THỜI HẠN KHIẾU NẠI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI:
PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN TÀI PHÁN VÀ CÁC QUAN ĐIỂM
Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) không còn quy định: “quá thời hạn khiếu nại, bên có
quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại trọng tài, toà án có thẩm quyền” như khoản
1 Điều 241 Luật Thương mại 1997 (LTM 1997). Thực tế lập pháp đó làm nảy sinh vấn
đề: tòa án hay trọng tài phải quyết định như thế nào trong trường hợp tương tự, khi không
còn quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý của việc bỏ qua thời hạn khiếu nại?
I. Thời hạn khiếu nại theo LTM 1997 và thực tiễn tài phán
1. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 không quy định về thời hạn khiếu nại. Bởi vậy,
vấn đề này không hề xuất hiện trong thực tiễn tài phán liên quan đến Pháp lệnh này.
Thậm chí, Pháp lệnh này cũng không quy định thời hiệu khởi hiện như các văn bản pháp
luật nội dung sau này. Tuy nhiên, các bên hợp đồng kinh tế cũng chỉ có quyền yêu cầu
Trọng tài kinh tế giải quyết tranh chấp trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày xảy ra vi
phạm hợp đồng kinh tế hoặc từ ngày một bên cho là đã có vi phạm xảy ra (1). Thời hạn
sáu tháng này sau đó cũng được Pháp lệnh về thủ tục xét xử các vụ án kinh tế năm 1994
tiếp nhận dưới hình thức thời hiệu khởi kiện (2). Dường như cả hai pháp lệnh này đều đã
thể hiện chức năng đặc thù của pháp luật thương mại là đòi hỏi các tranh chấp phát sinh
phải sớm được các bên tìm cách giải quyết thông qua quy định về thời hạn yêu cầu giải
quyết tranh chấp hay thời hiệu khởi kiện ngắn (3).
2. LTM 1997 không thay thế Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, bởi vì phạm vi điều
chỉnh của Luật này hẹp hơn, chỉ là hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân, được cụ thể hóa bằng 14 hành vi thương mại khác nhau (4), trong đó dịch
vụ thương mại chỉ bao gồm các dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hóa (5). Như vậy, xét
từ góc độ pháp luật hợp đồng thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 là luật
chung (lex generalis), còn các quy định về hợp đồng trong LTM 1997 là luật riêng (lex
specialis). Bản thân LTM 1997 không quy định rõ mối quan hệ giữa Luật này với Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 (6), nhưng các cơ quan tài phán đều tuân theo nguyên
tắc: Đối với các hoạt động thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM 1997 thì áp
dụng quy định của Luật này, chỉ khi Luật này không điều chỉnh một vấn đề nào đó liên
quan đến hợp đồng thì mới áp dụng quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Chẳng
hạn, do LTM 1997 không điều chỉnh vấn đề hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động
thương mại, nên việc xem xét hợp đồng đó có vô hiệu hay không được căn cứ quy định
tại Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (7).
3. Theo LTM 1997, thời hiệu khởi kiện áp dụng cho tất cả các hành vi thương mại là hai
năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền khiếu nại (8). Như vậy, so với quy định của Pháp
lệnh Trọng tài kinh tế năm 1990 và Pháp lệnh về Thủ tục xét xử các vụ án kinh tế năm
1994 (thời hiệu khởi kiện là 6 tháng) thì thời hiệu khởi kiện theo LTM 1997 dài gấp bốn
lần. Phải chăng đã có sự thay đổi quan điểm của các nhà làm luật, theo đó không cần áp
dụng thời hiệu khởi kiện ngắn đối với các tranh chấp phát sinh từ các hành vi thương
mại? Hoàn toàn không phải như vậy. Bởi vì, bên cạnh quy định về thời hiệu khởi kiện,
Luật này đã bổ sung quy định về thời hạn khiếu nại. Theo đó, thời hạn khiếu nại là thời
hạn mà bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền khiếu nại đối với bên vi phạm. Quá thời
hạn khiếu nại, bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Toà án có
thẩm quyền (9). Các bên được quyền thỏa thuận về thời hạn khiếu nại trong hợp đồng.
Trường hợp các bên không thỏa thuận thì áp dụng các thời hạn khiếu nại luật định như
sau (10):
i. Ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hóa;
ii. Sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng
hóa; trong trường hợp hàng hóa có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể
từ ngày hết thời hạn bảo hành;
iii.
Ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đối với
khiếu nại về các hành vi thương mại khác. Riêng đối với dịch vụ giao nhận hàng
hóa thì thời hạn khiếu nại chỉ là 14 ngày kể từ ngày giao hàng.
Với quy định về thời hạn khiếu nại như vậy, Luật này đã buộc bên bị vi phạm phải tiến
hành khiếu nại trong thời hạn khiếu nại, nếu không sẽ bị mất quyền khởi kiện, cho dù
thời hiệu khởi kiện chưa kết thúc (11). Như vậy, thông qua quy định về thời hạn khiếu
nại, LTM 1997 vẫn giữ nguyên mục tiêu đặc thù của pháp luật thương mại là buộc các
bên tranh chấp phát sinh phải sớm thực hiện việc giải quyết tranh chấp của họ, để các
tranh chấp đó không tiếp tục gây trở ngại đến các quan hệ thương mại khác.
4. Trọng tài, tòa án Việt Nam cũng đã từng phán quyết về thời hạn khiếu nại theo quy
định tại Điều 241 LTM 1997. Tiêu biểu là ba phán quyết sau đây:
4.1. Trong vụ kiện “Tranh chấp trong hợp đồng mua bán thiết bị”, ngày 17/01/2003
nguyên đơn là người bán Nhật Bản đã khởi kiện bị đơn là người mua Việt Nam trước
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VIAC), theo đó, nguyên đơn yêu cầu Trọng tài buộc bị đơn thanh toán tiền mua
một lô hàng thiết bị theo hợp đồng mua bán ký ngày 05/6/2002 với số tiền là 5.107.193
Yên Nhật (12). Thời hạn thanh toán theo hợp đồng là 60 ngày sau khi bị đơn nhận được
B/L. Do đó, nguyên đơn cho rằng, thời hạn cuối cùng mà bị đơn phải thanh toán tiền
hàng là ngày 06/10/2002. Tuy nhiên, bị đơn đã không thanh toán, mà khiếu nại nguyên
đơn đòi trả lại hàng. Nguyên đơn không chấp nhận khiếu nại, nên bị đơn đã khởi kiện
nguyên đơn trước trọng tài vào ngày 31/12/2002 yêu cầu được trả lại hàng.
Trong vụ kiện theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ngày 17/01/2003, bị đơn đã yêu cầu
trọng tài bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn với lập luận: Nguyên đơn đã không khiếu nại
trong thời hạn quy định của LTM 1997, cụ thể thời hạn khiếu nại đã kết thúc trước khi
nguyên đơn khởi kiện là 11 ngày. Do vậy, căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 241
Luật này, nguyên đơn đã mất quyền khởi kiện.
Ngược lại, nguyên đơn cho rằng, tại thời điểm trọng tài nhận đơn kiện của bị đơn ngày
31/12/2002, “đồng hồ”tính thời hạn khiếu nại đối với các bên trong vụ tranh chấp này sẽ
dừng lại, điều này cũng đồng nghĩa với việc phía nguyên đơn không còn bị chi phối bởi
thời hạn khiếu nại và không bị mất quyền khởi kiện như Điều 241 LTM 1997 quy định.
Mặt khác, nguyên đơn còn cho rằng, nguyên đơn có quyền yêu cầu bị đơn thanh toán
trong bất kỳ thời gian nào mà không cần thiết phải trải qua giai đoạn khiếu nại. Thời hạn
khiếu nại 3 tháng kể từ khi bên vi phạm nghĩa vụ đối với các hành vi thương mại khác
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 241 LTM 1997 không bao gồm nghĩa vụ thanh toán,
bởi vì nghĩa vụ thanh toán không phải là một trong các hành vi thương mại đươc quy
định tại Điều 45 LTM 1997. Mặc dù vậy, nguyên đơn khẳng định là đã thực hiện khiếu
nại yêu cầu bị đơn thanh toán thông qua bản fax gửi bị đơn vào ngày 19/11/2002.
Tuy nhiên, trong vụ kiện này, nguyên đơn đã không chứng minh được đã gửi bị đơn bản
fax khiếu nại việc thanh toán vào ngày 19/11/2002 hay bị đơn đã nhận được bản fax như
vậy. Mặt khác, nguyên đơn cũng đã không khiếu nại yêu cầu bị đơn thanh toán trong thời
hạn khiếu nại 3 tháng kể từ ngày bị đơn phải hoàn thành nghĩa vụ thanh toán theo hợp
đồng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 241 LTM 1997 (13). Bởi vậy, trọng tài đã
bác đơn kiện của nguyên đơn do bị đơn đã mất quyền khởi kiện theo quy định tại Điều
241 LTM 1997.
Như vậy, vấn đề then chốt trong vụ kiện này là việc nguyên đơn có thực hiện quyền
khiếu nại trong thời hạn luật định (do không có thỏa thuận khác của các bên về thời hạn
khiếu nại) hay không? Và trọng tài đã phán quyết bác đơn kiện của nguyên đơn do
nguyên đơn không chứng minh được đã thực hiện quyền khiếu nại trong thời hạn luật
định và vì vậy đã mất quyền khởi kiện trước khi khởi kiện, mặc dù thời hiệu khởi kiện
vẫn còn.
4.2. Trong vụ án “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” được phán quyết bởi Bản
án sơ thẩm số 245/2005/KDTM-ST ngày 29/8/2005 của TAND TP. Hồ Chí Minh và Bản
án phúc thẩm số 91/2005/KDTM-PT ngày 29/11/2005 của TANDTC tại TP. Hồ Chí
Minh; được xét lại bởi Quyết định giám đốc thẩm số 07/2007/KDTM-GĐT ngày
07/8/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, vấn đề thời hạn khiếu nại cũng có một vai
trò quan trọng trong quyết định giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm (14).
Trong vụ án này, bên cạnh lý do nội dung dẫn đến quyết định hủy bản án phúc thẩm và
sơ thẩm, Hội đồng thẩm phán TANCTC còn viện dẫn “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng” của các tòa án này. Theo đó, lẽ ra tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn kiện cho
đương sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS, nhưng lại thụ lý vụ án và
quyết định chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền hàng của nguyên đơn. Trong khi đó trong
hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện kể từ ngày lập hóa đơn bán hàng cuối cùng là
ngày 29/11/2001, theo đó, bị đơn phải thanh toán tiền hàng trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày lập hóa đơn, đến khi khởi kiện (05/5/2005) nguyên đơn đã có khiếu nại hoặc đòi hỏi
bị đơn thanh toán. Như vậy, nguyên đơn đã mất quyền khởi kiện theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 241 và khoản 1 Điều 241 LTM 1997 từ ngày 01/4/2002; đồng thời thời
hiệu khởi kiện của vụ án cũng đã hết.
4.3. Trong vụ án “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” được phán quyết bởi Bản
án sơ thẩm số 94/KTST ngày 10/5/2005 của TAND TP. Hồ Chí Minh và Bản án phúc
thẩm số 86/2005/KTPT ngày 14/11/2005 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí
Minh và được xét lại bởi Quyết định giám đốc thẩm số 07/2006/KDTM-GĐT ngày
06/7/2006, vấn đề khiếu nại cũng đóng một vai trò then chốt đối với cả ba tòa án này.
Tuy nhiên, trong vụ án này, vấn đề thời hạn khiếu nại lại được xem xét từ góc độ của bị
đơn. Vấn đề được tòa án các cấp xem xét là liệu bị đơn có khiếu nại về chất lượng hàng
hóa được bán trong thời hạn khiếu nại hay không?
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định khiếu nại về chất lượng hàng hóa (hệ thống
thiết bị lạnh) của bị đơn đã quá thời gian luật định là sáu tháng, tính từ ngày đưa thiết bị
vào hoạt động, nên không xem xét. Trong khi đó, tòa giám đốc thẩm xét thấy bị đơn đã
khiếu nại trong thời hạn luật định (ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành theo thỏa
thuận là 12 tháng kể từ ngày nghiệm thu bàn giao) nên việc tòa án sơ thẩm và phúc
thẩm “không xem xét và giải quyết tranh chấp về chất lượng máy theo yêu cầu của bị
đơn là không đúng quy định của pháp luật, tước của bị đơn quyền được yêu cầu tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình – đây là quyền cơ bản được quy định tại Điều
4 BLTTDS”; và đã quyết định hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm.
5. Từ các phán quyết của trọng tài và tòa án trên đây, có thể rút ra mấy nhận định như
sau:
Thứ nhất, vai trò của thời hạn khiếu nại trong quan hệ hợp đồng thương mại đã được
nhận biết, tuy nhiên, không chỉ nhiều chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thương mại, mà
ngay cả một số luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự cũng như một số thẩm phán
cũng đã “bỏ qua” đặc thù quan trọng này của pháp luật thương mại.
Thứ hai, mặc dù theo quy định tại khoản 1 Điều 241 LTM 1997 thì “quá thời hạn khiếu
nại, bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Toà án có thẩm
quyền”, nhưng tòa án không xem xét vấn đề này như là điều kiện để thụ lý vụ án như đối
với vấn đề thời hiệu khởi kiện. Khi tòa án xác định nguyên đơn đã không khiếu nại trong
thời hạn khiếu nại và vì vậy mất quyền khởi kiện thì tòa án bác đơn kiện, thay vì đình chỉ
vụ án như đối với trường hợp xét thấy hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 2
Điều 192, điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Điều đó cho thấy, tòa án không nhìn nhận
nguyên đơn “mất quyền khởi kiện” mà chỉ mất quyền viện dẫn vi phạm của bị đơn để
làm căn cứ cho yêu cầu của mình.
Thứ ba, quy định tại khoản 1 Điều 241 LTM 1997 cũng áp dụng đối với trường hợp bị
đơn là bên bị vi phạm. Nếu bị đơn là bên bị vi phạm nhưng đã không khiếu nại trong thời
hạn khiếu nại thì mất quyền viện dẫn vi phạm của nguyên đơn, trong trường hợp đó tòa
án, trọng tài chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ
tương ứng. Như vậy, việc bên bị vi phạm không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại không
chỉ dẫn đến hậu quả mất quyền khởi kiện và còn mất quyền viện dẫn vi phạm của bên vi
phạm.
II. Thời hạn khiếu nại theo LTM 2005 và thực tiễn tài phán
1. Vấn đề thời hạn khiếu nại được quy định tại Điều 318 LTM 2005. Theo đó, trừ trường
hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 237 của Luật này, thời hạn khiếu nại do các bên
thỏa thuận, nếu các bên không có thoả thuận thì thời hạn khiếu nại là:
i. ba tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hóa;
ii. sáu tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hóa; trong
trường hợp hàng hóa có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng, kể từ ngày hết
thời hạn bảo hành;
iii.
chín tháng, kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc
trong trường hợp có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành đối với khiếu
nại về các vi phạm khác.
2. Như vậy, Điều 318 LTM 2005 không còn quy định “quá thời hạn khiếu nại, bên có
quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Toà án có thẩm quyền” như Điều
241 LTM 1997 nữa. Điều đó lập tức làm phát sinh câu hỏi, vậy nếu bên có quyền, lợi ích
bị xâm phạm không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại thì có “mất quyền khởi kiện” hay
không và tại sao LTM 2005 lược bỏ quy định này?
3. Do các tài liệu lập pháp không thể hiện một cách cụ thể (15), nên chỉ có thể giả thiết
một số quan điểm lập pháp về vấn đề này như sau (16):
Giả thiết thứ nhất: Vì các nhà làm LTM 2005 cho rằng, việc quy định thời hạn khiếu nại
chỉ tạo ra một thủ tục“tiền tố tụng” không bắt buộc, nhằm tạo điều kiện để cho các bên
có thể tự giải quyết các bất đồng, tranh chấp trước khi phải khởi kiện trước tòa án, trọng
tài. Như vậy, một mặt, bên có quyền lợi bị vi phạm vẫn có thể khởi kiện ngay khi thời
hạn khiếu nại vẫn còn mà không cần phải khiếu nại trước khi khởi kiện. Mặt khác, khi
thời hạn khiếu nại đã hết mà trước đó bên có quyền lợi bị vi phạm không khiếu nại thì
bên đó vẫn có quyền khởi kiện trước tòa án, trọng tài trong thời hiệu khởi kiện. Bởi vậy,
cần phải bỏ quy định việc bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện nếu không
khiếu nại trong thời hạn khiếu nại như quy định tại khoản 1 Điều 241 LTM 1997.
Giả thiết thứ hai: Vì quy định như khoản 1 Điều 241 LTM 1997 là không chính xác, bởi
vì, khi bên có quyền lợi bị vi phạm khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài, mặc dù trước đó đã
không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại, thì tòa án, trọng tài vẫn thụ lý vụ án, chứ không
trả lại đơn kiện như trường hợp hết thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều
168 BLTTDS (trước đây: khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế) (17). Tuy nhiên, tòa án, trọng tài sẽ phải bác yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm
khi nhận xét thấy bên đó đã không thực hiện quyền khiếu nại trong thời hạn khiếu nại.
Giả thiết thứ ba: Cũng vì lý do như nêu tại giả thiết thứ hai, nhưng ngoài ra còn vì các
nhà làm LTM 2005 cho rằng, nếu bên có quyền lợi bị vi phạm không khiếu nại trong thời
hạn khiếu nại thì coi như chấp nhận vi phạm của bên vi phạm, và mất quyền viện dẫn các
vi phạm của bên vi phạm. Trong trường hợp này, bên có quyền lợi bị vi phạm vẫn có
quyền khởi kiện nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Tòa án không trả lại đơn kiện như
trường hợp hết thời hiệu khởi kiện, nhưng phải bác yêu cầu của nguyên đơn do nguyên
đơn không còn căn cứ pháp luật cho yêu cầu của mình.
4. Có thể, chúng ta sẽ tìm được lời giải đáp xác đáng về vấn đề này trong LTM Việt Nam
bằng cách đi tìm nguồn gốc cũng như hình thái của chế định khiếu nại trong pháp luật
thương mại nước ngoài hay luật quốc tế mà pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng, cũng
như hướng tới để đạt mục tiêu “việc xây dựng LTM tất yếu cũng phải phù hợp với...
nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật, tập quán thương mại quốc tế, từ đó tạo điều kiện
cho Việt Nam tham gia vào các chế định chung của thế giới trong lĩnh vực thương
mại” (18).
III. Khiếu nại trong pháp luật thương mại nước ngoài và quốc tế
1. Để truy tìm nguồn gốc của chế định khiếu nại trong pháp luật thương mại, có lẽ điều
người ta nghĩ đến trước hết là Bộ luật Thương mại của Pháp và Bộ luật Thương mại của
Đức. Bởi vì Pháp và Đức đều là các quốc gia có hệ thống luật thành văn và đều có các Bộ
luật Dân sự bên cạnh Bộ luật Thương mại. Các Bộ luật Thương mại này đều được xem là
luật của thương nhân, bao gồm luật về tổ chức của thương nhân và luật về giao dịch giữa
các thương nhân (19).
Các Bộ luật Dân sự và Bộ luật Thương mại này đều quy về thời hiệu. Chế định thời hiệu
có nguồn gốc từ luật La Mã. Luật La Mã hiểu thời hiệu là thời hạn mà khi kết thúc thời
hạn đó quyền yêu cầu chấm dứt hoặc được xác lập và qua đó phân biệt giữa thời hiệu
miễn trừ nghĩa vụ và thời hiệu xác lập quyền (20). Tuy nhiên, các Bộ luật Dân sự của
Pháp và Đức đều không tiếp nhận khái niệm thời hiệu của Luật La Mã với nội hàm rộng
như vậy. Thời hiệu theo các Bộ luật này là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó nghĩa vụ
không chấm dứt, nhưng người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ (21).
Khác với thời hiệu khởi kiện theo Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại của Việt Nam,
thời hiệu theo các Bộ luật Dân sự và Bộ luật Thương mại của Pháp và Đức không cản trở
người có quyền khởi kiện khi thời hiệu đã chấm dứt (22). Tòa án các nước này không trả
lại đơn kiện trong trường hợp thời hiệu đã hết như tòa án Việt Nam trong trường hợp hết
thời hiệu khởi kiện. Thậm chí, tòa án các nước này cũng chỉ xem xét vấn đề thời hiệu khi
một bên đương sự viện dẫn việc hết thời hiệu khởi kiện mà thôi (23). Tuy nhiên, tòa án sẽ
bác đơn kiện nếu thời hiệu đã chấm dứt. Như vậy, khác với Việt Nam, ở Pháp và Đức
vấn đề thời hiệu đã chấm dứt hay chưa cũng phải được xét xử khi có một bên đương sự
viện dẫn việc thời hiệu chấm dứt.
2. Thời hiệu được quy định trong các Bộ luật Dân sự là rất dài hoặc tường đối dài. Thời
hiệu thông thường theo Bộ luật Dân sự Đức là 3 năm, thời hiệu đối với các quyền yêu cầu
liên quan đến bất động sản là 10 năm, bên cạnh đó còn có thời hiệu 30 năm đối với sáu
nhóm quyền yêu cầu được quy định cụ thể (24). Bộ luật Dân sự Pháp cũng quy định các
thời hiệu dài 10, 20 và 30 năm (25). Tuy nhiên, Bộ luật này cũng quy định một số thời
hiệu đặc biệt, ngắn hơn (26). Chẳng hạn, thời hiệu quyền yêu cầu của thương nhân về
việc thanh toán tiền bán hàng đối với người không phải là thương nhân chỉ là 02 năm.
Các thời hiệu tương đối dài đó không phải lúc nào cũng phù hợp để đạt mục tiêu của
pháp luật thương mại là các tranh chấp giữa các bên cần phải được giải quyết một cách
nhanh chóng. Bởi vậy, pháp luật thương mại đã quy định nhiều thời hiệu ngắn hơn,
nhưng thời hiệu ngắn nhất cũng là một năm. Nên việc bổ sung chế định khiếu nại trong
pháp luật thương mại tỏ ra là cần thiết. Nội hàm của chế định khiếu nại là người có quyền
và lợi ích bị vi phạm phải khiếu nại với bên vi phạm trong một thời hạn nhất định, nếu
hết thời hạn đó mà không khiếu nại thì coi như người bị vi phạm chấp nhận sự vi phạm.
Thời hạn khiếu nại có thể là một “thời hạn hợp lý” hay thời hạn được tính bằng ngày,
tháng, năm và thông thường ngắn hơn nhiều so với thời hiệu.
Tuy nhiên, chế định khiếu nại không áp dụng đối với mọi giao dịch thương mại. Bộ luật
Thương mại của Đức chỉ quy định thời hạn khiếu nại đối với hoạt động mua bán hàng
hóa. Theo Điều 377 Bộ luật này, trường hợp việc mua bán đối với hai bên đều là giao
dịch thương mại, thì người mua phải kiểm tra hàng hóa sau khi được người bán giao
hàng, trong chừng mực điều đó là cần thiết, và nếu phát hiện khiếm khuyết thì phải khiếu
nại kịp thời cho người bán biết (thời hạn khiếu nại ở đây là “kịp thời”). Nếu người mua
không khiếu nại thì được coi là chấp nhận hàng hóa, trừ phi đó là khiếm khuyết không
thể phát hiện được khi kiểm tra. Nếu sau đó người mua còn phát hiện khiếm khuyết thì
cũng phải khiếu nại kịp thời cho người bán, nếu không cũng được coi là chấp nhận hàng
hóa. Như vậy, nếu bên mua không thực hiện khiếu nại, thì được coi như bên đó đã chấp
nhận hàng hóa. Bên mua mất quyền viện dẫn vi phạm của bên bán. Tuy nhiên, trong
trường hợp này cũng không ai cản trở bên mua khởi kiện bên bán, chỉ có điều việc khởi
kiện sẽ không đem lại kết quả mong muốn.
Tương tự, Bộ luật Thương mại của Đức, Bộ luật Thương mại của pháp cũng có chế định
khiếu nại, và không áp dụng cho mọi giao dịch thương mại, mà chỉ đối với một số giao
dịch được quy định cụ thể. Trong hoạt động vận chuyển đường bộ và vận chuyển đường
thủy (Điều L133 -5), “khi nhận vật chuyên chở, quyền yêu cầu đối với người vận chuyển
đối với thiệt hại hoặc mất một phần vật đó chấm dứt nếu trong thời hạn 3 ngày, không kể
ngày lễ, Tết, kể từ ngày nhận vật, người nhận không thông báo cho người vận chuyển...
về việc từ chối nhận vật và lý do từ chối nhận vật” (Điều L133 -3). Trong hoạt động mua
bán sản nghiệp thương mại, “bên bán có nghĩa vụ đảm bảo tính chính xác của các thông
tin mà mình cung cấp theo quy định tại các điều 1644 và 1645 Bộ luật Dân sự, kể cả khi
có thỏa thuận khác” (Điều L141 -3). “Quyền yêu cầu phát sinh theo quy định tại Điều
141-3 phải do bên mua thực hiện trong thời hạn 1 năm kể từ ngày tiếp nhận sản nghiệp
thương mại" (Điều 141-4).
3. Chế định khiếu nại trong LTM được tiếp nhận vào Công ước của Liên hiệp quốc về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG). Điều 39 Công ước này quy định, người mua
mất quyền viện dẫn (right to rely) đối với vi phạm hợp đồng về hàng hóa, nếu người mua
không khiếu nại và không nêu chính xác vi phạm với người bán trong một thời hạn hợp
lý sau khi người mua biết được vi phạm đó hoặc nhẽ ra phải biết được vi phạm đó. Trong
mọi trường hợp, người mua mất quyền viện dẫn vi phạm của người bán, nếu người mua
không khiếu nại chậm nhất trong thời hạn 2 năm sau khi hàng hóa được thực tế chuyển
giao cho người mua, trừ phi thời hạn này không phù hợp với thời hạn bảo hành theo hợp
đồng. Và theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Công ước này thì trường hợp hàng hóa
không phù hợp với hợp đồng, người mua có thể yêu cầu giao hàng thay thế, nếu vi phạm
hợp đồng là một vi phạm cơ bản và yêu cầu giao hàng thay thế được thực hiện cùng với
khiếu nại theo Điều 39 hoặc trong một thời hạn hợp lý sau khi đã khiếu nại. Bên cạnh đó,
theo quy định tại khoản 3 Điều 46 Công ước này thì trường hợp hàng hóa không phù hợp
hợp đồng, người mua có thể yêu cầu người bán khắc phục, trừ phi khi xem xét tới mọi
hoàn cảnh điều đó tỏ ra không phù hợp. Yêu cầu khắc phục phải được thực hiện cùng với
việc khiếu nại theo Điều 39 hoặc trong một thời hạn hợp lý sau khi đã khiếu nại.
Như vậy, theo Công ước này việc không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại (trong trường
hợp này là “thời hạn hợp lý”) dẫn đến hậu quả người mua mất quyền viện dẫn vi phạm
hợp đồng của bên bán. Và hậu quả pháp lý đó hoàn toàn tương tự hậu quả pháp lý của
việc không khiếu nại theo LTM của Đức và Pháp.
4. Các trình bày trên cho thấy, chế định khiếu nại và chế định thời hiệu là hai chế định
độc lập với nhau. Thời hiệu chấm dứt không làm chấm dứt nghĩa vụ, nhưng làm phát sinh
quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ và quyền viện dẫn thời hiệu đã chấm dứt của người có
nghĩa vụ. Trong khi đó, thì việc không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại làm mất quyền
viện dẫn của bên bị vi phạm đối với vi phạm của bên vi phạm, hay nói cách khác là vi
phạm coi như được chấp nhận, và nếu bên vi phạm phản đối việc viện dẫn của bên bị vi
phạm thì coi như không tồn tại vi phạm và không phát sinh nghĩa vụ. Như vậy, chế định
khiếu nại nhằm đòi hỏi bên bị vi phạm phải thực hiện khiếu nại để bảo toàn quyền viện
dẫn tới vi phạm của bên vi phạm. Và thời hạn khiếu nại trong các luật nói trên thường là
“kịp thời”, “thời hạn hợp lý”, nếu là thời hạn tính theo ngày, tháng, năm thì cũng thường
rất ngắn. Điều đó thể hiện đòi hỏi cao hơn của pháp luật thương mại đối với thương nhân
vì lợi ích của hoạt động thương mại, đặc biệt trong hoạt động mua bán hàng hóa, vì hàng
hóa được mua bán ở đây không nhằm mục đích tiêu dùng, nên thường chỉ là một khâu
trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa.
5. Có lẽ chế định khiếu nại trong LTM Việt Nam cũng nhằm thực hiện chức năng tương
tự. Một bằng chứng là, mặc dù quy định chung về thời hạn khiếu nại tại Điều 318 LTM
2005 không trực tiếp quy định về hậu quả pháp lý của việc bỏ qua thời hạn khiếu nại,
nhưng theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 237 Luật này thì thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm nếu thương nhân đó không nhận được thông báo
về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày giao hàng cho người nhận (27).
Tuy nhiên, nếu chế định khiếu nại trong LTM Việt Nam là sự tiếp nhận luật nước ngoài
và luật quốc tế thì đó là sự tiếp nhận không hoàn hảo. Chính vì vậy mà LTM 2005 đã sửa
đổi quy định tương ứng của LTM 1997 về thời hạn khiếu nại. Nhưng cũng chính sửa đổi
này lại tạo ra sự không rõ ràng về mặt ý nghĩa và gây khó khăn cho việc áp dụng.
IV. Chế định khiếu nại theo LTM 2005 cần áp dụng như thế nào?
1. Căn cứ thực tiễn tài phán như đã trình bày tại mục I, quy định “quá thời hạn khiếu nại,
bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Toà án có thẩm quyền” tại
khoản 1 Điều 241 LTM 1997 đã không được các tòa án áp dụng đúng như câu chữ. Một
mặt, trên thực tế không một tòa án nào trả lại đơn kiện do nguyên đơn đã mất quyền khởi
kiện vì không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại. Mặt khác, tòa án cũng không thể trả lại
đơn kiện vì không thuộc một trong các trường hợp trả lại đơn kiện theo pháp luật tố tụng
(Điều 168 BLTTDS). Các tòa án hay trọng tài chỉ bác đơn kiện thông qua bản án hay
quyết định trọng tài.
2. Việc LTM 2005 lược bỏ quy định này trong quy định tương ứng về thời hạn khiếu nại
cũng có thể cho thấy các nhà làm luật đã nhận thức rằng quy định như vậy là bất hợp lý.
Bởi vì quy định như khoản 1 Điều 241 LTM 1997, sẽ làm chế định khiếu nại có chức
năng tương tự như chế định thời hiệu khởi kiện, nghĩa là đều tước quyền khởi kiện của
bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm nếu bỏ qua thời hạn hay thời hiệu.
3. Nhưng quy định tại Điều 318 LTM 2005 lại chỉ thuần túy quy định về các thời hạn
khiếu nại, mà không hề quy định về hậu quả của việc bỏ qua thời hạn khiếu nại. Do các
tài liệu lập pháp không cho thấy rõ chủ ý của nhà lập pháp nên mới có các giả thiết trình
bày tại mục II.3 về việc lược bỏ quy định về hậu quả như trong LTM 1997.
4. Trong đó, tỏ ra hợp lý hơn cả là giả thiết, theo đó các nhà làm LTM 2005 cho rằng, nếu
bên có quyền lợi bị vi phạm không khiếu nại trong thời hạn khiếu nại thì coi như chấp
nhận vi phạm của bên vi phạm, và mất quyền viện dẫn các vi phạm của bên vi phạm.
Trong trường hợp này, bên có quyền lợi bị vi phạm vẫn có quyền khởi kiện nếu thời hiệu
khởi kiện vẫn còn. Tòa án không trả lại đơn kiện như trường hợp hết thời hiệu khởi kiện,
nhưng phải bác (bằng bản án) yêu cầu của bên bị vi phạm nếu bên vi phạm phản đối việc
viện dẫn vi phạm. áp dụng pháp luật như vậy trước hết là phù hợp với lôgíc pháp lý, bên
cạnh đó cũng phù hợp với chế định khiếu nại trong các Bộ luật Thương mại lớn kể trên,
và với luật mua bán hàng hóa quốc tế (CISG). Như vậy, mặc dù quy định tại Điều 318
LTM 2005 về mặt kỹ thuật lập pháp là không hoàn hảo, nhưng hoàn toàn có thể được áp
dụng theo ý nghĩa nêu trên./.
========================
CHÚ THÍCH
(1) Điều 23 Pháp lệnh Trọng tài kinh tế năm 1990.
(2) Khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục xét xử các vụ án kinh tế.
(3) Vào thời điểm này, do một thiếu sót về mặt kỹ thuật, Bộ luật Dân sự 1995 thậm chí
không quy định thời hiệu khởi kiện chung cho các tranh chấp dân sự, mà chỉ quy định
thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về thừa kế (Điều 648) cũng như việc không áp
dụng thời hiệu khởi kiện đối với một số trường hợp (Điều 169). Do đó, theo Thông tư
liên ngành số 03/TTLN của TANDTC và VKSNDTC ngày 10/08/1996, thì “các hợp
đồng dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 mà có vi phạm, thì bên bị vi phạm không bị
hạn chế thời gian khởi kiện trước Tòa án, nếu pháp luật không có quy định khác” (mục
III.1.a). Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cũng không quy định
thời hiệu khởi kiện.
(4) Điều 1, khoản 2 Điều 5 và Điều 45 LTM 1997.
(5) Khoản 4 Điều 5 LTM 1997.
(6) Điều 3 LTM 1997 chỉ quy định: “Các hoạt động thương mại phải tuân theo các quy
định của Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan”.
(7) LTM 1997 chỉ có một quy định duy nhất liên quan đến hợp đồng vô hiệu, đó là khoản
3 Điều 126, theo đó hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa chấm dứt trong trường hợp hợp
đồng vô hiệu khi nội dung hợp đồng hoặc việc thực hiện hợp đồng trái với quy định của
pháp luật. Xét từ bản chất của chế định hợp đồng vô hiệu thì quy định này là không chính
xác, vì khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì nó được xem là không tồn tại chứ không
“chấm dứt”.
(8) Điều 242 LTM 1997. Tuy nhiên, Luật này sử dụng thuật ngữ không chính xác là “thời
hiệu tố tụng”. Bởi vậy, các tòa án, trọng tài khi căn cứ điều khoản này đều sử dụng thuật
ngữ “thời hiệu khởi kiện”.
(9) Khoản 1 Điều 241 LTM 1997.
(10) Khoản 2 Điều 241 LTM 1997.
(11) Quy định về thời hạn khiếu nại làm phát sinh vấn đề: Liệu bên bị vi phạm có thể
khởi kiện ngay trong thời hạn khiếu nại mà không cần phải thực hiện khiếu nại trước khi
khởi kiện hay không? Về vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, bài viết này
không nhằm giải quyết vấn đề này.
(12) Xem: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chương trình hỗ trợ
doanh nghiệp DANIDA, Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc, Nxb Tư pháp, Hà Nội
2007: Quyết định số 10, “Tranh chấp trong hợp đồng mua bán thiết bị”, tr.72-77.
(13) Trong vụ kiện này, Hội đồng trọng tài đã đề nghị UBTVQH giải thích về nội dung
điểm c khoản 2 Điều 241 LTM 1997. Trên cơ sở yêu cầu đó, UBTVQH đã ban hành
Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 về việc giải thích điểm c
khoản 2 Điều 241 LTM. Theo đó: “Đối với khiếu nại về vi phạm các nghĩa vụ khác trong
việc thực hiện các hành vi thương mại thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ khi bên vi
phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 170 của LTM. Như vậy, trừ khiếu nại về số lượng hàng hóa quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 241 và khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hóa quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 241 của LTM thì thời hạn khiếu nại đối với các vi phạm nghĩa vụ về thanh
toán, thời hạn giao hàng và các vi phạm khác trong mua bán hàng hóa, đại lý mua bán
hàng hóa, môi giới thương mại và trong các hành vi thương mại khác được qui định tại
Điều 45 của LTM là ba tháng, kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp
đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của LTM”.
(14) Xem Quyết định giám đốc thẩm số 07/2007/KDTM-GĐT ngày 07/8/2007 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC tại: Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13 kỳ I tháng 7/2008, tr. 4548.
(15) Tờ trình của Chính phủ về Dự án LTM (sửa đổi) ngày 05/10/2004 cũng không đề
cập vấn đề này trong Mục B.5 về nội dung cơ bản của Chương V “Chế tài trong thương
mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại”.
(16) Trong quá trình thu thập tư liệu, tác giả chưa tìm thấy một bản án hay phán quyết
trọng tài nào có liên quan đến Điều 318 LTM 2005, nên chưa thể nêu quan điểm của tòa
án hay trọng tài về vấn đề này.
(17) Mặc dù theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS, khoản 1 Điều 32 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì việc "người khởi kiện không có quyền khởi
kiện" cũng là căn cứ để tòa án, trọng tài trả lại đơn kiện, nhưng thực tế tòa án, trọng tài
chưa hề trả lại đơn kiện theo các quy định này bằng cách viện dẫn bên khởi kiện đã mất
quyền khởi kiện do không thực hiện khiếu nại trong thời hạn khiếu nại theo quy định tại
khoản 1 Điều 241 LTM 1997.
(18) Tờ trình của Chính phủ về Dự án LTM (sửa đổi) ngày 05/10/2004, mục II.5.
(19) Về sau luật về tổ chức thương nhân được tách dần ra khỏi các Bộ luật Thương mại
này, hình thành nên Luật công ty.
(20) Luật La Mã không biết đến thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc
dân sự như quy định tại khoản 3, 4 Điều 155 BLDS 2005 của Việt Nam.
(21) Xem: Palandt, Bình luận Bộ luật Dân sự (Beck’sche Kurzkommentare B#rgerliches
Gesetzbuch), 68. Auflage, Verlag C.H.Beck, M#nchen 2008: #berblick von # 194. Xem
thêm: Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Hữu, Hậu quả của hết thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực hợp
đồng, Tạp chí NCLP, Hiến kế lập pháp số 3/2006 (70), tr. 17-19.
(22) Xem thêm nhận định tương tự trong: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp DANIDA, Cẩm nang hợp đồng thương mại,
Hà Nội 2007, tr. 46: "Hầu hết pháp luật các nước không quy định thời hiệu khởi kiện, mà
chỉ quy định thời hiệu. Điều đó có nghĩa là không ai bị mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên,
bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ khi hết thời hiệu".
(23) Xem thêm: Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Hữu, tlđd.
(24) Điều 195-197 Bộ luật Dân sự Đức.
(25) Điều 2262 đến 2270-1 Bộ luật Dân sự Pháp.
(26) Điều 2271 đến 2281 Bộ luật Dân sự Pháp.
(26) Một bằng chứng cho thấy điều đó là, mặc dù quy định chung về thời hạn khiếu nại
tại Điều 318 LTM 2005 không trực tiếp quy định về hậu quả pháp lý của việc bỏ qua thời
hạn khiếu nại, nhưng theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 237 Luật này thì thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm nếu thương nhân đó không
được thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày giao hàng cho người
nhận.