, đồng bộ. Do đó, giữa Quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở và yêu cầu thực tế của quá trình dân chủ hóa vẫn còn khoảng cách lớn.
Vì vậy, chưa huy động sức mạnh trí tuệ phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường đạt chất
lượng và toàn diện là yêu cầu bức thiết đối với tất cả các trường đại học và cao
đẳng ở nước ta hiện nay. Chỉ có thực hiện thật đầy đủ Quy chế dân chủ trong hoạt
động của nhà trường mới làm cho các trường thực sự vững mạnh, đủ sức làm tròn
sứ mạng vẻ vang đối với đất nước.
IV, Thực trạng thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của trường Đại
Học Mỏ - Địa Chất
Qua khảo sát ở 11 trường công lập và 8 trường ngoài công lập ở địa bàn TP.
HCM cho thấy chỉ có 3 trường công lập có trên 45% (nhưng dưới 50%) số người
được hỏi trả lời rằng họ biết rõ các thông tin liên quan đến chế độ công khai tài
chính, có 2 trường công lập con số này từ dưới 10%, các trường công lập còn lại
nằm trong khoảng 30%. Ở khối trường ngoài công lập, vấn đề này được cải thiện.
Có trường đạt trên 50%, còn lại vào khoảng 30% - 40%, cá biệt có trường dưới
20%. Đa số những người được hỏi vẫn cho rằng họ không biết rõ các thông tin về
công khai tài chính, dẫn đến trên thực tế một số quyền lợi, chế độ, chính sách của
cán bộ, công nhân viên chưa được đảm bảo.
Tỉ lệ giảng viên không bao giờ tham gia ý kiến trong tất cả các vấn đề là khá lớn,
cụ thể như sau:
- Kế hoạch tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của
nhà trường trong năm học có: 32%.
- Quy trình quản lý đào tạo, những vấn đề về chức năng nhiệm vụ của các tổ chức
bộ máy trong nhà trường: 38,7%.
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
nhà giáo, cán bộ công chức: 35,6%.
- Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ, sản
xuất của nhà trường: 77,8%.
- Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hàng năm, lề lối làm việc,
xây dựng nội quy, quy chế trong nhà trường: 35%.
- Các báo cáo sơ kết, tổng kết theo định kì trong năm học:30%.
Tỉ lệ giảng viên tham gia ý kiến với mức độ "thỉnh thoảng":
- Kế hoạch tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của
nhà trường trong năm học: 54,2%.
- Quy trình quản lý đào tạo, những vấn đề về chức năng nhiệm vụ của các tổ chức
bộ máy trong nhà trường: 49,4%.
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
nhà giáo, cán bộ công chức: 49,4%.
- Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hàng năm, lề lối làm việc,
xây dựng nội quy, quy chế trong nhà trường: 51,9%.
- Các báo cáo sơ kết, tổng kết theo định kì trong năm học: 42,9%.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các trường đại học, cao đẳng diễn ra
dưới những hình thức khác nhau: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Số liệu
khảo sát cho thấy đa số các ý kiến lựa chọn hình thức tham gia góp ý vào hoạt
động của nhà trường là họp toàn thể cán bộ, công chức lấy ý kiến (100%) và họp
theo các tổ chức đoàn thể lấy ý kiến (66,7%).
Tuy không có số liệu chính thức về tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở trường
Đại Học Mỏ - Địa Chất nhưng qua các số liệu trên ta cũng có thể thấy rằng tình
hình thực hiện dân chủ trong các trường đại học trên địa bàn cả nước nói chung và
trên địa bàn trường Mỏ - Địa Chất nói riêng chưa cao.
Ví dụ như trường có hòm thư góp ý nhưng rất hình thức, chỉ là làm cho có, chẳng
có ý nghĩa, tác dụng gì nhiều. Tâm lý người góp ý e ngại sẽ chẳng ai giải quyết.
Hình thức góp ý trực tiếp với người có thẩm quyền giải quyết cũng không có tác
dụng nhiều lắm, xuất phát từ tâm lý lo ngại hoặc sợ bị trù dập. Việc giải đáp các ý
kiến và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo theo luật định cũng chưa được
quan tâm đúng mức. Định kỳ mỗi năm ít nhất một lần nhà trường gặp gỡ đại diện
của người học để nghe và trao đổi giải quyết những vấn đề về giảng dạy, học tập,
rèn luyện, chế độ, chính sách, về đời sống vật chất, tinh thần và những vấn đề khác
trong nhà trường. Tất cả những nội dung này được quy định cụ thể, rõ ràng trong
Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT nhưng việc tổ chức thực hiện còn khá hình
thức. Một số kiến nghị được nêu ra, lãnh đạo cũng có hứa hẹn giải quyết nhưng
thời gian cứ trôi qua và sự việc vẫn không được giải quyết. Vấn đề đặt ra là ai kiểm
tra? Kiểm tra ai? Kiểm tra cái gì? Nếu phát hiện sai phạm có dám đấu tranh không?
Điều này có nghĩa là chúng ta đang đề cập năng lực kiểm tra, nội dung kiểm tra,
phương pháp kiểm tra để đảm bảo cho công dân, cơ quan, tổ chức được quyền
giám sát, kiểm tra, đóng góp ý kiến tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho
giáo dục thật sự là của dân, do dân và vì dân.
V, Phương hướng nhằm nâng cao việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của
trường Đại Học Mỏ - Địa Chất
Trước tiên cần phải thực hiện tốt các quy chế theo pháp luật quy định:
1. Những chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với nhà giáo,
cán bộ, công chức.
2. Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.
3. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố
cáo.
4. Công khai các khoản đóng góp của người học, việc sử dụng kinh phí và chấp
hành chế độ thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành.
5. Giải quyết các chế độ, quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo, cán
bộ, công chức, cho người học.
6. Việc thực hiện thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương,
thuyên chuyển, điều động, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.
7. Những vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi từng năm học.
8. Báo cáo sơ kết, tổng kết, nhận xét, đánh giá công chức hàng năm.
Ngoài ra nên tổ chức các buổi tham gia tìm hiểu về các quy chế dân chủ trong
trường học (có thể do đoàn thanh niên hoặc nhà trường tổ chức) nhằm tuyên truyền
sâu rộng trong ý thức dân chủ của giảng viên, sinh viên trong nhà trường.Và cũng
có thể phát động cuộc thi về phát huy, thực hiện dân chủ trong nhà trường tới mọi
tầng lớp cán bộ, công nhân viên chức và mọi hệ sinh viên trong trường. Điều này
có tác dụng rất lớn trong việc hình thành và chuyển biến ý thức dân chủ thành bản
năng của mọi người.
Phần kết luận
Tư duy dân chủ và phương thức lãnh đạo thực thi dân chủ trong điều kiện hiện
nay còn nhiều lúng túng, thiếu kiên quyết, thiếu biện pháp cụ thể, khả thi. Kết quả
thực hiện dân chủ ở cơ sở mới là bước đầu và chưa đồng đều ở các trường, các
khâu. Nhận thức về thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường từ
người học, cán bộ, giảng viên cũng như từ phía lãnh đạo mặc dù có nhiều chuyển
biến nhưng chưa thật sâu sắc, đầy đủ, đồng bộ. Do đó, giữa Quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở và yêu cầu thực tế của quá trình dân chủ hóa vẫn còn khoảng cách lớn.
Vì vậy, chưa huy động sức mạnh trí tuệ phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Tư tưởng HCM về dân chủ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc định hướng
cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học
tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai
đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết. Toàn thể nhân dân và Đảng Cộng Sản
Việt Nam tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà
nước đó được xây dựng trên nền tảng lý luận Mác- Lê Nin, tư tưởng HCM và
những điều kiện thực tế hiện nay của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gẵn với phát triển kinh tế tri thức thời mở của, hội nhập quốc tế.
Nhà nước đảm bảo luôn thực hiện đúng đắn và đúng con đường mà Đảng và Bác
đã chọn. Tích cực xây dựng và hoàn thiện về vấn đề dân chủ và mọi lĩnh vực khác
trong xã hội. Trong đó việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực giáo dục là hàng đầu
trong quá trình thực hiện dân chủ toàn dân
Tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường đạt chất
lượng và toàn diện là yêu cầu bức thiết đối với tất cả các trường đại học và cao
đẳng ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Chỉ có thực hiện thật đầy đủ Quy chế dân chủ
trong hoạt động của nhà trường mới làm cho các trường thực sự vững mạnh, đủ
sức làm tròn sứ mạng vẻ vang đối với đất nước.
Trường ta đã trải qua 45 năm xây dựng và phát triển (1966-2011). Trải qua muôn
ngàn những khó khăn gian khổ từ những căn nhà lụp sụp tới có cơ sở khang trang
như hôm nay là minh chứng cho sự nỗ lực của đội ngũ thầy và trò trường ta luôn
biết thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy việc thực hiện dân chủ trong nhà
trường sẽ càng được phát huy tốt trong những năm tiếp theo, để dân chủ sẽ đi sâu
vào trong ý thức của giáo viên và sinh viên trường ta ./.