Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ tại huyện đức thọ, tỉnh hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.17 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐƯỜNG THỊ PHÚ

GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO PHỤ NỮ
TẠI HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

NGHỆ AN - 2015

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐƯỜNG THỊ PHÚ

GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO PHỤ NỮ
TẠI HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. ĐINH THẾ ĐỊNH


2

NGHỆ AN - 2015

2


2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn thạc sĩ với đề tài "Giáo dục Bình đẳng giới
cho phụ nữ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay",
ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tác giả còn nhận được sự hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo của PGS. TS. Đinh Thế Định. Học viên xin tỏ
lòng tri ân sâu sắc tới Thầy.
Tác giả xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục
Chính trị; Phòng Đào tạo Sau Đại học - Trường Đại học Vinh; Hội LHPN
huyện Đức Thọ; Thường trực Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ huyện Đức Thọ
đã tạo điều kiện giúp đỡ và có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá
trình sưu tầm tài liệu, soạn thảo đề cương và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Đường Thị Phú



3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa......................................................................................................1
Lời cảm ơn..........................................................................................................2
Mục lục................................................................................................................3
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn..........................................................4
Danh mục các bảng.............................................................................................5

A. MỞ ĐẦU......................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................6
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................10
3. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................11
6. Đóng góp của đề tài........................................................................11
7. Bố cục của luận văn........................................................................11
B. NỘI DUNG.................................................................................................12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO PHỤ NỮ.................................................................................................12
1.1. Bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ...............12
1.2. Một số quan điểm về giáo dục dục bình đẳng giới và vai trò của
việc giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ....................................27
Kết luận chương 1...............................................................................41
Chương 2
THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO PHỤ NỮ TẠI HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY......42
2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình của huyện Đức Thọ và Hội Liên

hiệp phụ nữ huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.................................42
2.2. Thực trạng bình đẳng giới ở huyện Đức Thọ hiện nay ...............49
2.3. Tình hình giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ tại huyện Đức Thọ,
tĩnh Hà Tĩnh hiện nay.................................................................64


4
Kết luận chương 2...............................................................................77
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC BÌNH
ĐẲNG GIỚI CHO PHỤ NỮ TẠI HUYỆN ĐỨC THỌ,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY..........................................................................78
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ
tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh................................................78
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục bình
đẳng giới cho phụ nữ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
....................................................................................................82
Kết luận chương 3...............................................................................95
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT.......................................................96
1.Kết luận............................................................................................96
2. Kiến nghị, đề xuất...........................................................................97
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................99
PHỤ LỤC......................................................................................................103
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
13

BCH, BTV
BCV, TTV
CLB
CBCNVCLĐ
CNH, HĐH
DNNQD
GDBĐG
HĐND
KHHGĐ
LĐ, TB&XH
LHPN
UBND
UV

Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
Báo cáo viên, tuyên truyền viên
Câu lạc bộ
Cán bộ công nhân, viên chức lao động
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Giáo dục bình đẳng giới
Hội đồng nhân dân

Kế hoạch hóa gia đình
Lao động, Thương binh và Xã hội
Liên hiệp phụ nữ
Ủy ban nhân dân
Ủy viên


5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Tỷ lệ tập hợp Hội viên phụ nữ Đức Thọ, năm 2015.......................47
Đơn vị tính: % 47
Bảng 2.2. Cơ cấu về giới tình tham gia các cấp ủy Đảng ở huyện Đức Thọ,
nhiệm kỳ 2015 - 2020
............................................................63
Bảng 2.3. Cơ cấu về giới tình hình tham gia Hội đồng nhân dân các cấp
ở huyện Đức Thọ, nhiệm kỳ 2011-2016..........................................................63
Bảng 2.4. Cơ cấu về giới tình hình tham gia Chính quyền các cấp
ở huyện Đức Thọ, nhiệm kỳ 2011- 2016.........................................................63
Bảng 2.5. Tính hiệu quả trong công tác tuyên truyền giáo dục
bình đẳng giới cho cho cán bộ, hội viên phụ nữ của tổ chức
Hội liên hiệp phụ nữ Đức Thọ.........................................................................71


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bình đẳng giới là mục tiêu vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, vừa có
tính cấp bách vì bất bình đẳng giới là một trong những nguyên nhân dẫn
đến đói nghèo và là rào cản đối với sự phát triển bền vững của đất nước.

Để xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội cho nam và nữ trong phát
triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn lực tiến tới bình đẳng thực chất
giữa nam và nữ, thiết lập củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, việc giáo dục bình đẳng
giới cho các tầng lớp phụ nữ và nhân dân nói chung đóng vai trò hết sức
quan trọng.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội,
vấn đề bình đẳng giới ngày càng được xã hội quan tâm nhiều hơn. Hội nghị
các quốc gia tại NewYork (Mỹ) năm 2000 đã xác định: bình đẳng giới là một
trong tám mục tiêu của thiên niên kỷ. Ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy bình đẳng nam, nữ như: Luật
Phòng, chống bạo hành phụ nữ; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; đặc biệt
là Luật Bình đẳng giới được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp lần thứ
10 ngày 29 tháng 11 năm 2006. Việc ban hành Luật Bình đẳng giới là sự kiện
có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam và là sự tiếp tục khẳng định
quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập
khu vực và quốc tế.
Với sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, mục tiêu bình đẳng
giới đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tại Hội nghị kiểm điểm thực
hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam được coi
là điểm sáng về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, thuộc nhóm nước có thành


7
tựu khá trong khu vực về chỉ số phát triển giới, xếp thứ 87/144 quốc gia trên
thế giới [35; tr 7].
Có thể nói, bình đẳng giới hiện không phải là vấn đề mới mẻ. Tuy vậy,
cho đến nay vẫn chưa có nhiều cuốn sách viết về đề tài này. Các cuốn sách đã
được xuất bản có nội dung liên quan tới bình đẳng giới chỉ mới ở dạng tài liệu

tuyên truyền, hỏi - đáp về Luật Bình đẳng giới, như cuốn: “Sổ tay tuyên
truyền Luật bình đẳng giới" (dành cho báo cáo viên) của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, do Nhà xuất bản Lao động xã hội xuất bản năm 2007; Hay cuốn
“Hỏi đáp về Luật Bình đẳng giới” của tác giả Luật sư Lê Thị Ngân Giang, do
Nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản 6/2009.
Hầu hết những nghiên cứu về bình đẳng giới đều là những bài viết
được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Như chúng ta cũng nhận
thấy, trên đài, báo, truyền hình, phát thanh, internet... luôn đăng tải các bài
viết, các đề tài nghiên cứu, các cuộc điều tra khảo sát cũng như nhiều thông
tin về vấn đề bình đẳng giới. Trên báo Vietnamnet ngày 09/3/2006 có bài
“Nam nữ bình đẳng: giải pháp nào?” của tác giả TS Nguyễn Sĩ Dũng, hay
bài “Bất bình đẳng giới trong quản trị” của tác giả Nancym Carter và
Christine đăng tải ngày 27/3/2010... Báo Tuổi Trẻ online ngày 8/3/2010 có
bài viết “Hạt nhân của bình đẳng giới” của tác giả Nguyễn Thế Thanh. Ngày
02/12/2010, tác giả Dương Minh Đức có bài “Hội thảo về Công ước Cedaw,
bình đẳng giới và quyền của lao động nữ: nhiều ưu đãi chỉ nằm trên giấy”
đăng trên Laodong.com.vn. Hay trên báo Phụ nữ và đời sống số ra ngày
25/11/2010 có bài “Bình đẳng giới - Một số ý kiến về thực trạng và giải
pháp” của tác giả Lê Thị Thủy... Mỗi bài viết nói về một hoặc một số khía
cạnh khác nhau của tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam hiện
nay và đưa ra một số giải pháp. Tuy nhiên, những vấn đề nghiên cứu, trao
đổi trong các bài viết trên cũng như những giải pháp đưa ra còn rất rời rạc và
thiếu hệ thống.


8
Hiện nay cũng đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học về bình đẳng
giới, ví dụ như đề tài “Bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Hải An. Trong đề tài này, tác giả đề cập đến hiện tượng bất bình
đẳng giới trong đời sống xã hội Việt Nam và đi sâu vào nghiên cứu các

nguyên nhân của hiện tượng này. Hay đề tài “Bình đẳng giới trong lao
động và việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan
Trọng Tín. Với đề tài này, tác giả cũng đã nêu một số khái niệm về “giới”,
“Bình đẳng giới”, “Vai trò giới”; phân tích một số chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới. Nội dung
chính của đề tài nghiên cứu về thực trạng bình đẳng giới trong lao động và
việc làm giai đoạn 2001 - 2006. Đề tài cũng đã đề xuất định hướng bình
đẳng giới về lao động và việc làm trong giai đoạn 2006 - 2010. Cụ thể là
thực hiện có hiệu quả lồng ghép giới vào các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; Đề tài “Nâng cao chất lượng giáo dục bình đẳng giới ở thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay" luận văn Thạc sĩ năm 2010 của tác giả Cung
Thị Quỳnh Trang, đã đề cập đến việc nâng cao chất lượng giáo dục về bình
đẳng giới, đồng thời đã đưa ra thực trạng và một số giải pháp góp phần
nâng cao nhận thức cho mỗi người dân về bình đẳng giới. Nhìn chung, các
nghiên cứu cũng đã nêu lên được thực trạng, nguyên nhân dẫn tới bất bình
đẳng giới, cũng như đưa ra được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hạn chế
tình trạng này trong xã hội Việt Nam. Những bài viết, công trình nghiên
cứu trên đây đã đề cập đến từng cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu trên phạm vi đề tài khoa học bàn về vấn đề
"Giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ" trong phạm vi một địa phương cụ
thể. Chúng tôi thiết nghĩ đây là vấn đề hết sức cần thiết đối với trách nhiệm
của tổ chức Hội nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, hội viên và các tầng
lớp phụ nữ hiểu biết sâu sắc bản chất của bình đẳng giới, từ đó nhận thức
được ý nghĩa, tầm quan trọng của bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong


9
đời sống xã hội và gia đình; nâng cao ý thức cầu tiến, luôn phấn đấu vươn
lên để tự khẳng định vai trò và vị trí của mình trong gia đình và ngoài xã
hội, tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội đặc biệt là các hoạt động
nhằm bảo đảm thực hiện bình đẳng giới thực chất.

Ở Hà Tĩnh, tính đến tháng 6 năm 2014, đã có 12/12 huyện, thị thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Trong đó, huyện Đức
Thọ được đánh giá là huyện dẫn đầu toàn tỉnh về việc hoàn thành các chỉ tiêu,
mục tiêu của Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2013.
Những kết quả đạt được về bình đẳng giới là rất to lớn nhưng trong
thực tế khoảng cách giới và sự phân biệt đối xử về giới vẫn còn tồn tại trong
đời sống xã hội. Ở Đức Thọ hiện nay, định kiến giới và tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn ăn sâu vào nhận thức của đa số người dân, trong đó có hội viên
và các tầng lớp phụ nữ.... Vì vậy, rất cần sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy
Đảng, sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp
trong việc tổ chức thực hiện tốt chương trình hành động vì mục tiêu bình đẳng
giới. Trong đó, Hội LHPN huyện là cơ quan đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho phụ nữ nói riêng và
người dân nói chung, đồng thời tích cực tham mưu, đề xuất các chính sách
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho cán bộ, hội viên và các
tầng lớp phụ nữ góp phần nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền
bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và
nâng cao địa vị của phụ nữ.
Mặt khác, việc giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ sẽ góp phần cung cấp
thông tin, kiến thức cho các thành viên trong gia đình, vì "Phụ nữ có vai trò hết
sức quan trọng trong gia đình, là người mẹ, người vợ, người chị, người thầy đầu
tiên của con người". Nhờ vậy, phụ nữ sẽ tạo sức lan tỏa và có sự định hướng,


10
giáo dục rất hiệu quả góp phần thay đổi thói quen và hành vi gây bất bình đẳng
giới và từng bước thu hẹp khoảng cách giới, tiến tới bình đẳng thực chất và thực
hiện có kết quả mục tiêu của kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia

về bình đẳng giới trên địa bàn huyện Đức Thọ, giai đoạn 2011 - 2020.
Việc giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ là việc làm hết sức quan trọng
giúp cho quá trình thực hiện bình đẳng giới tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
sớm thực hiện thành công chương trình hành động mục tiêu Bình đẳng giới,
giai đoạn 2011 - 2020 sớm trở thành hiện thực.
Là cán bộ chủ chốt của Hội LHPN huyện Đức Thọ, có thời gian công
tác, tham gia hoạt động tại đây, tôi luôn trăn trở và xác định trách nhiệm của
mình phải làm gì để góp phần thực hiện bình đẳng giới của Huyện nhà. Với
những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Giáo dục bình đẳng giới cho
phụ nữ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ tại
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ
hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng
cho phụ nữ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu "Giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ tại Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay".


11
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng bình đẳng giới, từ đó

đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục bình đẳng giới cho phụ
nữ tại Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng,
trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về bình đẳng giới. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội như: lịch sử,
phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, điều tra, khảo sát, mô
tả, lôgíc và liên hệ thực tiễn.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài có thể cung cấp một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục bình đẳng giới cho phụ nữ trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đồng thời làm tư liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp, hội viên và
các tầng lớp phụ nữ, đặc biệt giúp cho lãnh đạo các ban, phòng, ngành, đoàn
thể trong việc chỉ đạo, lãnh đạo, triển khai thực hiện bình đẳng giới trong giai
đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO PHỤ NỮ
1.1. Bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ
1.1.1. Một số khái niệm
- Giới và giới tính
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới do Quốc hội khóa XI thông

qua tại kỳ họp lần thứ 10 ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2007: “Giới (Gender) chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ
trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [40; tr.1]. Giới chỉ sự khác nhau về văn
hóa - xã hội, là một yếu tố quan trọng trong xã hội và chịu ảnh hưởng bởi các
yếu tố lịch sử, văn hóa [40; tr.1].
Theo tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi
chính sách” do Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam xuất bản năm
2004 thì: “Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa
nam giới và phụ nữ”. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho
phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới
rất đa dạng, có thể nhận thức được, có thể thay đổi theo thời gian và có mức
độ khác nhau trong và giữa các nền văn hóa khác nhau.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa: “Giới là một thuật ngữ
chỉ sự khác biệt về xã hội và quan hệ (về quyền lực) giữa nam giới và nữ giới
được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn
hóa và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ
ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới
tính” [45; tr. 1].
Những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể
hiện các đặc trưng xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ


13
thuộc vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các
khu vực, các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về
giới hoàn toàn có thể thay đổi được. Quá trình thay đổi các đặc điểm giới
thường cần nhiều thời gian bởi vì nó đòi hỏi một sự thay đổi trong tư tưởng,
định kiến, nhận thức, thói quen và cách cư xử vốn được coi là mẫu mực của
cả xã hội. Sự thay đổi về mặt xã hội này thường diễn ra chậm và phụ thuộc
vào mong muốn và quyết tâm thay đổi của con người.

Theo ILO, Giới tính (Sex) “Là chỉ sự khác biệt về sinh học giữa nam
giới và nữ giới mang tính toàn cầu và không thay đổi” [45; tr.1].
Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có;
mang tính phổ biến và khó có thể thay đổi. Khác với giới, giới tính không
chịu ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử và văn hóa.
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới : “Giới tính chỉ các đặc điểm
sinh học của nam và nữ” [40; tr.1].
Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất (nam và nữ khắp nơi trên thế giới
đều có chức năng, cơ quan sinh sản giống nhau). Do các yếu tố sinh học quyết
định chúng ta sinh ra là đàn ông hay đàn bà, chúng ta không thể lựa chọn và
không thể thay đổi được điều đó.
- Định kiến giới và phân biệt đối xử về giới
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về
đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và
nam giới có khả năng làm và loại công việc mà họ có thể làm và nên làm; là
tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán
cho là thuộc tính của nam giới hay nữ giới.
Các định kiến giới thường theo xu hướng nhìn nhận ít tích cực, không
phản ánh đúng khả năng thực tế của từng cá nhân dẫn đến việc làm sai lệch và
hạn chế những điều mà một cá nhân nam, nữ có thể làm, cần làm hoặc nên


14
làm. Ví dụ: quan niệm cho rằng người phụ nữ không thể tham gia vào các
hoạt động quản lý, giảm nhẹ thiên tai, chỉ nên coi họ là một trong những đối
tượng cần quan tâm đặc biệt trong thiên tai.
Theo Khoản 5 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới là
việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí
của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời

sống xã hội và gia đình [40; tr. 2].
Theo quy phạm giải thích này, xóa bỏ phân biệt đối xử về giới là xóa
bỏ việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí
của nam và nữ không chỉ bao gồm những hành vi biểu lộ ra bên ngoài một
cách rõ ràng mà còn cả những hành vi ở dạng tiềm ẩn, khó phát hiện có tính
chất nhằm loại trừ hay hạn chế các quyền con người và quyền công dân trên
cơ sở giới tính. Đồng thời, cũng không phải chỉ là những hành vi có tác động
rõ ràng mà còn là cả những hành vi tiềm ẩn mục đích làm tổn hại hoặc vô
hiệu hóa các quyền con người và quyền công dân của nam, nữ. Do đó, việc
lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cần được
quan tâm một cách thích đáng.
Phân biệt đối xử về giới chỉ có thể được xóa bỏ khi các cơ quan, tổ
chức, gia đình và cá nhân hiểu sâu sắc, hiểu đúng và toàn diện những khía
cạnh liên quan đến giới, giới tính và bình đẳng giới để không máy móc, dập
khuôn theo hướng định kiến trong việc nhìn nhận về sự tham gia, đóng góp và
thụ hưởng thành quả từ sự tham gia, đóng góp đó của nam, nữ trong các môi
trường hiện tại mà hướng tới việc tìm ra các khía cạnh kỹ thuật tốt nhất bảo
đảm bình đẳng giới ở các môi trường đó trong tương lai.
- Giáo dục bình đẳng giới
Lộ trình tiến tới bình đẳng giới đưa ra nhiều giải pháp chính nhằm cải
thiện tình hình. Trong đó, giáo dục được quan tâm hàng đầu. Giáo dục bình
đẳng giới phải chú trọng tới hai khía cạnh: giáo dục nhận thức (nội dung) và


15
giáo dục kỹ năng (cách thức). Giải pháp giáo dục bình đẳng giới phải gắn liền
với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới, lồng ghép giới
vào quá trình xây dựng chính sách, chương trình, thực hiện và đánh giá trong
cả lĩnh vực văn hóa và giáo dục. Chính phủ và ngành giáo dục - đào tạo cần
xây dựng và hỗ trợ các chương trình có lợi cho trẻ em gái và phụ nữ, đặc biệt

là các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm bình đẳng giới căn cứ
cụ thể vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi vùng miền.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, thực hiện giáo dục bình đẳng giới cho
mọi người với một trong những mục tiêu là đến năm 2015 về cơ bản xóa bỏ
bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Công tác giáo dục bình đẳng giới là một nhiệm vụ quan trọng được
các cấp lãnh đạo và quản lý, các ban, ngành và toàn xã hội không ngừng
quan tâm.
1.1.2. Mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
- Mục tiêu bình đẳng giới
Bình đẳng giới là mục tiêu của đa số các quốc gia. Dựa trên điều kiện
và hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội, mỗi quốc gia có
con đường đi riêng và mục tiêu bình đẳng giới cũng được xác định phù hợp
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng trong các văn kiện quốc tế về
quyền con người, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước Quốc tế về quyền
trẻ em (CRC), các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs)... Ban hành Luật Bình đẳng
giới thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với nam, nữ, là câu trả lời đầy đủ nhất về các khuyến nghị của Ủy
ban CEDAW với Việt Nam trong việc thực hiện Công ước CEDAW.
Điều 4 Luật Bình đẳng giới xác định mục tiêu bình đẳng giới của Việt
Nam là “xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ


16
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình
đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ
giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” [39; tr.1].
Mục tiêu này chỉ có thể được thực hiện hiệu quả khi các cơ quan, tổ chức, gia

đình và từng cá nhân hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu toàn diện những khía cạnh liên
quan đến giới và bình đẳng giới và thực hiện tốt các trách nhiệm đã được quy
định tại Chương 4 Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 70/2008/NĐ - CP ngày
04/6/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình
đẳng giới và Nghị định số 48/2009/NĐ - CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ
quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Bình đẳng giới - nền tảng phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tại
phiên họp cấp cao Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC)
ngày 28/6/2010, Chủ tịch ECOSOC, ông Hamidon Ali cho rằng bình đẳng
giới, quyền của phụ nữ và không phân biệt đối xử là nền tảng cơ bản để xây
dựng một xã hội phát triển ổn định và bền vững, kể cả thực hiện các Mục tiêu
Thiên niên kỷ.
Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh, chừng nào phụ
nữ và các em gái chưa thoát khỏi đói nghèo và bất công, thì chừng đó tất cả
các mục tiêu của loài người - hòa bình, an ninh và phát triển bền vững - đều bị
tổn hại [38; tr. 13].
Bình đẳng giới là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự
phát triển của một xã hội, một đất nước. Từ đó, vừa là mục tiêu của sự phát
triển vừa là yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Đối với Việt Nam, sự tiến bộ của phụ nữ là yếu tố quan trọng để thực
hiện được mục tiêu bình đẳng giới thực chất và rất cần thiết để tạo điều kiện
cho xã hội phát triển ổn định và bền vững.
Tăng cường sự công bằng về giới cũng giúp cho việc giảm nhanh nạn
nghèo đói, đặc biệt ở nông thôn, miền núi. Đó là những mục tiêu trọng tâm


17
của sự phát triển đất nước trong hiện tại và tương lai lâu dài. Sự công bằng về
giới cũng là một động lực kích thích sự phát triển sáng kiến cá nhân của nam
và nữ, sự nỗ lực của trí tuệ cá nhân (chứ không phải hoàn cảnh gia đình, đẳng

cấp xã hội, giới tính), đó là những yếu tố quyết định thành quả của mỗi công
dân, nam và nữ.
Là một vấn đề xã hội lớn, thực hiện sự bình đẳng giới ở nước ta đòi hỏi
một chiến lược hành động lâu dài, toàn bộ với những sách lược, bước đi, việc
làm cụ thể trong từng thời gian và không gian nhất định, không thể đơn giản,
máy móc, nóng vội hay cắt đoạn giữa cái trước mắt và cái lâu dài.
Kế hoạch hành động Quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam, giai
đoạn 2011 - 2020 là sự tiếp tục thực hiện Chiến lược Quốc gia Vì sự tiến
bộ phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 với mục tiêu tổng quát là “Cải
thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của phụ nữ. Tạo điều
kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của
phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”
[48; tr.28].
Kế hoạch hành động bao gồm 5 mục tiêu chủ yếu như sau:
Mục tiêu 1: Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực
lao động việc làm;
Mục tiêu 2: Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo;
Mục tiêu 3: Cải thiện và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ;
Mục tiêu 4: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của PN trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng tỉ lệ cán bộ nữ tham gia
lãnh đạo. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ và trẻ
em gái trong gia đình và xã hội;
Mục tiêu 5: Tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động vì sự tiến bộ
của phụ nữ. [48; tr. 29].


18
- Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
Trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

(năm 1946), quan điểm bình đẳng giới đã được thể hiện bằng nguyên tắc
“không phân biệt giống nòi, gái trai”; và đã quy định: “tất cả các công dân
Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội” (Điều 6) [37; tr. 2] và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương
diện” (Điều 9) [37 ; tr.2].
Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển phù hợp với xu thế
phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959,
1980, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, quan
điểm này lại được khẳng định tại Điều 63 : “Công dân nữ và nam có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Đặc
biệt, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sữa đổi năm
2013, lại được khẳng định tại điều 26 "Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi
mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơi hội bình đẳng giới". Từ
đó, những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới nói trên đã được cụ thể hóa bằng
các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, công tác xây dựng pháp
luật dựa trên nguyên tắc tiếp cận về quyền bình đẳng giới được Đảng, Nhà
nước, Quốc hội và các cơ quan Nhà nước rất quan tâm.
Quy định về bình đẳng giới trong Hiến pháp mang tính hiến định và là
nội dung xuyên suốt quá trình lập hiến, lập pháp của Việt Nam, là kim chỉ
nam cho mọi quy định khác liên quan đến vấn đề giới ở Việt Nam để đảm bảo
cân bằng giới và bình đẳng giới về mặt pháp lý.
Vấn đề bình đẳng giới được thể chế hóa trong hầu hết các văn bản pháp
luật, đã tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả
nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, như: Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật


19
dạy nghề, Luật Giáo dục, Luật Khoa học và công nghệ, Bộ luật Dân sự, Bộ

luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân,
Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Cư trú, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, Pháp lệnh cán bộ, công chức,… và nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác như các nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
thông tư hướng dẫn của các Bộ, Ngành.
Đặc biệt, ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật Bình đẳng giới đã được
Quốc hội khóa XI thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2007. Luật Bình đẳng giới tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của nam và nữ; đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của
Việt Nam trong việc cụ thể hóa và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền
con người và bình đẳng giới mà Việt Nam là thành viên.
Điều 6 Luật Bình đẳng giới quy định rõ 6 nguyên tắc cơ bản về bình
đẳng giới như sau:
1. Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
2. Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
3. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử
về giới.
4. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối
xử về giới.
5. Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi
pháp luật.
6. Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân. [40; tr. 2].
Thực hiện sự bình đẳng giới nhằm mục tiêu xây dựng sự công bằng xã
hội nói chung và sự công bằng về giới nói riêng. Nhưng, để đi tới sự công
bằng thực sự một cách cơ bản, lâu dài lại không phải là với bất cứ việc gì,


20

trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, với đối tượng cụ thể nào cũng phải tạo ra
một tỷ lệ cân bằng giới 50% nam, 50% nữ được tham gia một công việc cụ
thể hay hưởng thụ một phúc lợi nào đó. Trái lại, cần thận trọng xem xét
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khi thực hiện sự bình đẳng giới trong thực tiễn
đời sống xã hội, vốn luôn luôn vận động và đa dạng. Có như vậy chúng ta
mới đạt được sự công bằng tốt nhất, hợp lý nhất trong những hoàn cảnh cụ
thể, với những đối tượng cụ thể. Sự công bằng, hợp lý trước mắt lại phục vụ
cho mục tiêu lâu dài được đặt ra.
Trong thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, để đạt được bình
đẳng giới thực chất, lâu dài cần thiết phải chú ý đến những nguyên tắc cụ
thể sau:
- Thứ nhất, quan tâm đến môi trường sinh sống cụ thể của nam hay nữ.
Môi trường chi phối những nhu cầu cụ thể của mỗi giới, đồng thời bản thân
nó cũng chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh nước ta, hiện tại và tương lai. Vì vậy,
ở mỗi giới có những nhu cầu trước mắt và lâu dài, có điểm giống nhau, có
điểm khác nhau, đặt trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực hiện sự bình đẳng giới và công bằng xã hội, trước hết đề cập đến
nội dung cụ thể cần tiến hành. Nội dung đó phụ thuộc vào môi trường sinh
sống, làm việc cụ thể của từng giới, ở thành phố khác ở nông thôn, ở đồng
bằng khác ở miền núi, vùng dân tộc ít người. Môi trường sinh sống chi phối
những nhu cầu bức bách của mỗi giới, có cái chung, có cái riêng, có nhu cầu
trước mắt và nhu cầu lâu dài, toàn bộ.
Để thực hiện sự công bằng về giới trong phát triển kinh tế, tìm kiếm
việc làm, tăng thu nhập cho giới nam hay giới nữ thì rõ ràng ở nông thôn có
nội dung khác ở thành thị, miền xuôi khác miền núi. Ở nông thôn, điều quan
trọng nhất đối với cả nam, nữ, ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của họ, kể
cả vị thế của họ trong gia đình, đó là quyền sở hữu ruộng đất, họ có hay
không có, trong gia đình chồng hay vợ là chủ sở hữu, ai là người quyết định



21
nội dung sản xuất của gia đình, nắm giữ tài sản tiền nong làm ra, quyết định
những chi tiêu lớn của gia đình? Ai làm những công việc gia đình không được
trả công nhiều nhất, kể cả việc chăn nuôi tại nhà? Ai quyết định những việc
lớn của gia đình như việc học tập của con cái, việc cưới xin, ma chay... Như
vậy, cần chú ý đến những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến vị thế kinh tế,
xã hội của giới nam và giới nữ trong gia đình và ngoài xã hội ở nông thôn. Từ
đó sẽ có hướng tác động nhằm thiết lập sự bình đẳng giới giữa giới nam và
giới nữ một cách có hiệu quả.
Chúng ta không chỉ chú ý đến những nhu cầu trước mắt mà cần có cái
nhìn hướng về tương lai lâu dài. Cần tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào
các ngành nghề công nghệ cao (điện tử, viễn thông...) đáp ứng nhu cầu về
nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển lâu dài, mạnh mẽ của khoa học
công nghệ ở nước ta. Đó cũng là những nghề phụ nữ sẽ làm tốt do tính cẩn
thận, siêng năng của họ, cùng với trình độ văn hóa được nâng lên nhờ được
học tập, đào tạo có hệ thống.
Ở nông thôn cũng cần thấy hướng phát triển của nhiều ngành nghề phi
nông nghiệp, sự tiếp cận với khoa học kỹ thuật, trong quá trình đô thị hóa,
hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp. Vì vậy, lớp trẻ ở nông thôn, đặc biệt là
phụ nữ chiếm số đông, cần được học tập, có trình độ văn hóa cần thiết để
tham gia vào các ngành nghề mới. Đồng thời, Nhà nước có chế độ trợ cấp, ưu
đãi cho vay vốn, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng... để giữ lớp trẻ, cả nam nữ,
sau khi học tập có bằng cấp ở lại nông thôn xây dựng quê hương mình.
Như vậy, việc thực hiện sự công bằng và bình đẳng giới đặt trong hoàn
cảnh kinh tế - xã hội - văn hóa của Việt Nam, không chỉ nhìn hiện tại trước
mắt mà phải hướng về tương lai lâu dài của sự phát triển đất nước.
- Thứ hai, để thực hiện được sự bình đẳng giới, phải tạo ra cho họ “một
sân chơi bình đẳng”, nam và nữ có những cơ hội như nhau, điều kiện ngang
nhau để hành động trên sân chơi đó. Đồng thời cần chú ý rằng, điểm xuất phát



22
đi lên của mỗi giới lại không giống nhau. Tạo điều kiện, cơ hội như nhau cho
hai giới, nhưng điểm xuất phát đi lên của giới nam khác giới nữ, do đó đòi hỏi
có sự điều chỉnh thích đáng.
Nam và nữ cần có những cơ hội và điều kiện như nhau để thực hiện các
quyền của con người, đóng góp và hưởng thụ từ sự phát triển của xã hội.
Nhưng cơ hội và điều kiện của mỗi giới lại bị ảnh hưởng của điểm xuất phát
đi lên của họ tác động tới.
Điểm xuất phát của nữ nhìn chung thấp hơn nam về trình độ văn hóa,
sự cập nhật các thông tin, sự tiếp cận với nguồn vốn, về thị trường và khả
năng giao dịch, tổ chức sản xuất... Ngay giới nữ ở thành phố cũng có trình độ
văn hóa, có điều kiện tiếp xúc với thông tin, kiến thức hàng ngày nhiều hơn
phụ nữ nông thôn. Ở mỗi cá nhân, nam hay nữ lại có hoàn cảnh gia đình và xã
hội khác nhau, trình độ văn hóa, tình trạng kinh tế khác nhau. Do đó, dù hai
giới có cơ hội như nhau để tham gia vào “sân chơi bình đẳng” nhưng không
phải cơ hội đem lại thuận lợi cho hai giới như nhau để họ khai thác một cách
có lợi nhất cho mình. Họ có điều kiện bình đẳng như nhau để tham gia công
việc xã hội, nhưng điểm xuất phát đi lên của giới nữ thấp hơn giới nam nên
việc sử dụng những điều kiện thuận lợi lại có thể dẫn tới những kết quả cho
giới nữ khác giới nam, không bằng nam. Vì vậy, tạo cơ hội, điều kiện cho hai
giới như nhau rất cần nhưng chưa đủ.
Để đảm bảo sự công bằng thực sự giữa nam và nữ, không chỉ cần tạo
điều kiện, cơ hội như nhau để nữ giới tham gia vào sân chơi bình đẳng mà khi
cần thiết, phải có những ưu tiên cho giới nữ, tạo cho họ những điều kiện, cơ
hội thuận lợi hơn so với nam giới. Nếu thực hiện sự bình đẳng một cách máy
móc sẽ là bất công với giới nữ, vì giới nam vốn có những điều kiện chủ quan
và khách quan thuận lợi hơn giới nữ.
Sự ưu tiên cần thiết cho giới nữ hay giới nam trong việc tham gia
một ngành nghề hay hưởng thụ một phúc lợi công cộng nào đó (ví dụ việc



×