Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ TỐI ƯU VÀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Khái niệm thuế tối ưu:
-
Thuế tối ưu là cơ cấu thuế làm tối đa hoá phúc lợi xã hội, trong đó có tính đến
sự cân đối nguồn thu ngân sách nhà nước.
1.2. Khái niệm gánh nặng phụ trội:
-
Gánh nặng phụ trội là phầ tổn thất phúc lợi xã hội vượt quá só thuế thu được.
Gánh nặng phụ trội còn gội là chi phí phúc lợi xã hội hoặc phần mất trắng.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
1.3.Tác động thay thế và tác động thu nhập:
Ban Đầu, đường ngân sách là IL, tiêu dùng tại A, số lượng X tiêu thụ là X1. Khi giá X
tăng lên sẽ làm đường ngân sách kéo đến II’, tiêu dùng tại B, số lượng X tiêu thụ là X3.
Giả sử, chính phủ trợ cấp nhằm bù lại khoản thiệt hại do tăng giá X thì đường ngân
sách kéo đến KK’, tiêu dung tại C, số lượng X tiêu thụ là X2.
Khoảng cách từ X1 đến X2 là phản ánh sự thay đồi do tác động thay thế..
Khoảng cách từ X2 đến X3 là phản ánh sự thay đồi do tác động thu nhập.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Giải thích tương tự với hàng hoá cấp thấp:
1.4. Phân biệt thuế hiệu quả và thuế tối ưu:
Thuế hiệu quả
Thuế tối ưu
Gánh nặng phụ trội tạo ra ở mức thấp nhất Chấp nhận gánh nặng phụ trội nhưng phải
tối đa phúc lợi xã hội
Thiết kế hệ thống thuế hiệu quả không Thuế tối ưu quan tâm đến việc cân đối thu
xem xét đến cân đối ngân sách
ngân sách
Khuyến khích hệ thống thuế bằng phẳng
Hệ thống thuế phải có sự cân bằng theo
chiều dọc
Không xem xét đến giá trị đạo đức xã hội
Có xem xét đến giá trị đạo đức xã hội
Tính hiệu quả chỉ là một tiêu chí để đánh giá một hệ thống thuế tối ưu
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
CHƯƠNG 2: CÁC LÝ THUYẾT VỀ THUẾ TỐI ƯU
2.1. Thuế hàng hoá tối ưu
2.1.1. Dẫn nhập
Giả sử ông A tiêu thụ hai hàng hóa X, Y và có thời gian nhàn rỗi l. Giá hai loại hàng
hóa lần lượt là Px và Py, tiền lương là w (giá cả của thời gian nhàn rỗi). Số giờ tối đa
một năm ông A có thể làm việc là T cố định. Do đó, thu nhập của ông A là w( T - l).
Giả sử ông A dùng tất cả thu nhập để chi tiêu hai hàng hóa X và Y, giới hạn ngân sách
của ông A là:
w( T - l) = PxX + PyY ⇒ w T = PxX + PyY + wl
Trong đó, w T là giá trị của toàn bộ thời gian ông A làm việc cũng như số thu nhập mà
ông A kiếm được.
Giả sử chính phủ đánh thuế tỷ lệ (t) lên các hàng hóa X, Y và l, ta có:
w T = (1 + t) PxX + (1 + t) PyY + (1 + t) wl (1)
Chia hai vế phương trình cho (1 + t), ta có:
1
w T = PxX + PyY + wl (2)
1+ t
Kết hợp cả hai phương trình trên, có thể nhận xét:
Thuế đánh vào các loại hàng hóa và thời gian nhàn rỗi với thuế suất (t) như nhau tương
đương với việc giảm giá trị thời gian làm việc tối đa/năm. Vì w, T cố định nên w T
cũng cố định
Với giả định dù bất kỳ giá trị tiền lương nào, một cá nhân không thể thay đổi thời gian
làm việc tối đa của mình trong năm, cho nên thuế tỷ lệ đánh vào thời gian làm việc tối
đa có tác dụng như thuế khoán. Phân tích trên cho thấy, thuế khoán không tạo ra gánh
nặng phụ trội. Vì vậy, các loại thuế với mức thuế suất như nhau đánh vào tất cả các
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
hàng hóa thì tương đương như thuế khoán và không tạo ra gánh nặng phụ trội. Tuy
nhiên, trên thực tế, không có chuyện chính phủ đánh thuế vào thời gian nhàn rỗi (l), do
đó, gánh nặng phụ trội là không thể tránh khỏi.
Chính sách đánh thuế hàng hóa tối ưu là lựa chọn các mức thuế suất đánh vào hai hàng
hóa X, Y sao cho gánh nặng phụ trội từ việc gia tăng thuế là ít nhất có thể, như vậy,
biện pháp đơn giản nhất là đánh thuế vào hàng hóa X, Y với cùng một mức thuế suất
như nhau còn gọi là thuế trung lập
2.1.2. Quy tắc Ramsey
2.1.2.1.
Nguyên lý
Về nguyên lý, muốn tối thiểu hóa gánh nặng phụ trội tổng thể, thì gánh nặng phụ trội
biên của đô la thuế cuối cùng thu được từ mỗi hàng hóa phải như nhau
2.1.2.2.
-
Giả định:
Xã hội có hai hàng hóa X, Y
X và Y là hai loại hàng hóa không liên quan đến nhau ( Không phải là hàng hóa
thay thế nhau hay hàng hóa bổ sung cho nhau).
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
.
Đường cầu hàng hoá X là Dx. Giả sử ông A có thể mua hàng hóa X trên thị trường với
giá P0 thì đường cung hàng hóa X là đường nằm ngang.
2.1.2.3. Phân tích gánh nặng vượt biên cho hàng hóa X
- Tính toán gánh nặng phụ trội biên.
Chính phủ đánh ux thuế vào hàng hóa X làm nhu cầu hàng hóa giảm từ X 0 xuống X1 (
∆X ), gánh nặng phụ trội của thuế là diện tích tam giác S(abc).
Giả sử Chính phủ tăng thuế thêm 1 đơn vị, mức thuế là (u x+1), giá cả tăng P0+(ux+1)
làm nhu cầu hàng hóa giảm ∆x tại mức X 2 , gáng nặng phụ trội là S(fec).
Gánh nặng phụ trội biên là chênh lệch giữa 2 tam giác abc và fec là diện tích hình
thang (fbae), ta có:
S(abfe) = 1/2 ∆x { u x + ( u x + 1)}= ∆xu x + 1/2 ∆x (1)
Độ dốc đường cầu:
Dx=
1
u
= x ⇒ ∆Χ = ∆xu x (2)
∆x ∆X
Vì 1/2 ∆x là rất nhỏ nên có thể bỏ qua (3)
Từ (1), (2), (3) ⇒ S(fbae) ≈ ∆Χ
Như vậy, gánh nặng phụ trội biên là ∆Χ
- Tính toán sự thay đổi của số thu thuế
Khi thuế suất là ux, số thu thuế là u x Χ 1 (Tương ứng với S(hbaj))
Khi thuế suất là ( u x + 1), số thu thuế là ( u x + 1) X 2 (Tương ứng với S(gfej))
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Khi thu thuế tăng thêm 1 đơn vị, chính phủ được thêm S(gfih) nhưng mất đi S(ibae), vì
vậy sự thay đổi số thuế thu được là chênh lệch giữa S(gfih) và S(ibae): Χ 2 - ∆xu x
Thay Χ 2 = Χ 1 - ∆x , ∆x =
∆X
, ta có:
ux
Sự thay đổi số thuế thu được = X 1 - ∆Χ(1 + u x )/ u x
Vì (1+ u x )/ u x ≈ 1 nên
Sự thay đổi số thu thuế (Hay thu nhập thuế biên) ≈ Χ 1 - ∆X
Như vậy, thu nhập thuế biên là Χ 1 - ∆X
Kết luận
Gánh nặng phụ trội biên trên một đô la tăng thêm của số thu thuế
= Gánh nặng phụ trội biên/thu nhập thuế biên =
∆X
X 1 − ∆X
Lập luận tương tự với hàng hóa Y khi chính phủ đánh thuế u x lên hàng hóa Y, gánh
nặng phụ trội biên trên một đô la tăng thêm của số thu thuế sẽ là ∆Y /(Y 1 − ∆Y ) .
Với mục đích là tối thiểu hóa gánh nặng phụ trội trên tổng thể, nên gánh nặng phụ trội
biên cho một đô la cuối cùng phải giống nhau cho mỗi loại hàng hóa, tức là
∆Χ ∆Y
∆X
∆Y
=
=
⇒
X1
Y1
X 1 − ∆Χ Y 1 − ∆Y
Phương trình trên nói lên rằng để tối thiểu hóa tổng gánh nặng phụ trội thì thuế suất
nên được thiết kế sao cho tỷ lệ phần trăm giảm đi lượng cầu của các mặt hàng là như
nhau.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Quy tắc Ramsey
Chính phủ nên đánh thuế vào tất cả hàng hóa sao cho tỷ lệ tổn thất biên (MDWL) so
với nguồn thu thuế biên huy động được đối với tất cả hàng hóa là bằng nhau.
Thuế hàng hóa tối ưu=
MDWLi
=α
MRi
Trong đó: MDWL là tổn thất biên do gia tăng thuế vào hàng hóa i
MR là thu nhập biên huy động được từ gia tăng thuế
α : giá trị nguồn thu thuế gia tăng. Hằng số này đo lường giá trị có thêm 1 đồng thuế
của chính phủ so với sử dụng tốt nhất trong khu vực tư.
+ α lớn hàm ý tiền thuế tăng thêm của chính phủ có giá trị lớn hơn giữ trong khu vực
tư.
+ α nhỏ hàm ý tiền thuế tăng thêm của chính phủ có giá trị nhỏ hơn giữ trong khu vực
tư.
Quy tắc Ramsey cho rằng:
Nếu hàng hóa A có MDWL/MR > MDWL/MR khi đánh thuế vào B thì đánh thuế vào
A không hiệu quả so với đánh thuế vào hàng hóa B (tổn thất biên lớn hơn khi thu thêm
1 đồng thuế). Do đó, chính phủ nên giảm thuế đánh trên hàng hóa A và tăng thuế đánh
vào hàng hóa B cho đến khi MDWL/MR bằng α .
α lớn, giá trị tăng thêm nguồn thu đối với chính phủ có giá trị cao hơn
MDWL/MR nên có giá trị lớn đối với tất cả hàng hóa.
α nhỏ,
giá trị tăng thêm nguồn thu đối với chính phủ có giá trị nhỏ hơn
MDWL/MR nên có giá trị nhỏ đối với tất cả hàng hóa.
Chính phủ phải chấp nhận một tổn thất xã hội tiềm năng do đánh thuế gây ra khi có
nhu cầu tăng ngân sách.
Diễn tả công thức Ramsey thông qua độ co giãn đường cầu.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Giả sử khía cạnh cung hàng hóa là cạnh tranh hoàn hảo (co giãn cung ∞ ) thì quy tắc
Ramsey hàm ý như sau:
ti* = −1 / ηi × α
Trong đó:
-
t i* tỷ lệ thuế tối ưu đối với hàng hóa i
η là co giãn cầu của hàng hóa i.
Phương trình trên hàm ý rằng chính phủ nên đánh thuế sao cho thuế suất trên mỗi đơn
vị hàng hóa là tương xứng với 1 trên co giãn của cầu nên đánh thuế cao đối với
những hàng hóa có cầu co giãn ít và ngược lại.
Tóm lại, quy luật Ramsey cho thấy hai yếu tố phải được cân bằng khi thiết lập thuế tối
ưu:
-
Quy luật co giãn: Khi đường cầu hàng hóa co giãn cao, nên đánh thuế với thuế
suất thấp và ngược lại. Tổn thất được tạo ra từ bất kỳ thuế suất nào sẽ gia tăng theo co
giãn của cầu, vì thế hiệu quả được cải thiện bằng việc đánh thuế vào hàng hóa không
co giãn với thuế suất cao hơn và ngược lại.
-
Quy luật đánh thuế trên diện rộng: Tốt hơn nên đánh thuế rộng khắp các loại
hàng hóa với mức thuế suất vừa phải hơn là đánh vào một nhóm hàng hóa với thuế suất
cao. Bởi vì tổn thất từ đánh thuế gia tăng theo bình phương thuế suất, chính phủ nên
đánh thuế trên diện rộng, tránh đánh thuế vào một nhóm hàng hóa với thuế suất cao.
2.1.3. Xem xét về tính công bằng trong mô hình của Ramsey
Giả sử:
-
Người nghèo chi tiêu phần lớn thu nhập của họ cho hàng hóa X lớn hơn so với
người giàu (Ngược lại với hàng hóa Y) (Ví dụ: Hàng hóa X là bánh mì, hàng hóa Y là
trứng cá hồi)
Hàm phúc lợi xã hội gán trọng số về độ thỏa dụng của người nghèo lớn hơn so
với người giàu
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Vậy thì dù hàng hóa X có cầu không co giãn bằng hàng hóa Y, thuế tối ưu có lẽ phải
đòi hỏi một mức thuế cao hơn đánh vào hàng hóa Y so với hàng hóa X, việc này tạo ra
gánh nặng phụ trội tương đối lớn nên nó cũng có xu hướng tái phân phối thu nhập cho
người nghèo. Xã hội có lẽ sẵn lòng trả giá cho một gánh nặng phụ trội cao hơn để đổi
lại phân phối thu nhập công bằng hơn
Tính tối ưu theo quy luật Ramsey phụ thuộc vào hai khía cạnh
Thứ nhất, mức độ thiên hướng theo chủ nghĩa bình quân của xã hội. Nếu xã hội chỉ
quan tâm đến hiệu quả - một đô la đối với người này cũng giống một đô la đối với
người khác thì có lẽ đã tuân thủ nghiêm ngặt quy luật Ramsey
Thứ hai, trong một chừng mực nhất định, cách tiêu dùng của người giàu và người
nghèo là không giống nhau. Nếu cả người giàu và người nghèo đều tiêu dùng hai loại
hàng hóa với cùng một tỷ lệ như nhau thì việc đánh thuế vào những hàng hóa này với
những thuế suất khác nhau không thể gây ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập.
Tóm lại: Nếu tồn tại chính sách thuế khoán thì Chính phủ có thể thu thuế mà không
gây ra bất kỳ gánh nặng phụ trội nào, khi đó thuế tối ưu chỉ cần tập trung vào vấn đề
phân phối. Nếu chính sách thuế khoán không hiện hữu, thì chính phủ phải thu thuế
nhưng gánh nặng phụ trội phải thấp nhất có thể. Việc tối thiểu hoá gánh nặng phụ trội
yêu cầu thuế phải được thiết lập sao cho tất cả hàng hoá được giảm theo cùng tỷ lệ.
2.2.Thuế thu nhập tối ưu
Đánh thuế thu nhập tối ưu là chọn lựa thuế suất giữa các nhóm thu nhập để tối đa hoá
phúc lợi xã hội tuỳ thuộc vào nguồn thu yêu cầu của chính phủ.
2.2.1. Mô hình của Edgeworth
Theo Edgeworth, vấn đề đánh thuế thu nhập tối ưu có thể dựa vào mô hình đơn giản
với ba giả thiết:
-
Dựa vào số thu thuế được yêu cầu, làm sao để tổng thỏa dụng của các cá nhân
tăng lên càng cao càng tốt. Hàm phúc lợi xã hội:
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
-
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Hàm thỏa dụng của các cá nhân là giống nhau, phụ thuộc vào thu nhập của họ.
Hàm thỏa dụng thể hiện tính thỏa dụng biên của thu nhập giảm dần đến không. Khi thu
nhập tăng thì mức thoả dụng của cá nhân sẽ tốt hơn, nhưng với tỷ lệ giảm dần.
Tổng thu nhập khả dụng là cố định.
Từ các giả thiết trên, để tối đa hóa phúc lợi xã hội, thỏa dụng biên thu nhập của các cá
nhân phải bằng nhau. Khi hàm thoả dụng giống nhau, độ thoả dụng biên thu nhập bằng
nhau với điều kiện thu nhập bằng nhau. Yêu cầu đặt ra đối với chính sách thuế là: thuế
nên được thiết kế sao cho sự phân phối thu nhập sau thuế là công bằng. Lấy bớt thu
nhập người giàu vì mức thoả dụng biên của họ mất đi ít hơn người nghèo. Gánh nặng
phụ trội tăng thêm cũng nên được phân phối công bằng. Mô hình của Edgeworth gợi
lên một cấu trúc thuế lũy tiến với hàm ý nên bằng phẳng hoá thu nhập từ những đối
tượng có thu nhập cao cho đến khi đạt sự công bằng hoàn toàn.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
2.2.2. Mô hình tổng quát về ảnh hưởng hành vi
Mô hình của Edgeworth giả định tổng thu nhập xã hội là cố định, không có sự đánh
đổi, không có chi phí hiệu quả thu thuế, vì thế mô hình chỉ tập trung vào việc phân
phối công bằng. Trong thực tế, chính phủ cần quan tâm đến tác động của gia tăng thuế
suất đến quy mô cơ sở thuế.
Xét ví dụ về thuế đánh vào thu nhập lao động. Một sự gia tăng thuế suất đánh vào thu
nhập lao động sẽ có 2 tác động đến nguồn thu thuế:
-
Thứ nhất tiền thu thuế sẽ tăng đối với một mức thu nhập lao động nhất định
-
Thứ 2 người lao động sẽ giảm số tiền thu nhập lao động mà họ kiếm được và cơ
sở thuế sẽ bị thu hẹp
Trường hợp thuế làm tăng cung lao động
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
Trường hợp thuế làm giảm cung lao động
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Hai tác động này được khái quát thành đường cong Laffer:
Thuế thu nhập tối ưu được xác định:
Trong đó:
-
MU: thỏa dụng biên cá nhân i
MR: số thu thuế biên từ cá nhân i
λ: giá trị tiền thuế tăng thêm
Việc đánh thuế cao dẫn đến làm giảm thấp tiêu dùng cá nhân và nâng cao thỏa dụng
biên tiêu dùng đối với cá nhân i. Nếu hệ thống thuế TNCN để cho cá nhân i với thoả
dụng biên tối cao hơn/đô la thu thuế hơn là cá nhân j, thì công thức này gợi lên hàm ý
nên đánh thuế thấp vào cá nhân I và gia tăng thuế đánh vào j. Một sự dịch chuyển như
thế sẽ làm tăng thu nhập sau khi đánh thuế của I, tăng tiêu dùng, giảm thoả dụng biên
và làm giảm thấp thu nhập j, giảm tiêu dùng và gia tăng thoả dụng .
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Kết quả này phản ánh một sự sắp xếp hai khía cạnh đánh thuế thu nhập tối ưu:
-
Công bằng theo chiều dọc: phúc lợi xã hội được tối đa hóa khi có những người
có mức tiêu dùng cao (thỏa dụng biên thấp) bị đánh thuế cao; và những người có mức
tiêu dùng thấp (thỏa dụng biên cao) bị đánh thuế thấp.
Phản ánh hành vi: Khi đánh thuế cao vào bất kỳ một nhóm nào đó, họ phản ứng
bằng cách giảm làm việc, thu nhập giảm thấp. Điều này có nghĩ là một sự gia tăng
thêm thuế suất thì nguồn huy động sẽ giảm do cơ sở đánh thuế nhỏ hơn.
Như vậy, Khi xem xét liệu có nênáp dụng thuế luỹ tiến không, chính phủ cần cân bằng
2 khía cạnh: điều chỉnh thoả dụng biên cho người giàu và người lao động sao cho công
bằng, đánh thuếu vào người giàu cao hơn
Hình vẽ sau đây cho thấy đánh thuế thu nhập tối ưu đánh đồng tỷ lệ thuế giữa các
cá nhân, hướng thuế suất cao hơn đối với người giàu:
2.2.3.Các nghiên cứu hiện đại về thuế tối ưu
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất của mô hình Edgeworth là giả định: tổng
thu nhập hiện hữu của xã hội là cố định. Các mức thuế suất được giả định là không tác
động đến đầu ra/sản lượng. Thật ra, thực tế cho thấy mức độ thoả dụng của cá nhân
không chỉ phụ thuộc vào thu nhập mà còn phụ thuộc vào thời gian giải trí. Thế thì, thuế
thu nhập làm bóp méo các quyết định liên quan đến việc làm và tạo ra gánh nặng phụ
trội. Sự thiết kế hệ thống thuế tối ưu cần phải xem xét đến chi phí (gánh nặng phụ trội)
để đạt được công bằng hơn. Trong mô hình Edgeworth, chi phí để đạt công bằng hơn là
zero, điều này cũng nói lên sự ràng buộc để có được kết quả chủ nghĩa bình quân hoàn
hảo.
Kết quả của mô hình Edgeworth sẽ thay đổi thế nào nếu như mọi người quan tâm đến
động lực làm việc? Để trả lời câu hỏi đó, một số nhà nghiên cứu kinh tế (Stern, 1987)
đã đưa ra một mô hình của Edgeworth, với giả định lựa chọn giữa thu nhập và thời
gian nhàn rỗi. Để đơn giản cho phân tích, Stern giả sử rằng số thuế thu được từ một cá
nhân bất kỳ là:
Trong đó:
•
•
•
T(wl): số thuế thu được;
g: khoản trợ cấp của chính phủ;
t: thuế suất đánh vào thu nhập wl.
Giả sử: g = 4.000 $, t = 0.2, thì một người có thu nhập 25.000$ sẽ phải nộp thuế:
1.000 $ = - 4.000 $ + 0.2 x 25.000 $
Nếu một người có thu nhập 10.000 $, thì nợ thuế âm (-2.000 $). Người này sẽ nhận
được một khoản trợ cấp g từ chính phủ.
-2.000 $ = -4.000$ + 0.2 x 10.000$
Thuế thu nhập tuyến tính và trợ cấp
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Ở hình trên, trục hoành biểu thị thu nhập và trục tung là thu nhập thuế. Khi thu nhập
bằng 0, gánh nặng thuế phụ trội là âm, và cá nhân nhận được khoản trợ cấp khoán của
chính phủ là g đô la. Như thế, đối với mỗi đô la thu nhập thì cá nhân phải trả t đô la
thuế. Với t là thuế suất biên – tỷ lệ thuế phải nộp cho chính phủ trên một đô la thu nhập
tăng thêm. Theo hình 1.5 thì thuế thu nhập là đường tuyến tính. Mặc dù, thuế suất biên
của đường thuế thu nhập tuyến tính không đổi, nhưng đó là đường có tính luỹ tiến, vì
thu nhập của cá nhân càng cao thì tỷ lệ thu nhập nộp thuế càng cao. Tính luỹ tiến phụ
thuộc vào giá trị của g và t. Giá trị của t càng lớn thì càng tương ứng với hệ thống thuế
luỹ tiến. Đồng thời với giá trị cao của t, làm hệ thống càng luỹ tiến thì gánh nặng phụ
trội càng lớn. Vấn đề đặt ra đối với thuế thu nhập tối ưu là phải tìm ra sự liên kết tốt
nhất giữa g và t – phản ánh những giá trị làm tối đa hoá phúc lợi xã hội tuỳ thuộc vào
giới hạn số thuế thu được.
Stern cho rằng chấp nhận một số lượng thay thế vừa phải giữa thời gian nhàn rỗi và thu
nhập, và với số thuế yêu cầu của chính phủ bằng khoản 20% thu nhập, thì một giá trị t
vào khoản 19% làm tối đa hoá phúc lợi xã hội. Đây là con số không đáng kể với con số
100% trong mô hình phân tích của Edgeworth. Thậm chí những tác động ở mức vừa
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
phải dường như có ý nghĩa quan trọng cho việc xây dựng hệ thống thuế suất biên tối
ưu. Một cách ngẫu nhiên, thuế suất do Stern tính toán cũng nhỏ hơn nhiều so với thuế
suất ở nhiều nước phương Tây. Chẳng hạn, đối với thuế thu nhập cá nhân của Mỹ, thuế
suất biên cao nhất theo pháp định là 39,6%, nhưng đôi khi là 90%. Stern cho thấy nếu
như những yếu tố khác không đổi, cung lao động càng co giãn, thì giá trị tối ưu của t
càng thấp. Cung lao động càng co giãn thì gánh nặng phụ trội được gây ra từ việc đánh
thuế càng lớn. Vì thế, cung lao động càng co giãn co giãn, chi phí tái phân phối càng
cao. Để thấy rõ hàm phúc lợi xã hội thay thế gây tác động thế nào đến kết quả, Stern
tập trung nghiên cứu hiệu ứng của việc đưa ra các trọng số xã hội khác nhau đến mức
thoả dụng của người giàu và người nghèo. Càng gán cho mức thoả dụng của người
nghèo có trọng số cao hơn mức thoả dụng của người giàu thì xã hội càng có thiên
hướng lựa chọn theo chủ nghĩa bình quân. Một trường hợp rất thú vị nữa là tiêu chuẩn
tối đa hoá. Stern phát hiện tiêu chuẩn tối đa đòi hỏi thuế suất biên ở mức 80%. Không
có gì đáng ngạc nghiên, nếu như xã hội có đeo đuổi mục tiêu chủ nghĩa bình quân, thì
đòi hỏi phải thực thi chính sách thuế cao.
Một trong những hạn chế của mô hình phân tích của Stern là hệ thống thuế thu nhập
chỉ có một thuế suất biên duy nhất. Gruber và Saez (2003) đã nghiên cứu một mô hình
tổng quát hơn với việc tính đến bốn mưcs thuế suất biên. Kết quả nghiên cứu của họ
cho rằng những người thuộc nhóm thu nhập cao sẽ chịu thuế suất biên thấp hơn so với
những người thuộc nhóm thu nhập thấp. Tuy vậy, kết quả thực tế hoàn toàn ngược lại,
trong hệ thống thuế thu nhập của thế giới thực, thuế suất biên gia tăng cùng với thu
nhập.
Nói tóm lại, việc liệt kê kết quả các nghiên cứu trên cho thấy việc phân tích mô hình
thuế tối ưu giữa các nhà kinh tế có phần nào không thống nhất với nhau. Hiện vẫn còn
nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về phúc lợi xã hội mà hệ thống thuế tối ưu cần phải
tối đa hoá. Thực ra, đánh giá hệ thống thuế tối ưu cũng không thể phụ thuộc nhiều vào
sự tính toán hay ước lượng mà ở chừng mực nhất định còn phụ thuộc sự đánh giá giá
trị đạo đức xã hội.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
CHƯƠNG 3: CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
3.1 Tổng quan về chính sách thuế đối với các nước đang phát triển
Tại sao chúng ta có thuế khoá? Câu trả lời đơn giản là: cho đến khi có một phương
thức khác ra đời thì thuế khoá là phương tiện thực tiễn duy nhất để huy động nguồn thu
nhằm tài trợ việc chi tiêu của chính phủ cho những hàng hóa và dịch vụ mà phần lớn
chúng ta đều có nhu cầu. Tuy nhiên, việc thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hữu
hiệu thì thật sự không đơn giản chút, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển
(trong đó có Việt Nam) muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hệ thống thuế lý
tưởng tại các quốc gia này sẽ huy động nguồn thu mà không có sự vay mượn quá nhiều
của chính phủ,không gây những tác động tiêu cực vào các hoạt động kinh tế và không
khác biệt quá nhiều so với hệ thống thuế tại các nước khác.
Các quốc gia đang phát triển đứng trước nhiều thách thức khi họ cố gắng thiết lập
những hệ thống thuế hữu hiệu. Có một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đa số người lao động tại các quốc gia này thường làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp hay các cơ sở kinh doanh nhỏ, phi chính thức. Vì hiếm khi họ
được trả lương cố định và đều đặn nên thu nhập của họ biến động, và phần lớn
được trả bằng tiền mặt, “ngoài sổ sách”. Do đó, khó mà tính toán cơ sở cho
thuế thu nhập. Người lao động tại các quốc gia này cũng thường không chi tiêu
thu nhập của mình trong những cửa hàng lớn có lưu trữ hồ sơ bán hàng và hồ
sơ hàng tồn kho chính xác. Kết quả là các phương tiện huy động nguồn thu
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
hiện đại như thuế thu nhập và thuế tiêu dùng đóng một vai trò nhỏ bé tại các
nền kinh tế này và khả năng chính phủ đạt được số thu thuế cao gần như bị loại
trừ.
Thứ hai, thật khó mà tạo ra một hệ thống quản lý thuế hiệu quả mà không có
những nhân viên được đào tạo tốt và có trình độ giỏi, khi mà thu nhập của các
nhân viên thuế và để vi tính hoá hoạt động (hay thậm chí chỉ để trang bị hệ
thống điện thoại và thư tín một cách hiệu quả), và khi khả năng lưu trữ sổ sách
kế toán của người nộp thuế chỉ có hạn. Kết quả là chính phủ các nước thường
chọn con đường dễ dàng nhất, triển khai những hệ thống thuế cho phép họ khai
thác phương án nào có sẵn chứ không phải thiết lập những hệ thống thuế hiệu
quả, hiện đại và hợp lý.
Thứ ba, do cơ cấu phi chính thức của nền kinh tế tại nhiều quốc gia đang phát
triển và do những giới hạn về tài chính, các nhân viên thống kê và nhân viên
thuế gặp khó khăn trong việc xây dựng những số liệu thống kê đáng tin cậy.
Tình trạng thiếu số liệu này ngăn các nhà hoạch định chính sách không thể
đánh giá được tác động tiềm năng của những thay đổi lớn đối với hệ thống
thuế.
Thứ tư, thu nhập có xu hướng được phân phối không đồng đều trong các nước
đang phát triển. Trong tình huống này, cho dù việc huy động số thu thuế cao
hơn một cách lý tưởng là buộc người giàu phải bị đánh thuế nặng hơn so với
người nghèo, nhưng thế lực kinh tế và chính trị của những người nộp thuế giàu
có thường cho phép họ ngăn cản những chính sách làm tăng gánh nặng thuế
của chính họ. Điều này giải thích một phần lý do tại sao nhiều nước đang phát
triển không khai thác được thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản một cách đầy
đủ, và tại sao hệ thống thuế tại các nước này hiếm khi đạt được tính luỹ tiến
một cách thỏa đáng (nói cách khác, tính luỹ tiến có nghĩa là người giàu phải
nộp nhiều thuế nhiều hơn một cách cân xứng theo tỷ lệ).
Kết luận là, tại các nước đang phát triển, chính sách thuế thường khó đạt được sự
tối ưu.
Thách thức chính sách thuế mà các nước đang phát triển đang phải đối phó:
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Những nước đang phát triển đang ra sức trở nên hội nhập hoàn toàn vào nền kinh
tế thế giới có lẽ phải cần đến một số thu thuế cao hơn nếu họ theo đuổi vai trò
chính phủ gần giống với vai trò chính phủ của các quốc gia công nghiệp, vốn đang
có số thu thuế bình quân cao gấp đôi. Các nước đang phát triển sẽ cần phải giảm
mạnh sự trông cậy vào thuế xuất nhập khẩu, nhưng đồng thời cũng không gây ra
tình trạng nản lòng trong hoạt động kinh tế, đặc biệt khi huy động số thu nhiều hơn
từ thuế thu nhập cá nhân. Để đáp ứng trước những thách thức này, các nhà hoạch
định chính sách tại các nước đang phát triển sẽ phải đặt ưu tiên chính sách một
cách đúng đắn và có sức mạnh chính trị để thực hiện những cuộc cải cách cần thiết.
Công tác quản lý thuế phải được củng cố để đi kèm với những thay đổi chính sách
cần thiết.
Khi các hàng rào thương mại được hạ xuống và vốn trở nên lưu thông hơn, việc
xây dựng chính sách thuế vững chắc đặt ra những thách thức cho các nước đang
phát triển. Nhu cầu phải thay thuế xuất nhập khẩu bằng thuế nội địa sẽ đi kèm với
những mối quan ngại ngày càng tăng về sự chuyển hướng lợi nhuận bởi các nhà
đầu tư nước ngoài, trong khi các điều khoản qui định yếu kém để tránh lạm dụng
thuế trong luật thuế cũng như việc đào tạo kỹ thuật không đầy đủ cho các nhà kiểm
toán thuế tại nhiều quốc gia đang phát triển hiện vẫn không thể ngăn chặn được
tình trạng này. Do đó, một nỗ lực phối hợp để xoá bỏ những yếu kém này là điều
khẩn thiết hàng đầu. Cuối cùng, thuế thu nhập cá nhân đang đóng góp rất ít cho
tổng số thu thuế tại nhiều quốc gia đang phát triển. Ngoài những xem xét về cơ
cấu, chính sách, và quản lý, tình trạng thu nhập cá nhân có thể dễ dàng được đầu tư
ra nước ngoài cũng là một yếu tố đáng kể dẫn đến kết cục này. Do đó, đánh thuế
thu nhập cá nhân là một thách thức đối với các nước đang phát triển.
3.2. Thực trạng hệ thống thuế Việt Nam
Theo báo cáo, kinh tế đất nước đang trải qua những năm tháng khó khăn nhất kể từ
khi bắt đầu đổi mới vào những năm đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế liên
tục suy giảm, từ mức trên 8,2% trong giai đoạn 2004-2007, xuống còn xấp xỉ 6%
trong giai đoạn 2008-2011. Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát liên tục ở mức cao, thâm
hụt thương mại trầm trọng, đặc biệt thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh.
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây lên tới xấp xỉ 5-6% GDP, nợ công
và nợ công nước ngoài lần lượt tăng nhanh lên mức 57% và 42% GDP vào cuối
năm 2010.
Trong khi nhu cầu chi tiếp tục gia tăng thì nguồn thu ngân sách có nhiều dấu hiệu
bất ổn, và quá lệ thuộc vào thuế, phí. Báo cáo của Ủy ban chỉ ra rằng, tỷ lệ thuế và
phí ở Việt Nam vào hàng cao nhất khu vực vậy mà nguồn thu đang có dấu hiệu
kém bền vững này lại được sử dụng chưa hợp lý. Dựa trên các số liệu từ Bộ Tài
chính, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế nhận thấy thu ngân sách của Việt
Nam giai đoạn 2007 - 2011 khá ổn định, khoảng 29% GDP. Trong đó thu từ thuế phí là 26,3%, trong đó thu từ dầu thô đang có xu hướng giảm. Nếu loại trừ nguồn
này, tỷ lệ thuế - phí so với GDP là 21,6%.
“Mức này rất cao so các nước khác trong khu vực”, báo cáo nhận định. Cùng với
những thiệt thòi do lạm phát, Ủy ban Kinh tế cho rằng người Việt đang phải gánh
chịu tỷ lệ thuế phí cao từ 1,4 đến 3 lần so với những nước láng giềng.
Xét riêng về thuế thu nhập, các chuyên gia nhận thấy, Việt Nam có các thang bậc
thuế suất khá tương đồng so với các nước trong khu vực, song khoảng thu nhập
chịu các thang thuế suất tương ứng lại thấp, nên tính chung số thuế phải nộp là khá
cao so với khu vực. Ví dụ mức thu nhập phải chịu thuế 10% tại Việt Nam khoảng
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
3.450 - 5.175 USD một năm, thì ở Thái Lan là 4.900 - 16.400 USD, Trung Quốc là
3.800 - 9.500 USD một năm. Tương tự với thuế thu nhập doanh nghiệp hiện được
thu ở mức 25% đối với mọi doanh nghiệp, trong khi tại các nước, thuế suất dao
động 2 - 30%. Đó là chưa kể đến các khoản thuế cao đánh vào tiêu dùng thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu) cũng như các khoản chi phí không chính thức khác.
Theo báo cáo, do thuế phí cao, khả năng tích lũy, đầu tư phát triển và nâng cao
năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân đã bị hạn chế đáng kể. Nó cũng khuyến
khích các hành vi gian lận về thuế như chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI. Theo
đó khu vực này chiếm khoảng 20% GDP nhưng chỉ đóng góp trên dưới 10% thu
ngân sách.
Một hệ quả khác là nguồn thu ngân sách ngày càng trở nên kém bền vững. Việt
Nam hiện có 3 nguồn thu chính vào ngân sách là thuế giá trị gia tăng, thu nhập
doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu - tiêu thụ đặc biệt. Do kinh tế khó khăn,
nguồn thu từ thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng giảm từ 36% (2006 - 2008)
xuống còn 28% trong giai đoạn 2009 - 2011, làm gia tăng sự phụ thuộc vào 2
nguồn còn lại (tăng từ 10% năm 2006 lên 14,5% năm 2010). Điều này hoàn toàn
không có lợi khi Việt Nam đang phải gỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan nêu trên
trong những năm tới theo cam kết WTO.
Một nguồn thu khác cũng được báo cáo đề cập là từ bán nhà thuộc sở hữu nhà
nước và chuyển quyền sử dụng đất. “Tuy nhiên, về bản chất, việc làm này cũng
giống như việc một cá nhân bán tài sản đi để chi tiêu. Khoản vay nợ của anh ta có
thể giảm nhưng tài sản của anh ta cũng giảm tương ứng, tức là anh ta đã nghèo đi”,
nhóm nghiên cứu so sánh.
Đứng trước thực tế này, báo cáo của Ủy ban Kinh tế cho rằng nguyên nhân chính
gây áp lực lên ngân sách chính là do áp lực chi tiêu công quá lớn trong thời gian
dài. Quy mô chi tiêu tối ưu được các chuyên gia khuyến cáo đối với các nền kinh
tế đang phát triển nằm trong khoảng 15-20% GDP. Số liệu so sánh quốc tế của
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Hong Kong, Đài Loan (Trung Quốc),
Indonesia, Singapore và Ấn Độ đều có mức chi tiêu trong khoảng 15-18% GDP.
Trong khi đó, từ nhiều năm qua, chi tiêu của Việt Nam đang nằm ở phía trên rất xa
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
ngưỡng tối ưu này, ở mức hơn 30% GDP. Con số này thậm chí còn cao hơn cả giai
đoạn cuối thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa (22% vào năm 1990).
Lo ngại hơn, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong tổng chi tiêu hiện tại, chi
thường xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, trong khi đầu tư phát triển lại có xu hướng
giảm (từ 36,8% năm 2003 xuống còn 24,6% trong năm 2011). “Điều này phần nào
cho thấy sự cồng kềnh và chi tiêu tốn kém của bộ máy công quyền”, báo cáo nhận
định.
3.3 Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam
Việt Nam đang từng bước tiến hành cải cách pháp luật về thuế và hiện đại hóa
quản lý thuế. Trong hai thập kỷ qua, hệ thống thuế trải qua ba giai đoạn cải cách,
và giai đoạn cải cách thứ ba hiện nay đang được thúc đẩy do Việt nam gia tăng hội
nhập vào nền kinh tế thế giới với nỗ lực gia nhập WTO.
Việc đánh giá và nghiên cứu nhằm tìm ra các vấn đề mấu chốt đang tồn tại và cần
được chú ý để hướng đến một “Hệ thống thuế tốt”, nghĩa là công bằng, có hiệu quả
kinh tế, ổn định và hiệu quả về mặt kỹ thuật.
Những điểm cần cải thiện
Thuế GTGT
Tiếp tục đơn giản hóa các sắc thuế sẽ mang lại hiệu suất kinh tế cao hơn. Đối với
thuế GTGT, giảm số thuế suất (hiện nay là 10%, 5% và 0%) và áp dụng cơ cấu đơn
giản hơn với chỉ một thuế suất là 10%, ngoài thuế suất 0% ra, sẽ là hướng đi đúng.
Việc áp dụng nhiều thuế suất khác nhau hiện nay tuy có tạo thêm một chút công
bằng nhưng nó lại gây phiền hà và tạo cơ hội phân loại sai các giao dịch chịu thuế.
Việc chỉ áp dụng một mức thuế suất sẽ giúp giảm chi phí tuân thủ do giảm yêu cầu
ghi sổ và hóa đơn và đồng thời tạo cơ hội đơn giản hóa biểu mẫu khai thuế. Tương
tự như vậy, quá nhiều các mục miễn giảm (hiện nay là 26) dẫn đến các vấn đề hành
chính và tuân thủ đối với những người kinh doanh cả các mặt hàng được miễn thuế
và không được miễn thuế. Nghiêm trọng hơn, miễn giảm thuế có nguy cơ phá vỡ
chuỗi thuế GTGT và dẫn đến đánh thuế toàn bộ chuỗi giá trị trùng lắp, như đã thấy
trong trường hợp thuế doanh thu. Cần rà soát kỹ các mục miễn giảm hiện nay và
tốt nhất là chỉ nên giữ lại một số ít trong số các mục đó.
Thuế TNDN
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21
Đề tài : Thuế tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Thuế TNDN hiện cũng đang áp dụng nhiều thuế suất tỉ lệ khác nhau, trong đó thuế
suất phổ thông là 25%. Điều này đã làm cho công tác quản lý trở nên phức tạp.
Ngoài ra, chế độ thuế TNDN hiện nay cũng áp dụng các qui tắc khấu hao phức tạp,
bao gồm 53 loại tài sản và có thể áp 3 chế độ khác nhau. Để thực hiện chế độ hiện
hành phải phân loại và duy trì mỗi loại tài sản cố định vào một hồ sơ và ghi chép
vào một sổ ghi tài sản riêng, được đánh số và gắn thẻ trên đó có ghi các số liệu
thống kê. Cách tốt hơn là gộp tất cả các loại tài sản vào 4-5 nhóm lớn và khấu hao
nhóm theo phương pháp số dư giảm dần. Khi bổ sung tài sản, nhóm sẽ tăng, khi
bán tài sản, nhóm sẽ giảm. Chế độ khuyến khích ưu đãi trong hệ thống thuế TNDN
của Việt Nam cũng phức tạp và làm cho việc đạt được mục tiêu khó hơn. Có trên
300 qui tắc xác định quyền được hưởng và điều kiện áp dụng. Nhưng nhiều qui tắc
này lại chồng chéo nhau, một số thậm chí mâu thuẫn nhau. Ngoài ra, hệ thống ưu
đãi chỉ có hiệu quả phần nào như các cuộc điều tra doanh nghiệp cho thấy phần lớn
đối tượng hưởng ưu đãi sẽ vẫn tiến hành đầu tư theo cùng hình thức cũ và tại chính
địa điểm đó ngay cả khi không có các khoản ưu đãi khuyến khích.
Thuế TNCN
Thuế TNCN cũng cần phải đơn giản hóa. Hiện nay qui định 7 nhóm thu nhập bậc
thuế, trong khi chỉ cần 4 nhóm bậc như trong chế độ cũ là có thể đã đủ đảm bảo
tính lũy tiến của loại thuế này. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nếu qui định quá
nhiều nhóm thu nhập bậc thuế sẽ làm phức tạp công tác quản lý và khuyến khích
trốn thuế trong khi không có nhiều tác dụng tạo ra công bằng. Đáng chú ý là các
nhóm này không được điều chỉnh theo lạm phát và sẽ dẫn đến tăng số người nộp
thuế tiềm năng vốn đã cao. Do các hộ kinh doanh sẽ chuyển từ thuế TNDN sang
thuế TNCN nên thuế suất tối đa trong thuế TNCN cũng cần phải bằng mức tương
ứng trong thuế TNDN. Với mức 35% như hiện nay thì thuế suất này cao hơn rất
nhiều.
Hệ thống thuế Việt Nam vẫn chưa cân bằng. Một vài sắc loại thuế mang lại nguồn
thu rất thấp, dưới 1% trong tổng thu. Có thể áp dụng các biện pháp như gộp các loại
thuế, phí và lệ phí nhỏ vào thành các nhóm lớn, nhưng như thế sẽ làm cho hệ thống trở
nên phức tạp không cần thiết. Trong khi đó, các loại thuế có tiềm năng ảnh hưởng tới
Nhóm 3- Lớp TCDN Đêm 2- K21