Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

các cuộc khởi nghĩa của nhân dân việt nam giai đoạn 1862 1875

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.81 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ- LỚP SỬ 2B
MÔN : LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI

ĐỀ TÀI:
CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA NHÂN DÂN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1862-1875

TP HCM 16/10/2012


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Page

MỤC
2 LỤC
Contents

A. Lời mở đầu:
Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn ở
trong tình trạng suy đốn.
Về mặt tư tưởng: triều đình nhà Nguyễn bị tinh thần hủ Nho chi phối, thủ cựu, hẹp
hòi, không chấp nhận những cải cách duy tân; quan lại sĩ phu đa phần đều cố chấp
nên dẫn đến tình trạng xã hội ngày một lạc hậu, trì trệ. Thời Tự Đức trở về sau,
binh lực và tài lực ngày một suy yếu. Binh lính không được luyện tập, trang bị vũ
khí lạc hậu chỉ có gươm giáo, tướng sĩ thường không chuyên trách, không có uy tín
với binh lính. Tinh thần quân đội thấp kém, không đủ khả năng đảm đương nhiệm
vụ bảo vệ nhà nước trước quân xâm lược của tư bản phương Tây.
2



Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Page

Về tài chính: Nước ta khi ấy là3một nước nông nghiệp lạc hậu, cộng với
chính sách bế quan tỏa cảng nên tài lực chủ yếu trông vào nguồn đóng góp của
dân-mà nguồn đóng góp này càng suy giảm dần do đời sống người dân rất khốn
cùng. Đời sống người dân khốn cùng đến nỗi triều đình muốn tăng thêm nguồn
thuế cũng không thể được. Để có nguồn thu chi, triều đình nhà Nguễn tăng cường
việc khai thác các mỏ vàng, bạc, kẽm…nhưng do tình trạng quá lạc hậu nên sự
khai mỏ này chủ yếu chỉ làm giàu thêm cho bọn con buôn Trung Hoa. Có thể nói,
từ năm 1862, thực trạng nước ta chỉ tóm gọn qua bốn chữ: “Tiền hoang, binh
khuyết”.
Trước thực trạng xã hội như vậy, nhiều chí sĩ thức thời hiểu rõ sự cần thiết
của việc đổi mới đất nước như Đinh Văn Điền, Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ…đã
trình lên trình lên triều đình những đề xướng canh tân nhằm đối phó lại sự xâm
lược của tư bản Pháp. Những người đề xướng cải cách cho rằng muốn cải cách xã
hội trước hết phải cải tạo quan lại, dùng những người tài giỏi trong nhân dân tham
gia ý kiến vào việc nước, dùng chế độ pháp trị để quan lại không thể chuyên chế,
ức hiếp nhân dân…muốn làm được điều đó phải cải cách giáo dục, học các môn
thực dụng như luật học, nông học, kỹ nghệ, địa lý, thiên văn…
Về kinh tế: phải lo đến canh nông, đề phòng hạn hán, lụt lội; tăng cường
khai hoang, phát triển kỹ nghệ, khai khoáng, mở mang thương mại, giao thông…
Về tài chính: Phải chú ý đến vấn đề thuế khóa, phải căn cứ vào nhân lực và
tài lực trong dân.
Ngoài ra phải chú ý phát triển quân đội, cải tạo xã hội, mở rộng thông
thương…

3



Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Tuy nhiên, tình trạng nước ta lúc ấy không thể dẫn đến một cuộc cải cách
Page

toàn diện như thế do xã hội phong kiến đã suy tàn, lực lượng sản xuất mới và lực

4

lượng xã hội mới chưa xuất hiện. Do đó, các đề cải cách đã thất bại và đây là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất nước.
Bắt đầu từ triều vua Minh Mạng việc cấm đạo đã được thực hiện. Đến thời
Tự Đức, chính sách này càng triệt để hơn. Lấy cớ triều đình Việt Nam cấm đạo, sát
đạo, năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng. Năm 1862, triều đình nhà Nguyễn phải ký
hòa ước Nhâm Tuất, nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông; hiệp ước Giáp Tý năm
1874, thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kỳ và cuối cùng là hiệp ước
Giáp Thân năm 1884, khẳng định sự thống trị của Pháp ở Việt Nam. Điều đó khiến
cho những người yêu nước-nhân dân Việt Nam vô cùng phẫn nộ, đã nổi lên chống
Pháp và triều đình. Thời kỳ này nhiều cuộc khởi nghĩa chống xâm lược nổ ra ở
khắp nơi từ Bắc đến Nam với nhiều thành phần dân chúng tham gia. Sau đây,
chúng ta sẽ tìm hiểu các phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ giai đoạn từ
năm 1859 đến năm 1875.

4


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại


B.
I.

Nội dung:

Page

5

Cuộc kháng chiến giữ nước oanh liệt của nhân dân Việt Nam từ

năm 1859 đến trước hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862:
Hoàn cảnh đất nước:
Ngày 31/8/1858, lien quân Pháp-Tây Ban Nha đã kéo quân dàn trận tại cửa
biển Đà Nẵng(Quảng Nam). Mở đầu cuộc xâm lược vào Việt Nam. Đất nước Việt
Nam đang đứng trong hoàn cảnh xâm lấn của thực dân Pháp.
*Triều đình:
Trong giai đoạn này, ngay khi thực dân Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam,
quân đội triều đình đã tích cực chủ động phối hợp với nhân dân đấu tranh chống
Pháp trên tấc cả các mặt trận.
Tại Đà Nẵng:
Khi nghe tin bán đảo Sơn Trà bị chiếm, triều đình Nguyễn đã cử vội nhiều
quân tướng tới tăng cường lực lượng phòng thủ, Nguyễn Tri Phương được cử làm
tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam để lo việc chống giặc. Ông thực hiện chiến
thuật: một mặt chỉ huy quân đội đắp lũy chạy dài từ bờ biển vào phía trong để bao
vậy địch ở mé biển, chặn không cho chúng đi sâu vào nội địa. Mặt khác, ông cho
nhân dân trong vùng thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, tản cư vào bên
trong để địch khỏi bắt lính, yêu cầu nộp lương thực hay cung cấp tin cho chúng.
Nhờ chiến thuật này mà mấy lần liên quân Pháp-Tây Ban Nha tìm cách đánh sâu
vào điều bị quân triều đình đánh bật lại và bị thiệt hại nặng nề.

Sau 5 tháng chiến tranh, Pháp hầu như giậm chân tại chỗ ở bán đảo Sơn Trà,
chúng quyết định chuyển hướng sang Gia Định.
Tại Gia Định:
Ngày 9/2/1859, thực dân Pháp tấn công Gia Định.
Ngay khi Pháp vừa vào Gia Định, triều đình Nguyễn đã cử quân đội kháng
cự quyết liệt khiến cho cuộc hành quân của địch gặp nhiều khó khăn.
Trong giai đoạn này, triều đình nhà Nguyễn vẫn tiếp tục thực hiện chiến
thuật “phòng thủ” mà không tấn công mặc dù có nhiều cơ hội.
5


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

“Tháng 4/1859, tư bản Pháp bị vướng vào cuộc chiến tranh với Áo trên đất
Page

Ý, phải dồn lực lượng quân sự vào chiến trường Châu Âu, không thể tiếp viện cho

6

đội quân xâm lược Việt Nam. Thêm vào đó mâu thuẫn Anh-Pháp lúc này cũng trở
nên gay gắt, chiến tranh có thể bùng nổ giữa hai nước. Trong tình thế khó khăn đó,
chính phủ Pháp buộc phải ra lệnh cho Gionuiy nghị hòa với triều đình Huế.”
Nhưng do thái độ không dứt khoát của triều đình, đánh không dám đánh mạnh,
cuối cùng việc hòa nghị không thành.
Cơ hội thứ 2: “Liên quân Anh-Pháp khai chiến ở Trung Hoa. Hạm đội Pháp
phải đưa sang Hoàng Hải. Pháp chỉ để lại một ít quân để chiếm giữ Gia Định và
cầm cự với quân ta, còn thì dồn sang chiến trường Hoa Bắc”
Mặc dù Pháp chỉ còn lại lực lượng ít ỏi chưa đầy 1000 quân, nhưng Nguyễn
Tri Phương vẫn sử dụng chiến thuật “thủ để hòa”(cố thủ rồi thương thuyết) nên

Pháp vẫn ung dung đi lại, ngược xuôi trên các dòng song buôn bán kiếm lời, vừa
để nuôi quân, vừa để mua chuộc một số người giao thương với chúng, thăm dò tình
hình của ta, dụ một số người làm tay sai…tạo them điều kiện để mở rộng cuộc xâm
lăng.
Trong lúc này, quân đội dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Tri Phương có tới
hang vạn, gấp 10 lần địch, song vẫn không chủ trương tranh thủ thời cơ tấn công
tiêu diệt địch, mà suốt một năm(1860) Nguyễn Tri Phương án binh bất động. Mặt
khác chỉ chú tâm huy động quân đội và dân binh xây dựng Đại Đồn(Chí Hòa) với
thành lũy kiên cố, tưởng rằng như vậy sẽ có thể làm nản chí xâm lăng của giặc.
Nhưng sự sai lầm trong chiến lược phòng ngự bị động và tư tưởng thất bại
chủ nghĩa đã khiến Nguyễn Tri Phương không những không đuổi được 1000 quân
giặc đóng ở phòng tuyến dài gần 10 cây số, có chỗ ta và địch cách nhau chưa đầy
500m; ngược lại Đại Đồn đã vô hình biến thành một cái rọ 3 cây số vuông nhốt
hang ngàn binh lính, chuẩn bị làm mồi cho đại bác của Pháp.
Cuối cùng để cứu vãn quyền lợi của giai cấp, đứng trước nguy cơ xâm lược
bên ngoài và nguy cơ khởi nghĩa nông dân bên trong, triều đình nhà Nguyễn đã
6


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

hèn hạ phản bội lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc bằng việc vội vã ký Hàng
ước ngày 5/6/1862.

Page

7

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta:
a.


Biểu hiện:
Ngay từ khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ sung xâm lược nước ta, nhiệt
liệt hưởng ứng lời kêu gọi của quân đội triều đình, hăng hái tham gia phục vụ chiến
đấu và thành lập các đội binh dõng khá đông đảo. Có thể nói không có trận chiến
nào không có mặt dân dõng. Ngay đến các tù phạm cũng tham gia phục vụ chiến
đấu-được gọi là các đội “Thiện Thiện”, họ chiến đấu tích cực và còn được triều
đình ban thưởng. Các làng xã xung quanh và trong tỉnh Quảng Nam đều đóng góp
tài lực, vật lực cho cuộc kháng chiến quyết liệt chống quân xâm lược. Ngay trong
tháng 5/1859, đã có 20 xã được triều đình bình nghị tuyên dương công trạng.
Sử triều Nguyễn có chép lại, tại mặt trận Đà Nẵng, có trận đấu giữa ta và
địch diễn ra 3 ngày liền, từ ngày 22 đến ngày 24/4/1859, ở Thạch Than, dân dõng
dưới sự chỉ huy của triều đình đã chiến thắng quân địch.
Ngay tại kinh đô Huế, biết tin địch đánh Đà Nẵng, nhiều trai tráng đã tự
nguyện gia nhập đội “chiến tâm” hay vệ nghĩa dõng để được đi đánh giặc. Nhiều
quan chức triều đình cũng tự nguyện ra chiến trường.
Không chỉ ở kinh đô, ở ngoài Bắc, tinh thần chiến đấu cũng dâng lên rất
cao. Đốc học Nam Định-tiến sĩ Phạm Văn Nghị nghe tin địch xâm lấn bờ cõi, liền
xin được đem 300 thân biên binh dõng đã mộ được vào quân thứ Quảng Nam đánh
giặc. Tháng 4/1860, đoàn quân của ông đến kinh đô Huế thì địch đã rút khỏi Đà
Nẵng. Vua Tự Đức có ý không muốn phái đội quân này đi Gia Định nên thưởng
cho ít tiền để khích lệ rồi cho về cả. Người kế nhiệm Phạm Văn Nghị là đốc học
Nam Định là Doãn Khuê đã dâng tập mật tấu cho rằng “nghị hòa là hỏng” và kiên
quyết xin chủ trương đánh.
Cũng như trên mặt trận Đà Nẵng, tại Gia Định, thực dân Pháp vữa nổ súng
vừa tấn công chúng ta thì ngay lập tức nhân dân quanh vùng nhiệt liệt hưởng ứng,
7


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại


gia nhập nhiều đội quân dõng để chiến đấu bảo vệ quê hương. Sử triều Nguyễn có
Page

chép rằng vào tháng 3 năm Kỹ Mùi(4/1859), “khi thành Gia Định không giữ được,

8

người tỉnh ấy là Trần Thiện Chính(tri huyện phải cách), Lê Huy(suất đội thải về)
họp dân dõng hơn 5800 người(dân nhiều người đóng tiền, nộp thóc) ngăn giữ quân
thù, lại hộ vệ cho Trần Tri về bảo Tây Thái. Việc ấy đến tai Vua, Vua ban khen,
chuẩn cho 2 viên ấp, được khôi phục nguyên hàm, theo đi quân thứ….
Ở trận đánh chùa Chợ Rẫy: Đêm ngày 3 rạng sáng ngày 4/7/1860, một đội
nghĩa dũng 600 người(trong đó có 200 người dân dõng tham gia chiến đấu) do
Dương Bình Tâm lãnh đạo đã xung phong đánh Chợ Rẫy-một vị trí quan trọng của
địch trên phòng tuyến của chúng từ chùa Cây Mai đến chùa Trương Thị. Nghĩa
quân đã phục kích đâm chết tên đại úy BácBê ở gần Đồng Nai vào năm 1861.
Chính dân dõng là lực lượng mở ra một cuộc chiến có tính nhân dân, đánh địch với
đủ mọi vũ khí, đủ mọi cách “dân dã” mà ngày nay gọi là “du kích”. Họ bắn tỉa, họ
quấy rối làm tiêu hao sinh lực địch. Họ đắp cản, đào hào đắp lũy. Họ làm cho địch
b.

thất điên bát đảo, ăn không ngon, ngủ không yên.
Nguyên nhân làm bùng nổ cuộc đấu tranh của nhân dân ta:
Sở dĩ phong trào kháng chiến của nhân dân mạnh mẽ như vậy, trước hết phải
có lòng yêu nước thiết tha, sau nữa phải có quân lương và vũ khí.
Chính vì thế hoạt động đầu tiên trở thành đặc điểm của dân chúng Nam kỳ là
sự hiến tặng và thu gom tài lực, vật lực từ người giàu có đến dân thường. Ngay từ
năm 1859, khi bọn xâm lược tấn công Đà Nẵng, rồi Gia Định thì việc tự nguyện
cung ứng tiền, gạo, quân lương đã xuất hiện và phát triển ngày càng rộng. Sử sách

chép rằng ở các địa phương như Gia Định, Vĩnh Long, Định Tường là những nơi
có rất nhiều những nghĩa cử cao đẹp nói trên.
Ví dụ: Vào tháng 4/1859, “dân hạt Định Tường(Trần Văn Ngọ, Nguyễn Văn
Cẩm, Lê Văn Học, Từ Thị Để…) tự nguyện đem quyên sắt sống(8000 cân), trên
2700 quan, gạo(200 phương) để giúp quân nhu
Kết luận: Những sư kiện đó diễn ra thường xuyên và giúp ích rất lớn cho
phong trào chiến đấu của nhân dân.
8


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại
c.

Những sự kiện chính:
Page
*Những cuộc chiến đấu của nhân
dân mà không biết rõ thông tin về người

chỉ huy và cũng chưa được ghi đầy đủ: 9
Ngày 7/12/1860, quan ba Bacbe (Barbé) bị phục kích và phải bỏ mạng tại
chùa Khai Tường.
Ngày 1/1/1861, tàu Primôghê(Primauguet) của giặc đậu trên sông Đồng Nai
bị tấn công.
Ngày 15/4/1861, đồn giặc ở xóm Củi, Chợ Lớn bị đốt cháy.
Cuối tháng 4/1861, sĩ quan Pháp bị đầu độc ở Phú Nhuận. Địch bắt và giết
hai nghĩa quân Hoa kiều giả làm bồi bếp ở đây. Chúng còn giết cả ban hội tế làng
Phú Nhuận là nơi nuôi dưỡng nghĩa quân.
Đêm ngày 3 rạng ngày 4/7/1861, đồn địch tại chùa Chợ Rẫy bị tấn công.
*Những cuộc chiến đấu có tổ chức và có người lãnh đạo (trong một thời
gian nhất định) ở một số địa bàn khác nhau:

- Từ tháng 1/1861 đến tháng 8/1864, tại Gia Định, Tân An, Gò Công nổi lên
cuộc khởi nghĩa của Trương Định.
Vài nét về Trương Định: quê ở xã Từ Cung, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Khi còn nhỏ đã theo cha vào lập nghiệp ở Tân An ( nay thuộc Long An).
Ông là người thông minh, cương nghị, giỏi binh thư võ nghệ. Trương Định được
nhân dân tôn vinh là Bình Tây Đại Nguyên Soái. Ông đã lãnh đạo phong trào
kháng Pháp ở Gò Công khi Pháp tấn công 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Diễn biến của cuộc khởi nghĩa:
Năm 1861, khi thực dân Pháp tấn công Gia Định, Trương Định lúc ấy là phó
quản cơ trong đội lính đồn điền, đã chiêu mộ nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều
đánh Pháp. Nghĩa quân đã chiến thắng nhiều trận từ Cây Mai đến Thị Nghè.
Tháng 2/1861, Đại Đồn thất thủ, quân triều đình rút về Biên Hòa, Trương
Định đem quân về Tân Hòa, Gò Công chống giữ. Ở đây đã có đông đảo văn thân,
tới gia nhập nghĩa quân như: Án sát Đỗ Quang, Tri phủ Nguyễn Thành Ý, tri
huyện Đỗ Đình Thoại, tri huyện Âu Dương Lân…có nhiều người còn mộ được
hơn 1000 nghĩa quân đến tập hợp đông đảo, đã chiến đấu nhiều trận quyết liệt với
giặc. Hàng vạn quân của Trương Định hoạt động khắp vùng Gò Công, Tân An, Mỹ
9


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Tho, Chợ Lớn, Gia Định…lan sang cả hai bờ song Vàm Cỏ, tới tận Đồng Tháp
Mười.

Page

10Tường, Vĩnh Long thì các thủ lĩnh như
Sau khi địch chiếm Biên Hòa, Định


Phan Văn Đạt, Đỗ Trình Thoại, Lê Cao Dũng, Hồ Huân Nghiệp…đã bị giặc bắt và
giết hại. Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân cũng bị bắt đi đày. Nhưng Trương Định
không nhụt chí, vẫn tiếp tục chiến đấu, trở thành chỗ dựa tin cậy cho tuần phủ Gia
Định là Đỗ Quang.
Trương Định được triều đình phong cho chức Phó lãnh binh (3/1862), lãnh
việc chỉ huy toàn bộ dân quân Gia Định. Với tư cách là tổng chỉ huy toàn bộ quân
dân Gia Định, Trương Định nhận lệnh tác chiến với quân đội triều đình để dành lại
các tỉnh đã mất. Công việc đang triển khai thì địch chiếm Vĩnh Long (3/1862), rồi
triều đình kí hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), cuộc khởi nghĩa Trương Định bước
-

sang giai đoạn mới-khác hẳn về tính chất và còn quyết liệt, mạnh mẽ hơn rất nhiều.
Tháng 1/1861, có cuộc khởi nghĩa của Lưu Tấn Thiện và Lê Quang Quyền tại Gò
Công, Tân Bình. Nghĩa quân tập hợp đến hang nghìn người, rồi sau đó kết hợp với

-

nghĩ quân của Trương Định.
Đầu năm 1861, có cuộc khởi nghĩa của Trần Thiện Chính và Lê Huy tại Gia Định
Đầu năm 1861, tại Định Tường có cuộc khởi nghĩa của Trần Xuân Hòa-một người
bị liệt vì bệnh phong nhưng đầy ý chí chiến đấu, cầm quân nghiêm minh, được dân
chúng kính phục gọi là “hùm xám”…Khi địch đánh chiếm Bà Rịa (1/1862), Trần

-

Xuân Hòa đã dẫn quân đánh địch ở Cai Lậy rồi bị chúng bắt và giết tại Mỹ Tho.
6/1861, tại Gò Công có cuộc khởi nghĩa của tri huyện Đỗ Trình Thoại. Sauk hi Mỹ
Tho bị chiếm (22/6/1861), ông lãnh đạo hơn 1000 quân tiến đánh Gò Công và đã
hi sinh cùng 14 người đồng đội. Nghĩa quân tiếp tục vây hãm Gò Công cho tới


-

hôm sau thì rút và gia nhập vào nghĩa quân của Trương Định.
Tháng 7/1861, tại vùng Biên Kiều, Biên Hòa, có cuộc khởi nghĩa của Phan Văn
Đạt và Trịnh Quang Nghi. Khi quân triều đình thua trận tại Phú Thọ rút về Biên
Hòa, hai ông đã soạn thơ văn hô hào và chiêu tập nghĩa quân, đóng tại làng Bình
Thành –phía nam Biên Kiều. Địch ở Tân An kéo đến đánh úp. Ngày 16/7, Phan
10


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Văn Đạt cùng 8 nghĩa quân bị giặc bắt, bị tra tấn dã man nhưng vẫn nêu cao ý chí
Page

bất khuất, chửi mắng quân giặc rồi bị chúng giết. Triều đình Huế phong tặng ông

11

-

hàm Tri phủ.
Cũng trong năm 1861, tại vùng Cần Giuộc có cuộc khởi nghĩa của Quản Là, cuộc
khởi nghĩa này đã giữ vững cả một vùng phía Bắc sông Vàm Cỏ, khống chế toàn

-

bộ địa bàn giữa Chợ Lớn và Gò Công.
Vào cuối năm 1861, có cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Lịch (Quảng LịchNguyễn Trung Trực) tại vùng Tân An. Nguyễn Văn Lịch (1839-1868), vốn là một
thanh niên dân chài. Năm 24 tuổi, ông gia nhập vào đội quân của Trương Định.

Thực dân Pháp lúc đó có thế mạnh là các tàu chiến trên sông nên Nguyễn Văn Lịch
quyết định mở cuộc tấn công.
Ngày 10/12/1861, Nguyễn Văn Lịch đánh chìm tàu Étpêrăngsơ (tàu Hi
Vọng) của Pháp trên sông vàm cỏ. Sử Triều Nguyễn chép: “khi ấy quân Tây
Dương đỗ tàu bọc đồng ở phần thôn Nhật Tảo. khuyên xung quản binh đạo là
Nguyễn Văn Lịch sai sung phó quản binh đạo là Hoàn Khắc Nhượng, Võ Văn
Quang đều đem binh quyền dọc theo ven sông, tới gần chỗ tàu quân Tây Dương
đậu, chi quân phòng bị và đặt quân phục kích bèn đem 59 viên quân chiến tâm,
chia làm hai đạo, giả làm thuyền buôn thẳng tới tàu Tây Dương, những người
cùng đi đều cùng nhảy lên tàu một lượt giết bừa đi. Quân Tây Dương nhảy xuống
sông, hoặc chết hoặc thoát thân; còn thì chui xuống khoang thuyền chống bắn.
Quang (Võ Văn Quang) liền hô 30 tên phục binh nổi dậy tiếp chiến. Bọn quản toán
là Nguyễn Học, hương thân là Hồ Quang lấy búa sắt phá tàu của Tây Dương
không vỡ, tức thì phóng lửa đốt cháy hết. Vua thương bọn địch, quản cơ Nhượng,
Quang công 20 người làm cai đội, đều cho ngân tiến và thưởng chung cho binh
lính 1000 quan tiền, 4 người chết cấp tiền tuất gấp hai lần và ấm nhiêu cho con
hay cháu gọi bằng chú bác ruột. Lại chấn cấp cho những nhà thôn ấy bị Tây
Dương đốt cháy.

11


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Thự tuần phủ Gia Định và Đỗ Quang, lãnh tuần phủ Định Tường là Đỗ
Page

Thúc Tỉnh đều nói trận này là xuất sắc nhất, cho nên mới thưởng cho hậu. Lại nói:

12


Những cử nhân thổ hào ứng nghĩa ở Định Tường, Vĩnh Long cũng có giết chết
được quân Tây Dương và đánh đắm được thuyền lính mã tà của Tây Dương nên
đều thưởng cho tiền tuất gấp hai”
Kết quả:
Tàu Étpêrăngsơ do trung úy hải quân Bacphe chỉ huy được trang bị một
khẩu đại bác và 1 đội quân (25 lính Pháp và Tagan). Trên bờ sông gần tàu Hi Vọng
còn có 20 lính mã tà đóng lại. Vì vậy quân số địch có tới 45 tên đã bị đánh chìm.
Rõ ràng với vũ khí thô sơ và lòng dũng cảm, tốp nghĩa quân quyết tử của
Nguyễn Văn Lịch đã làm nên một chiến thắng xuất sắc và đầy ý nghĩa. Kẻ địch thì
bàng hoàng thất kinh, còn dân ta thì phấn khởi, tin tưởng và hăng hái giết giặc. Từ
sau trận Nhật Tảo, hàng loạt cuộc tấn công tàu địch đã nổ ra khiến cho kẻ thù phải
thốt lên rằng: chiến công Nhật Tảo “là khúc dạo đầu cho một cuộc tổng công kích
hầu như toàn bộ các đồn của Pháp”. Sự nghiệp chiến đấu của Nguyễn Văn Lịch
đã ,mở đầu bằng một chiến thắng lớn lao để dẫn nghĩa quân của ông tới những
vinh quan to lớn hơn sau này.
- Đầu năm 1862, tại Gò Công, Tân Binh có cuộc khởi nghĩa của Lê Cao
Dũng, Hồ Huân Nghiệp kết hợp với nghĩa quân của Trương Định
Như vậy, qua các cuộc kháng chiến trên ta thấy được tinh thàn chiến đấu
chống giặc của nhân dân ta ngày càng quyết liệt. Ở giai đoạn đầu (từ năm 1859 đến
hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5/6/1862) là giai đoạn triều đình và nhân dân cùng nhau
đánh giặc, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Các cuộc chiến đấu của nhân dân lúc này dù
do ai lãnh đạo cũng đều mang tính chất yêu nước, bảo vệ tổ quốc đồng thời bảo về
chính quyền chuyên chế nhà Nguyễn. Trong giai đoạn này, nổi bật nhất , có tiếng
vang và tác động mạnh mẽ nhất là cuộc khởi nghĩa của Trương Định (1861-1862)
và cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Lịch trên sông Nhật Tảo. Nhưng sau đó, ngày
5/6/1862, triều đình đã kí hiệp ước Nhâm Tuất, đánh dâu bước ngoặt cho phong
12



Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

trào đấu tranh của nhân. Giai đoạn sau, từ năm 1862 trỏ đi là giai đoạn quần chúng
Page

nhân dân tự đứng lên cứu nước, cứu nhà và phản đối thái độ đầu hàng của triều

13

đình. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở mục tiếp theo.
Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kỳ từ năm 1862 đến năn

II.

1867:
1.

Hoàn cảnh của ta và thực dân Pháp trước khi kí hiệp ước Nhâm Tuất
(5/6/1862):

a.

Hoàn cảnh của Pháp:
Sau 4 năm chiến tranh, thực dân Pháp bị hao tổn rất nhiều sức lực nhưng chỉ
chiếm được 4 tỉnh thành bỏ ngỏ. Chỉ tính riêng cuộc tấn công chiếm Gia Định (từ
tháng 2/1859 đến năm 1864) chúng đã mất 2000 quân, tương đương với số quân
chúng đem tấn công Đà Nẵng (8/1858)
Phong trào kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngày một dâng cao, khiến
cho thực dân Pháp bị sa lầy, không đủ sức để đàn áp các phong trào của nhân dân
ta.

Giới chính phủ Pháp chưa hoàn toàn nhất trí việc tiếp tục cuộc chiến tranh
Việt Nam song song với cuộc chiến tranh Mêhicô.
Hơn nữa, kênh Xuyê chưa đào, muốn sang Đông Dương, quân viễn chinh


b.

Pháp phải đi vòng quanh châu Phi qua 2 đại dương nên rất tốn kém.
Như vậy Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam:
Hoàn cảnh của nước ta_thái độ của triều đình:
Dân tình đói khổ, hạn hán thường xuyên xảy ra.
Phong trào đấu tranh của nhân dân dâng cao.
Triều đình vẫn trung thành với xu thế hòa hoãn, tỏ ra khiếp sợ thực dân Pháp
và những vũ khí tối tân của chúng mà không nhìn ra những khó khăn của địch.
Không những không quyết tâm cùng nhân dân đánh giặc đến cùng mà triều đình lại
muốn bắt tay với Pháp để đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân.
Ngày 5/6/1862, một mặt triều đình kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất với các
điều khoản đa phần có lợi cho Pháp, một mặt cử Phan Thanh Giản vào Nam để ra
13


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

lệnh cho nghĩa quân các nơi hạ vũ khí  hành động đó của triều đình đã gây nên
Page

làn sóng bất bình trong dư luận cả nước.

14


2.

Phong trào kháng chiến ở Nam Kỳ giai đoạn từ năm 1862 đến năm 1867:

a.

Những phong trào trong hoàng tộc tại kinh thành Huế:
Những rối ren đã xảy ra ngay tại kinh đô của nhà Nguyễn_một cuộc khủng
hoảng chính trị sâu sắc, rất mạnh mẽ đã diễn ra…
-Vụ âm mưu bạo động nhưng bất thành trọng Hoàng tộc họ Nguyễn.
-Khởi nghĩa Đoàn Trưng, Đoàn Trực.
+ Vụ công tử Hồng Tập (1/1865), vụ này xảy ra vì 2 nguyên nhân và cũng vì
2 mục đích. Thứ nhất là phản đối hiệp ước đã kí năm 1862 bằng cách giết Phan
Thanh Giản và Trần Tiễn Thành, hai là đánh giết các giáo dân gần kinh thành. Sự
việc mới bắt đầu đã bị phát hiện nên dự định chưa được thực hiện. Có thể là dự
định này bị bại lộ vì khi đó ở cả 3 trường thi: Thừa Thiện. Hà Nội và Nam Định,
các sĩ tử đã bàn luận, phản đối các hiệp ước đã kí.
Đó thực sự là một sự kiện có tính toàn quốc làm triều đình Huế lo lắng và
cảnh giác. Và cũng ngay trong tháng ấy, vụ Hồng Tập đã xảy ra và bị dập tắt
Kết quả: Triều thần nghị bàn xử rất nặng. Vua Tự Đức giam bắt và kết tội
như sau: Xử chém ngay (bêu đầu) Hồng Tập, đổi qua họ mẹ (Vũ tập) và chém
Nguyễn Văn Viện. Trảm giam hậu Trương Văn Chất, Trần Thanh, Chu Thừa,
Đặng Kiêu, Nguyễn Thán. Giảo giam hậu Nguyễn Duy Cơ, Vũ Đức Vỹ.
Ý nghĩa: vụ án này dẫu kết thúc mau chóng nhưng có ý nghĩa chính trị
không nhỏ. Đó là phản ứng chống lại những ngừi đã chú trọng ký kết hiệp ước
nhượng cho giặc 3 tỉnh miền Đông. Đó là một dấu hiệu báo động về mối quan hệ
lương giáo sau này càng gay gắt hơn, làm đau lòng bao thế hệ.
+Cuộc khởi nghĩa ở kinh thành (9/1866) còn khởi nghĩa của Đoàn Trưng,
Đoàn Trực. Phong trào đã quy tụ được nhiều tầng lớp nhân dân từ binh lính, sư
sãi, những người xây lăng, tri thức…

Nguyên nhân: Lúc này vua Tự Đức đang cho xây dựng tiếp Vạn Niên cơ: là
Khiêm Lăng. Lăng được xây dựng từ tháng 12/1864 đến tháng 9/1867 thì hoàn
14


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

thành. Do được xây dựng trong thời gian dài, quy mô lớn, giữa lúc đất nước có
Page

chiến tranh nên rất tốn kém về người và của, vất vả, khó khăn, thiếu thốn vì lương

15

bị bớt xén, lạ bị đánh đập đòn roi. Những người lính trông coi cũng khổ cực chẳng
kém.
Cùng lúc ấy “Đông Sơn thi tửu hội” thành lập ở kinh thành gần Đoàn Hữu
Trưng và hai em Đoàn Ái và Đoàn Tư Trực. Cùng Trương Trọng Hòa, nhà sư


Nguyễn Văn Qúy (trụ trì chùa Lang Quang).
Đã kêu gọi nhân dân nhiệt liệt tham gia.
Diễn biến: Hội đưa Đinh Đạo (hay Ưng Đạo) lên ngôi thay thế Tự Đức.
Ngày 8 tháng 8 năm Bính Dần (năm Tự Đức thứ 15) tức ngày 16/9/1866 với hàng
ngàn người rầm rộ. Sử Triều Nguyễn ghi rất chi tiết như sau: “Dân gian dối là
đoàn Trưng cùng với bè lũ đem quân xâm phạm triều đình, phải giết chết. Trước
Trưng (người làng An Tuyền) và em hắn là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tú Trực cùng với
Trương Trọng Hòa, Phạm Lương kết làm hội Đông Sơn thi tửu ngầm mưu việc trái
phép lấy danh là phù lập Đinh Đạo, Hữu Quân là Tôn Thất Cúc làm nội ứng. Ái
gọt đầu làm sư mật kết với trụ trì chùa Long Quang là Nguyễn Văn Quý, ngầm ở

chùa Pháp Vân chiêu dụ bè lũ chế tạo khí giới, cờ súng, suốt đội là Bùi Văn Liệu,
Nguyễn Văn Đệ, Hồ Văn Sự, Nguyễn Văn Quý, đội trưởng là Lê chí Trực , sư ở
chùa Nguyễn Văn Viên và Nguyễn Văn Lý, người làng Dã Lê là Nguyễn văn Vũ,
lính Vũ Lâm là Lê Văn Tể, đều là bè lũ bí mật. Lúc ấy trong coi việc ở sở thợ
dương Xuân là Nguyễn Văn Chất tính khác nghiệt lòng quân oán, lũ tên TRƯNG
Nhân thế bảo rằng: hô một tiếng là có thể xong việc, bèn đến chùa Pháp Vân lập
đàn chay cúng ba ngày, (thuê mượn dân phu sở tại 100 người để làm đàn sở) tập
hợp quân lại, mật báo Tôn Thất Cúc hẹn ngày làm việc sai Bùi Văn Liệu đến trước
sở thợ, dự làm sáh ứng. Ngày 8 tháng ấy Cúc vào túc trực, lũ tên Trưng lấy trống
ba đêm hôm ấy đem bè lũ dọa bắt dân phu chia nhau cầm cờ, giáo theo đến xưởng
thợ Dương Xuân tìm Nguyễn Văn Chất, không được, trói đổng biện mà là thống
chế Nguyễn Văn Xa nói dối rằng: Vâng sắc bãi bỏ công việc, đem quân về thành,
15


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

phù lập Đinh Đạo, ngày mai làm lễ mừng, ban thưởng cho, ai trái lệnh thì đi
Page

chém, Bùi Văn Liệu đem binh đinh được trông coi 20 người đi theo xuất đội

16

Nguyễn Tăng Hựu, đội trưởng Lê Văn Cơ đem nhau theo giặc, cái biền binh trông
thấy, hoặc cầm binh khí, hoặc cầm chày gỗ (đồ giã vôi ở sở thợ) đi theo có đến
hàng nghìn, lũ tên Trưng chia làm 3 đạo (Trực Vũ làm tiền đạo; Trưng, Ái, Lương
làm chung đạo; Hòa Qúy là hậu đạo) lần lượt qua song, thừa lúc canh năm, sau
khi bắn súng, các cửa hoàng thành ở kinh thành đều mở theo hướng chính nam đi
vào, hai đạo quân tiền và trung sấn vào cửa Ngọ Môn, chia nhau đến cả trại quân

cẩm y và Kim Ngô ở hai bên tả hữu thu lấy khí giới Nguyễn Tăng Hựu cướp lấy
gươm và truyền hô quan quân điển hộ đều phải lặng im, trái lệnh thì chém. Tôn
Thất Cúc từ cửa đại cũng đi ra gặp lũ giặc, quay đến cửa nách bên tả, giặc Trực
đem bè lũ đi theo, gặp phó vệ úy là Nguyễn Thịnh sấn đến, Cúc lánh mặt, Thịnh
cùng chỉ huy sứ là Phạm Viết Trang đóng cửa chống giữ, bọn giặc bổ phá, lũ
Thịnh đều bị thương, phá cửa mà vào, đến nhà Duyệt thị, chưởng vệ quyền chưởng
doanh Long vũ là Hồ Uy chống cự, Trực chém Uy bị thương tai bên hữu, Uy kêu to
rằng: Nội dán đóng ngay cửa Tả xương, giặc Trực tìm bắt trung quân Đoàn Thọ,
hỏi rằng: Đoàn Thọ ở đâu? Có tiếng trả lời rằng Thọ ở điện Thái Hòa, giặc Trực
bèn lui cùng với giặc Trưng ở trung đạo họp ở đấy, Nguyễn Thịnh cùng với cai
đạo là Trần Đức, Lý giưc cửa nách, Hồ Uy ra hiệu gọi các quân đội thị vệ, Cẩn
tín, Túc trực, kíp đến bắt giặc, bọn gặc Trưng đem bè lũ ước năm sáu trăm đương
xếp hàng ở sân điện Thái Hòa (Nguyễn Tăng Hựu lấy mác sắt ở vệ Cẩm y cấm
từng hàng). Giặc Trưng loan gọi đội loan giá đem kiệu ra đón Đinh Đạo, kiệu ra
đến nữa đường, Hồ Uy quát lùi lại, Uy lại chỏ ra luc biền binh sở thợ mắng rằng:
Lũ ngươi chịu theo giặc à? Biền binh lùi tam, bọn giặc còn ước 30 tên, Uy sấn đến
đâm giặc Trực, cai đội Cáp Văn Sâm đâm theo, Trực ngã xuống, quân bắt giặc
sấn đến, Trực, Trưng đều bị bắt, giặc Ái chạy vào bếp sở Hộ vệ tự vẫn, bị quân bắt
lôi ra, giặc Vũ đâm đầu xuống ao Thái Dịch, Vũ cử Nguyễn Văn Thích nhảy xuống
16


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

bắt được quân hậu đạo của giặc đến bờ bên nam sông Hương, trụ trì Nguyễn Văn
Page

Qúy biết việc không thành, trốn về chùa, Trương Trọng Hòa vẫn chưa biết định

17


đem bè lũ vào thẳng trại doanh Thần cơ thu lấy khí giới hiệp quản vệ ấy là Vũ
Giác đem áo quan vũ và bài đeo cho giặc đi theo đánh trống làm hiệu. Bọn
Nguyễn Hùng, Lê Bình đem quân ra ngoài cửa Chương Đức cùng với Lê Sĩ bắt
được giặc Hòa và phái đến chùa Pháp Vân khám soát bắt Nguyễn Văn Qúy rải về,
bọn còn soát lại tan chạy tứ tung hoặc trốn về vệ đội cũ hoặc chạy về xưởng thợ
bấy giờ đóng hết các cửa thành chia đi tìm nã bắt được hết, đinh đạo, phải tội
chiêu xưng làm giặc, bắt thắt cổ ngay, đến cả thân thuộc con trai con gái. Bấy giờ
phủ Tôn nhân và quan triều đình thần hội tra án làm giặc, bọn giặc Trưng chiêu
xưng rằng: Đinh đạo đến tế mả cha hắn là Đinh Bảo, lũ giặc ấy trông thấy cho là
không phải người thường, đem lòng kính mến, mưu dựng nên làm vua đẻ mong
giàu sang, các thân công là lũ Miên Định mật tâu xin trừ đi”.
Kết quả: cuộc khởi nghĩa thất bại.
Tự Đức xử tội rất nặng cuộc khởi nghĩa này, ông nói rằng: “Trẫm chịu tiếng
hung ác tàn nhẫn”.
+ Đinh Đạo, cả mẹ và vợ, các con trai gái, 8 người đều phải thắt cổ ngay
(sau Đinh Đạo được tha, chỉ bị giam).
+ Nguyễn Cúc thuộc họ Tôn Thất uống thuộc độc tự sát thay bị băm xẻo
thành từng mảnh.
+ Trưng, Trực, Qúy, Hòa và các yếu phạm cộng thảy 13 người bị lăng trì,
bêu đầu bắt thân thuộc, tịch biên gia sản,chém 8 người bếu đầu. Cộng Nguyễn Văn
b.

Chất, Nguyễn Văn San và một số quan lại phủ Thừa Thiên bị cắt chức.
Những phong trào của nhân dân tại Nam Kỳ:
Cuộc khởi nghĩa của Trương Định:
+ Nguyên nhân:
Hiệp ước 1862 là một thất bại lớn của triều đình Huế. Điều đặc biệt là mặc
dù không phê chuẩn hiệp ước này nhưng triều đình Huế lại công nhận nó trong
17



Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

thực tế bằng việc thực thi ngay nhiều điều khoản trong đó có việc ra lệnh cho mọi
Page

lực lượng kháng chiến ở 3 tỉnh miền Đông phải hạ vũ khí chờ thương lượng chuộc

18

đất. Nhưng nhân dân miền Nam vẫn kiên quyết tiếp tục chiến đấu, không chịu
nghe lệnh triều đình bởi vì đó là lẽ sống với đấc nước.
Ngay sau khi hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), toàn thể các tù nhân ở Côn
Đảo cùng nhân dân nơi đây đã nổi dậy chống bọn Pháp đồn trú. Trước năm 1862,
địch đã biến Côn Đảo thành nơi lưu đày các thủ lĩnh và các nghĩa quân yêu nước.
Họ đều là các chiến sĩ dũng cảm với ý thức chính trị kiên định. Cuộc khởi nghĩa nổ
ra dồn tên sĩ quan Pháp Rútxen (Rousse) vào tình thế lâm nguy. Nhưng rồi tên đại
úy Risac (Richard) tới cứu viện và thực hiện một số cuộc tàn sát dã man. Dẫu thất
bại nhưng cuộc nổi đậy đã mở ra một lich sử đấu tranh hào hùng của chí trị phạm
Côn Đảo.
+ Diễn biến:
Sau khi kí xong hiệp ước Nhâm Tuất, địch đem bản hiệp ước đi tuyên truyền
khắp nơi; triều đình lại hạ lệnh ngưng đánh Pháp nhưng các cuộc nổi dậy vẫn diễn
ra khắp nơi đã buộc địch rút khỏi một số đồn như Gò Công, Tân An, Chợ Gạo…
Sử triều Nguyễn chép tháng 7 Nhâm Tuất (8/1862), tức là sau khi hiệp ước được kí
kết: “ Từ khi hiệp ước đã thành, thông dụ cho Nam Kỳ nghỉ quân, đổi Trương
Định về Phú Yên. Khi ấy, những nhân dân ứng nghĩa ở Gia Định, Định Tường,
Biên Hòa, không chịu theo Tây Dương, tụ họp đoàn kết, sau tôn Trương Định làm
người là đại đầu mục, tâu bày xin ra đánh giặc. Đình thần cho rằng việc miền Bắc

đương khẩn mà việc miền Nam chưa có cơ hội. Lại sau Phan Thanh Giản đi hiểu
dụ. Trương Định lâu không đến nhận chức, bèn cách chức hàm”.
Tuy Trương Định tỏ thái độ thờ ơ, thậm chí đã kháng lệnh triều đình nhưng
vua Tự Đức vẫn ẩn chứa đâu đó những ý kiến ủng hộ công cuộc kháng chiến của
Trương Định: Tháng 10 Nhâm Tuất (11/1862): “Phan Thanh Giản hằng dụ
Trương Định, Trương Định thề không cùng giặc Tây Dương cùng sống. Binh dân
ứng nghĩa ở 6 tỉnh thuộc vào trong bộ ngũ của Trương Định đều cùng cầm cự
18


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

chống lại giặcTây Dương. Tướng nước phú chiêu dụ Định, Định không chịu khuất,
Page

Thanh Giản lại xin xuống sắc để dụ Định. Vua bảo các thị thần rằng: lòng người

19

như thế, cũng là một sự giúp cho cuộc mưu tính lấy lại, há lẽ nào cứ răn dụ lặt vặt
mãi.”
Ngày 16/12/1862, dưới sự chỉ huy của Trương Định, nghĩa quân tiến hành
cuộc tổng tiến công. Hầu như các đồn bốt của địch ở các vùng Gia Định, Biên Hòa,
Mỹ Tho đều bị tấn công. Trận đánh lớn đầu tiên tiến công đền Rạch Tra trên đườn
Sài Gòn đi Tây Ninh, vào lúc đêm tối. Nghĩa quân leo lên đồn, giết lính giặc, đột
nhập vào trong đồn, giết chết đồn trưởng Turutđờ (Thouroude) bằng mác gỗ.
Nghĩa quân thu được hầu hết khí giới đạn dược rồi rút lui.
Trên sông Vàm Cỏ Đông, ba pháo thuyền của địch bị tấn công theo kinh
nghiệm trận Nhật Tảo của Nguyễn Văn Lịch năm trước. Bằng thuyền gỗ bắn đại
bác, nghĩa quân tiến đánh pháo thuyền số 3 của địch, làm bị thương nặng tên sĩ

quan chỉ huy. Nguyễn Văn Lịch cũng tấn công một pháo thuyền địch ở sông Bến
Lức.
Ở Biên Hòa, hàng ngàn đồng bào Kinh, Thượng với cung tên, giáo mác ào
xuống đánh phá các trại giặc.
Ở Bà Rịa, quân khởi nghĩa chiếm được nhiều huyện, như huyện Long
Thành, viên tri huyện bị giết, toàn thể lính mã tà chạy theo nghĩa quân.
Ở Cần Giuộc, quanh Chợ Lớn, nghĩa quân lên đến 5000 người, dưới quyền
chỉ huy của Hàn Lâm Phụ và Quản Là kéo lên Gò Đen đánh tốp địch dưới quyền
Létpét, qua đường Sài Gòn-Mỹ Tho. Đây là một trận đánh giành giật quyết liệt.
Ở Mỹ Tho, hơn 1000 nghĩa quân đánh đồn Thuộc Nhiêu cách Mỹ Tho gần
20km Đợt tổng tiến công này, nghĩa quân Trương Định giành được thắng lợi lớn,
nhất là giành quyền kiểm soát nhiều vùng quan trọng, đẩy kẻ địch vào thế bị vây
ép trên toàn chiến trường.
Nhưng từ năm 1863, địch được tăng viện đến hàng ngàn quân, chúng mở
cuộc tổng tiến công vào các căn cứ quan trọng nhất của nghĩa quân. Đàu tiên địch

19


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

tập trung đánh Quy Sơn. Trương Định bày kế dụ địch vào nơi bùn lầy và trận này
Page

địch thiệt hại nặng nề, bị tiêu diệt nhiều tên, phải rút chạy.
20đông quân hơn nữa đẻ tiến công vào căn
Thua trận Quy Sơn, địch tập trung
cứ chính của Trương Định là Tân Hòa. Chúng chia làm 3 mũi đánh từ 3 mặt. Mũi
thứ nhất do Đại tá Pie’trie từ mặt Tây Bắc đánh vào sông Rạch Lá và gặp sự kháng
cự quyết liệt của nghĩa quân đóng giữ Đông Sơn. Mũi thứ 2 từ mặt Đông tức sông

Xoài Rạp, gồm các chiến thuyền Tây Ban Nha Circe’ án ngữ vàm sông Gò Công,
chiến hạm Forbin ở vàm sông Rạch Lá, chiến hạm Avalanche, chiến hạm
Dragonne cùng nhiều tàu tuần giang khác chặn ở phía Nam trên sông Cửa Tiểu
(Tiền Giang). Mũi thứ 3 do đại tá Ariès chỉ huy tiến từ Mỹ Tho lên chợ Gạo, có
chiến thuyền yểm hộ. Ngoài ra còn có 30 thuyền bọc sắt đưa các tốp lính theo các
rạch nhỏ tiến vào.
Ngày 25/2/1863, địch cùng lúc tổng tiến công. Hai tướng của Trương Định
là Đặng Kim Chung và Lưu Bảo Đường bị trúng đạn hi sinh. Để phân chia lực
lượng địch, giảm nhẹ sức tiến công của chúng ở mặt trận chính, Trương Định hạ
lệnh cho nghĩa quân ở Tân Long, Bình Dương, Bình Long, Biên Hòa…cùng lúc
đánh mạnh vào các đồn địch Mai Sơn, Thuận Kiều, Tây Thái, Phước Trung, Bình
An và Long Thành quanh Sài Gòn. Nhưng vì sức chiến đấu công kiên của nghĩa
quân chưa đủ trình độ áp đảo nên không đạt mục đích chiến lược. Ngày 28/2/1863,
địch chiếm được Tân Hòa, quân ta rút khỏi vòng vây, kéo về lập căn cứ ở Phước
Lộc để tiếp tục chiến đấu. Một số khác tản mát về phía rừng Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, Tây Ninh, Đồng Tháp Mười, đoạn giữa đường Sài Gòn, Trảng Bảng và Vàm
Cỏ Đông. Nghĩa quân lại tổ chức chuẩn bị quân lương, khí giới kết hợp với vận
động tuyên truyền nhân dân tham gia chiến đấu. Về mặt chính trị, Trương Định
tiếp tục phản đối yêu cầu giải giáp của địch qua Phan Thanh Giản. Địch chỉ muốn
triệt tiêu cuộc chiến đấu của nghĩa quân và lấy đó làm điều kiện cho việc trả thành
Vĩnh Long. Không những kiên quyết chiến đấu, Trương Định còn viết thư đòi phải
20


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

trả lại 3 tỉnh miền Đông và tổ chức những trận đánh nhỏ ở Biên Hòa, Tân An, Mỹ
Page

Tho…và chuẩn bị lấy lại Tân Hòa. Các Hoa kiều đã giúp Trương định mua súng


21

đạn. Ông còn đổi lúa gạo để lấy vũ khí. Năm 1864, trong lúc chuẩn bị đánh lấy lại
Tân Hòa, thì bộ hạ của Trương Định là Huỳnh Công Tấn phản bội, hắn đã dẫn
đường dắt quân địch bao vây phục kích bí mật Trương Định cùng toán quân 25
người tại làng Tân Phước. Mờ sáng ngày 20/8/1864, cuộc chiến bất ngờ nổ ra,
nhưng Trương Định cùng nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, giết chết nhiều tên
địch. Chẳng may Trương Định trúng một viên đạn bị gãy cột sống lưng, quyết
không để giặc bắt, ông dùng gươm tự sát. Sau khi Trương Định hi sinh,con trai ông
là Trương Quyền đã dẫn một đội quân lên vùng Đồng Tháo Mười qua Tây Ninh
gây cơ sở kháng chiến, sát cánh cùng người Khơme đánh giặc.
Quang Quyền, trợ thủ đắc lực của Trương Định, tiếp tục cuộc chiến đấu,
nhưng ông không đủ uy tín để tập hợp tấc cả các thủ lĩnh và hào trưởng các địa
phương thành một khối thống nhất. Ông phải rời đến Giao Loan, là nơi nghĩa quân
các tỉnh tập hợp dưới quyền Phan Chỉnh. Phan Chỉnh tự xưng là Bình Tây Phó
Nguyên Soái, tiến hành chuẩn bị sức mạnh để khởi sự đánh địch. Biết Giao Loan là
trung tâm kháng chiến mới, tháng 1/1865, tên quan tư De la Rousse cầm đầu một
đội quân đánh vào căn cứ. Nghĩa quân có lập nhiều vị trí chặn đánh nhưng chống
cự được một thời gian thì nghĩa quân phải rút về Gia Loan, Gia Phú. Cùng lúc đó
có một đội quân khác từ Biên Hòa tiến đánh Xuân Lộc, chiếm đồn Bào Cá, nơi
nghĩa quân có sự tham gia chiến đấu của nhiều Hoa Kiều. Cuối tháng 1/1865,
nghĩa quân rút hết về Bình Thuận (có tài liệu nói rằng sau này Chỉnh về đầu hàng
-

giặc).
Cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương:
Thiên Hộ Dương chiến đấu tại vùng Đồng Tháp Mười. Sau khi Trương Định
hi sinh thì Thiên Hộ Dương (Võ Duy Đương) trở thành lãnh tụ chính ở vùng Tiền
Giang, với căn cứ là Đồng Tháp Mười. Đây là một vùng đầm lầy rộng mênh mông,

dân cư thưa thớt, quanh năm ngập nước, rừng cây thấp nhưng đủ che phủ nghĩa
21


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

quân. Đường bộ không có, đi lại chỉ bằng thuyền. Tàu to không đi được, muỗi
Page

nhiều, đĩa lắm. Tóm lại đó là một địa bàn thuận lợi cho chiến tranh du kích của dân

22

bản địa, khó khăn cho địch từ ngoài vào dù với phương tiện hiện đại hơn. Tháp
Mười có vị trí chiến lược quan trọng, vì nó có thể liên lạc cùng lúc với Châu Đốc,
Long Xuyên, Sa Đéc, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Tây Ninh và Campuchia. Tại
Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương xây dựng một hệ thống đồn lũy từ ngoài vào
trong chia ra các loại tiền hậu tả hữu để ứng cứu và yểm trợ lẫn nhau, quân số có
tới hơn một vạn, gồm cả người Việt, người Hoa, người Miên. Căn cứ tồn tại được
3 năm mà địch vẫn chưa dám kéo vào.
Cuối tháng 3/1866, nghĩa quân kéo ra giành giật với địch vùng Cái Nứa.
Tháng 4/1866, sau khi đã chuẩn bị kĩ, địch mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ
Thiên Hộ Dương. Địch chia 3 đạo: đạo thứ nhất do tên quan Boubé chỉ huy, xuất
phát từ Cầu Lố: đạo thứ 2 do quan tư Derome cầm đầu, xuất phát từ Mỹ Tho, trong
đãm này có tên Tấn đã phản bội giết hại Trương Định; Đạo thứ 3 do đại úy Gally
Passebose, chủ tỉnh Tân An dẫn đầu, xuất phát từ Tân An. Đạo thứ nhất của địch
sau khi bị chết khá nhiều mới chiếm được đồn Sa Tiền. Một thắng lợi trả bằng giá
quá đắt. Đạo thứ 2 chiếm được đồn Ấp Lý cũng bằng khá nhiều sinh mạng rồi bị
chặn lại ở đồn Tiền. Đạo thứ 3 cũng chiếm được đồn Gò Bắc cũng với thiệt hại khá
lớn, khiến địch phải xin cứu viện để đánh tiếp vào đồn Tả. Đồn Tả có 350 nghĩa

quân đóng giữ với 40 khẩu đại bác. Đặc biệt có cả người Pháp và người Philippin
trong số nghĩa quân này. Trận đồn Tả vào ngày 16/4/1866 là trận quyết liệt nhất.
Hai tiểu đội địch bỏ xác và bị thương. Quân ta lại rút và địc vào đến trung tâm
Đồng Tháp Mười, lúc này đã vắng bóng nghĩa quân. Ngày 24/4/1866, địch tấn
công Cái Thia-Mỹ Tho, bắt được một nghĩa quân người Pháp tên là Linguet. Như
vậy cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân đã có sức cảm hóa rất mạnh trong
hàng ngũ địch.

22


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Thiên Hộ Dương là một người đã lăn lộn nhiều năm ở các tỉnh miền Tây.
Page

Từ tháng 5/1861, triều đình Huế đã cử một đoàn vào mộ quân ứng nghĩa ở ba tỉnh

23

miền Tây. Trong đoàn này có mặt Chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương. Kể
từ đây ông đã hoạt động đánh Pháp cùng Trương Định. Sau khi rút khỏi căn cứ
Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định là
Trương Quyền và thủ lĩnh người Campuchia là A Soa tiếp tục đánh Pháp nhiều
trận. Thực ra Viện Cơ Mật ở Huế thường có ý định liên lạc và khuyến khích các
hoạt động chống Pháp để tìm cách giành lại mấy tỉnh đã mất. Vì vậy, một cách bí
mật, người của triều đình vẫn liến hệ với Võ Duy Dương cũng như Trương Quyền,
kể cả A Soa. Nhưng Tự Đức lại quyết thực hiện yêu càu của Pháp: Tháng 6 Bính
Dần (7/1866): “Bấy giờ chủ súy Pháp thường cho là: 3 tỉnh vẫn chứa dấu tên
Thiên Hộ Dương cho mượn khí giới giúp việc chính chiến để làm cớ nói. Cơ mật

thần xin tư cho kinh lược thần là Phan Thanh Giản, tùy nghi xử trí, bí mật tỏ bày
tình khoảng, để làm cái cớ gìn giữ”. Ba tháng sau, không rõ vì lý do gì triều đình
Nguyễn nói với Pháp là cho Võ Duy Dương, Trương Quyền trở ra Bình Thuận đi
khẩn hóng, rồi lại dặn quan tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa gặp họ thì cho đổi tên đi
và cấp cho ngựa về kinh, chứ không ở lại đấy: Tháng 9 Bính Dần (10/1866):
“Trước Nguyễn Hữu Cơ đến lỵ sở, đi Gia Định bảo sứ Pháp rằng: bè lũ Võ Duy
Dương nên cho ra thú dồn đi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với
Phan Thanh Giản, bèn tự cho các tỉnh Vĩnh Long, Gia Định, An Giang, Hà Tiên và
các tỉnh từ Bình Thuận trở ra Bắc, phàm bè luc Duy Dương đều cho ra thú đí khẩn
hoang. Lại xin sắc tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa hễ thấy tên Dương, tên Tuệ
thì đem đổi tên cấp ngựa cho trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tiếng”.
Phan Thanh Giản không tán thành với Nguyễn Hữu Cơ, vì ông luôn có ý
nghĩ như Tự Đức, nên tâu với Tự Đức việc này. Nguyễn Hữu Cơ bị giáng hai cấp.
Tuy nhiên, việc Thiên Hộ Dương trở ra Bình Thuận vẫn được thực hiện. Nhưng
rồi triều đình ngay trong tháng 10/1866, được tỉnh thần Thuận Khánh báo rằng:
23


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

“Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió bị đắm ở phận biển
Page

Thần Mẫu, sai tìm xác, chi đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan

24

tiền, 1 phương gạo”.
Rõ ràng Võ Duy Dương chết đột ngột khi đang thực hiện một dự định nào
đó với triều đình để đánh giặc hữu hiệu hơn. Có điều chắc chắn là lúc này Vial vữa

tới Huế đòi lấy 3 tỉnh miền Tây. Có thể Võ Duy Dương về kinh nhằm đối phó việc
này.
- Những cuộc chiến đấu liên minh của nghĩa quân Việt Nam và
Campuchia:
Trước hết phải nhắc đến A Soa mà sử thần triều Nguyễn ghi tên là Ong
Bướm, là con vua Campuchia. Tháng 6/1864, không chịu nền bảo hộ của Pháp và
cũng muốn tranh chấp binh quyền với anh là Ong Lằn, nên A Soa lánh sang vùng
Thất Sơn, Châu Đốc, miền Tây Nam Kỳ, nơi có rất đông đồng bào Khơ me sinh
sống. Ông trình lên triều đình Huế ý định “quy thuận nước ta để nương nhờ. Tỉnh
thần An Giang tâu lên, chuẩn cho lưu trú, nhưng bảo cho đầu mục Miên biết”. Sau
đó A Soa “mộ dân, dựng đòn cùng với Ong Lằn tranh giành đánh nhau. Lằn cầu
cứ chủ Súy Pháp, chủ súy Pháp yêu cầu ta bắt giao lại”. Vì thế, triều Huế sợ hãi ra
lệnh cho các tỉnh miền Tây phải nghiêm ngặt cự tuyệt A Soa, không cho ở lại đất
Việt (kể từ tháng 10/1865). Chính vì vậy, thực thi lệnh triều đình, Tổng đốc An Hà
là Phan Khắc Thuận đã đánh úp Ong Bướm ở núi Tốn thuộc An Giang, bắt được
tên thổ mục và lọng súng ngựa voi. Sai chém đầu tên đầu mục rồi làm tờ tư giao
cho chủ súy Pháp nhận thi hành”. Sự việc xảy ra vào tháng Chạp Ất Sửu (1/1866)
đã đẩy A Soa vào một tình thế nguy nan. Cũng chính vào lúc này, quan quân triều
đình đã làm một việc hết sức nhẫn tâm là bắt A Soa nộp cho Pháp. Phải nói rằng
trong số quan lại An Giang không phải ai cũng mê muội như thế: Tháng 6 Bính
Dần (7/1866): “ Tổng đốc An Hà bị cách là Phan Khắc Thuận, bắt được A Soa ở
Thất Sơn (thuộc An Giang) giải giao cho chủ súy Pháp, trong khi đí đường gặp

24


Đại cương lịch sử Việt Nam cận đại

Nguyễn Hữu Cơ, Hữu Cơ sức bảo đem trở lại, nhưng Trương Văn Uyển sợ sinh ra
Page


trở ngại khác, 2, 3, lần tư giục, bèn giải giao cho Pháp”.
25 Nam-Campuchia, A Soa là người đầu
Dẫu sao giữa nhân dân 2 nước Việt
tiên thắt mối liên minh chiến đấu. Lịch sử liên minh chiến đấu Việt-Campuchia
còn tiếp nối mạnh hơn giữa Trương Quyền và Pôcumbao
Pôcumbao cũng là một hoàng thân Campuchia và cũng có kỳ vọng vương
quyền. Do nạn tranh quyền trong vương triều Uđông, ông phải lánh sang miền
Nam Lào trong 17 năm. Tháng 4/1865, một số nhà yêu nước Campuchia tìm kiếm
Pucômbô để lập thủ lĩnh. Thực dân Pháp biết được điều này nên cho tên chủ tỉnh
Tây Ninh Larclause tìm bắt Pucômpô về Tây Ninh rồi về Sài Gòn để kiểm soát
nhưng vào tháng 5/1866 ông được giải thoát với sự giúp đỡ của những nhà ái quốc
Việt Nam.
Trận đánh đầu tiên diễn ra vào ngày 7/6/1866, tại Tây Ninh, giết chết tên chủ
tỉnh Larclause .
Trận đánh thứ hai là trận diệt viện. Được tin cấp báo từ Tây Ninh, La
Grăngđierờ, quyền thống đốc Nam kỳ, vội phái tàu chiến đem viện binh tới Tây
Ninh do đại tá Marchaise chỉ huy. Đúng ngày 14/6/1866, Marchaise xuất quân 150
tên với hai khảu đại bác tấn công ta nhưng đụng phải phục kích của ta tại trận địa
Rạch Vinh nên Marchaise cùng một số lính Pháp chết tại trận. Trận Rạch Vinh là
một trận chiến thắng lớn của liên quân Việt-Khơme, làm nức lòng nghĩa quân và
đồng bào khắp Nam Kỳ. Điều đó còn giúp cho công tác địch vận của nghĩa quân
càng có kết quả hơn. Đồng thời buộc địch phải rút bớt lực lượng đồn trú khắp nơi
về tăng cường cho Tây Ninh và Trảng Bàng, Sài Gòn.
Đêm 23, rạng 24/6, quân ta tấn công đồn Thuận Kiều, vào tận trong đồn
chiến đấu và rút lui an toàn trước khi Đốc phủ Ca đem ngụy quân đến ứng tiếp cho
địch. Cùng đêm đó, vùng Trảng Bàng, Chợ Lớn cũng bị ta tấn công. Nghĩa quân
của Trương Quyền ở cầu An Hạ (nằm giữa bưng Tầm Lạc và sông Vàm Cỏ Đông)
chia nhau đánh về Binh Biền (trên đường Chợ Lớn đi Mỹ Tho), đánh lên phía sông
25



×