ĐÁP ÁN CÂU HỎI TRIẾT HỌC CAO HỌC
Câu1. Quan điểm chính trị - xã hội của Nho gia. Nhận xét mặt tích cực và
hạn chế. So sánh đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.
Quan điểm chính trị - xã hội của Nho gia:
Nho gia, do Khổng Tử sáng lập, là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn nhất, là
hệ tư tưởng thống trị trong suốt thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và nhiều nước khác
như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm
và Tuân Tử phát triển về phía duy vật.
Về quan điểm chính trị-xã hội, Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan
hệ giữa người với người, trong đó các quan hệ như : vua tôi, cha con, chồng vợ, anh
em, bạn bè. Năm mối quan hệ này về sau được Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó có
ba mối quan hệ cốt lõi: vua -tôi, cha-con, chồng-vợ được gọi là Tam cương.
Khổng Tử coi nguyên nhân xã hội loạn lạc là do sự suy thoái đạo đức xã hội. Ông
mong muốn khôi phục lại trật tự xã hội kiểu nhà Chu, một kiểu xã hội được ông coi là
mẫu mực, lý tưởng. Đó là một trật tự xã hội có đẳng cấp, tôn ti trật tự, từ vua tôi đến
thứ dân ai cũng phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực.
1
Những phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng Tử là
Nhân, Nghĩa, Lễ, chính danh.
Nhân là lòng thương người. Phàn Trì hỏi thế nào là Nhân, Khổng Tử đáp “Ái
nhân” (Yêu người). Nhân được hiểu như là “toàn đức” Nhân có hai khía cạnh – trung
và thứ: Trung là thành thật với người, “Mình muốn lập thân thì hãy giúp người khác
lập thân. Mình muốn thành đạt thì hãy giúp người khác thành đạt”. (Kỷ dục lập nhi lập
nhân. Kỷ dục đạt nhi đạt nhân) Thứ là lòng vị tha, khoan dung. “Điều mình không
muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân).
Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người. Nhân có tính đẳng
cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
Trong đạo nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ
mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính
trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.
Nhân gắn liền với nghĩa. Nghĩa là hành vi đạo đức biểu hiện của lòng nhân.
Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình vì người khác. Vì thế, nghĩa và lợi
2
không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết
rõ về lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi).
Lễ là hình thức biểu hiện của nhân, biểu hiện lòng thương yêu, quý trọng con
người. Lễ bao gồm nhiều mối quan hệ rộng lớn từ quan hệ với thần linh (tế lễ) đến
quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong tục tập quán, quan hệ
nhà nước, luật pháp, v.v..
Theo Khổng Tử, tuân theo lễ là một điều kiện để thực hiện nhân đức. Khổng Tử
nói “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”. “Không biết lễ không thể đứng vững”. Người quân tử
không bao giờ làm trái với lễ. “Cái gì trái với lễ thì không nhìn, điều gì trái với lễ thì
không nghe, điều gì trái với lễ thì nói, điều gì trái với lễ thì không làm” (Phi lễ vật thị,
phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động).
Cùng với lễ, nhạc cũng có vai trò quan trọng. Khổng Tử nói “Hưng khởi là nhờ
thi, tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc”. Nhạc mà chính trực, trang nghiêm, hòa
nhã có tác dụng nuôi dưỡng tâm tính, cảm hóa lòng người, hướng cái tâm con người
tới chân, thiện, mỹ.
3
Khổng Tử coi chính danh là điều cơ bản để trị nước. Danh là tên, khái niệm, bản
chất. Chính danh có nghĩa là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó,
phải làm đúng danh phận, chức trách của mình, “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con” (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử).
Danh mà không chính thì ngôn (lời nói) sẽ không thuận (không có tính thuyết
phục, sẽ không được nghe và làm theo). Khổng Tử nói: “Thân mình chính được thì
không phải hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành. Thân mình mà không chính được thì dù có
hạ lệnh cũng chẳng ai theo”. Nhân, lễ, chính danh không chỉ là đạo làm người, mà còn
là đạo trị nước.
Khổng Tử coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Đường lối này
được gọi là đường lối “đức trị”, hay “nhân trị”. Để cho đất nước thịnh trị, phải biết
thượng hiền (tôn trọng người hiền tài). Phải thực hiện 3 điều: thực túc, binh cường, dân
tín.
Quan điểm chính trị-xã hội của Mạnh Tử : ông phát triển học thuyết của Khổng
Tử thành học thuyết nhân chính, chủ trương lấy đức để thu phục lòng người, phản đối
việc cai trị bằng bạo lực. Ông phân biệt vương chính (cai trị bằng nhân nghĩa) với bá
4
chính (cai trị bằng bạo lực). Mạnh Tử nói: “Kẻ lấy sức mạnh nói thác nhân là bá… Kẻ
lấy đức thi hành nhân là vương… Lấy sức mạnh thu phục người, không phải lòng
người theo mà vì sức mạnh không đủ. Lấy đức thu phục người thì người ta vui lòng
theo mình một cách thành thực như bảy muơi đệ tử theo Khổng Tử vậy”.
Mạnh Tử coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là
thường thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai
chiều, tôn trọng lẫn nhau. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ
thù. Nếu vua không có đạo đức thì không còn xứng đáng là vua nữa mà chỉ là “một
thằng” thôi và nhân dân có quyền đạo đức để lật đổ ngôi vua.
Thời Mạnh Tử, chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời. Mạnh Tử chủ
trương để cho dân chúng có hằng sản mới có hằng tâm nghĩa là dân phải có tư liệu sản
xuất (ruộng đất để canh tác) ổn định thì mới có cái tâm ổn định được.
Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí (hạn chế)
nhưng trong học thuyết về CT-XH với tư tưởng “nhân chính”, “dân bản” có ý nghĩa
tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử XH.
5
Quan điểm chính trị- xã hội của Tuân Tử: là người phát triển học thuyết của
Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ nhạc và chính danh, tuy nhiên, Tuân Tử phản đối
quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử về những vấn đề chính trị và đạo đức. Ông
đứng trên quan điểm duy vật và vô thần (tích cực), ông cho rằng tự nhiên gồm 3 bộ
phận: trời, đất và người. Trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ
sở hình thành và biến hoá của vạn vật. Như vậy, trời không quyết định vận mệnh của
con người, con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Việc trị hay loạn, lành
hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu con người hành động thuận
với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị mà đối phó với đạo thì lành, lấy
sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên và
XH để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc tôn thờ trời,
ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành
tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó và bệnh
tật. Về đạo đức ông đưa ra thuyết tính ác cho nên ông chủ trương sửa trị việc nước,
6
giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho XH tiến bộ, văn minh hơn. Ông đề cao “lễ trị”, ông
cho rằng lễ nghĩa và đẳng cấp trong XH là cần thiết để duy trì trật tự XH.
Nhận xét mặt tích cực và hạn chế: Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính
chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp, phản đối chiến tranh. Theo đường lối này, giai cấp
thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo cho dân; nhân dân phải an phận, lấy
nghèo làm vui (an bần nhi lạc), nghèo mà không oán trách (bần nhi vô oán).
Nho gia đề cao đạo đức và trách nhiệm của con người đối với xã hội. Nho gia đặt
con người trong năm mối quan hệ với những lập luận chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu
phấn đấu và nội dung tu dưỡng của con người. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã
hội.
Tuy nhiên, quan điểm Nho gia không tưởng khi chủ trương đơn thuần lấy đạo
đức làm cốt yếu để thiết lập trật tự xã hội theo kiểu nhà Chu. Đó là xã hội của quá khứ,
một xã hội có nền tảng kinh tế đã thay đổi. Chế độ công hữu với phép tỉnh điền của
nhà Chu không còn giá trị thực tế, trong khi đó, chế độ tư hữu ngày càng phát triển.
Theo quan điểm này sẽ gây nhiều chướng ngại cho sự phát triển đời sống xã hội.
So sánh đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia:
7
Trong thời Xuân Thu- Chiến Quốc và qua các thời đại sau, ở Trung Quốc có 3
thuyết lớn về đường lối chính trị: Thuyết Nhân trị của Nho gia, Vô vi trị của Đạo gia
và Pháp trị của Pháp gia.
Nho gia: đường lối chính trị là “đức trị” hay “nhân trị”, chủ trương cai trị đất
nước trên cơ sở bản thân nhà cầm quyền, sự hưng suy của xã hội đều do nơi bản thân
những người cầm quyền và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị có
đủ tài đức. Nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ
không phải dùng đến cưỡng chế trừng phạt “Vua cai trị nước mà biết đem cái đức của
mình để cảm hóa thì mọi người đều phục theo. Ngôi sao bắc đẩu tuy ở một chỗ mà có
mọi vì sao chầu theo”. Biện pháp cơ bản để thực hiện nhân trị là chính danh, lễ, vai trò
tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân. Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực
và chiến tranh. Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người,
đó là Ngũ luân và Tam cương. Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa
mâu thuẫn giai cấp, phản đối đấu tranh. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương
yêu, tôn trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận,
lấy nghèo làm vui, nghèo mà không oán trách. Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn,
8
ưa dùng bạo lực là mầm mống của loạn. Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ
dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện
thực.
Đạo gia đề xướng thuyết vô vi làm đường lối chính trị. Vô vi là sống, hoạt động
theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không làm trái với tự nhiên, không can thiệp vào trật tự tự
nhiên.Vô vi cũng có nghĩa là giữ gìn bản tính tự nhiên của mình, của vạn vật. “ theo
thái độ vô vi, dùng thuật không nói mà dạy dỗ, để cho vạn vật tự nhiên sinh trưởng mà
không can thiệp vào”. Lão Tử cho rằng chỉ cần làm cho dân “no bụng”, “xương cốt
mạnh” mà “lòng hư tĩnh”, “khiến cho dân không biết, không muốn”. Không dùng luật
pháp, không cần giáo dục nhân nghĩa, lễ, trí . “Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều
trị”. Lão Tử chủ trương hạn chế quyền lực của Nhà nước và hoạt động của dân đến
mức tối đa, để cho dân sống chất phác thời nguyên thủy, duy trì tình trạng nước nhỏ,
dân ít.
Pháp gia chủ trương đường lối pháp trị. Hàn Phi cho rằng bản tính con người ích
kỉ, thích tìm điều lợi và tránh điều hại, luôn mưu lợi cho bản thân; do đó phải đặt ra
pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. Theo Hàn Phi, để cai trị
9
xã hội cần phải có ba yếu tố là Pháp, Thế, Thuật. Pháp là pháp luật. Hàn Phi cho rằng
pháp luật phải được công bố cho mọi người biết để tuân theo. Pháp luật phải thay đổi
phù hợp với tình hình cụ thể. Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu.
Thuật là phương pháp, mưu lược, thủ đoạn trong việc trị dân. Nếu pháp được công bố
rộng rãi, thì thuật là cơ trí, thủ đoạn ngấm ngầm của vua, không để ai biết. Chính vì
thế, Hàn Phi nói vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ. Đường lối pháp trị của
Pháp gia là tư tưởng của giai cấp quý tộc mới, kiên quyết đoạn tuyệt với tư tưởng bảo
thủ, mê tín đương thời.
Ba đường lối chính trị này khác nhau về nguyên tắc. Thuyết nhân trị đề cao vai
trò của đạo đức, thuyết pháp trị nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp, thuyết vô vi
thì phản đối cả đạo đức lẫn pháp luật.
Mỗi học thuyết đều có giá trị riêng và hạn chế của nó, nhưng đường lối chính trị
mang tính nhân văn cao và được áp dụng hiệu quả trong lịch sử là đường lối nhân trị
của Nho gia. Học thuyết Pháp gia là công cụ giúp vua Tần thống nhất Trung Quốc, tuy
nhiên, học thuyết này khiếm khuyết nghiêm trọng ở sự tuyệt đối hóa yếu tố pháp luật,
phủ nhận vai trò của yếu tố đạo đức, nặng hình phạt tàn bạo, nên đường lối cai trị như
10
vậy tất yếu dẫn đến chế độ độc tài, mất lòng dân, và đó cũng chính là nguyên nhân dẫn
đến sự sụp đổ nhanh chóng của nhà Tần.
Trong ba đường lối này, thuyết vô vi mang tính chất xuất thế, trốn tránh trách
nhiệm với xã hội, đối lập với hai học thuyết còn lại. Chủ trương pháp trị đối lập với
nhân trị về nguyên tắc, nhưng xét đến cùng pháp trị cũng chỉ cụ thể là một hình thức
của nhân trị. Bởi vì muốn thi hành được các chủ trương của Pháp gia, xã hội cũng cần
có một đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu
khép mình theo nguyên tắc đó.
Câu 2: Bản thể luận và nhân sinh quan Phật giáo Ấn Độ cổ đại. Nhận xét
mặt tích cực và hạn chế.
Nét nổi bật về kinh tế xã hội của ấn độ cổ đại là sự tồn tại lâu dài của mô hình
“công xã nông thôn”,với kết cấu đó xã hội rất phức tạp với sự phân chia đẳng cấp, sự
phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo. Những điều kiện đó tác động
mạnh mẽ đến con người, để lại dấu ấn tâm linh đậm nét, tạo ra tiền đề cho sự ra đời
của nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Nét đặc thù của nền triết học Ấn Độ là nền triết
học chịu ảnh hưởng của những tư tưởng, tôn giáo có tính chất “hướng nội” chính vì
11
vậy việc lý giải và tiến hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm sinh tôn
giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng nổi trội của triết học cổ đại Ấn Độ tư
tưởng triết học Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo là một trường phái triết học tôn giáo xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ VI
trước Công nguyên. Phật giáo ra đời trong làn song đấu tranh chống lại sự thống trị của
đạo Bàlamôn, chống phân biệt đẳng cấp và đòi bình đẳng xã hội.
Người sáng lập (theo truyền thuyết): Siddharta (Tất đại đa, 563-483 TrCN), con
vua Tịnh Phạn (Suddhodana), nước Katìlavệ (Kapilavastu), mẹ là Hoàng hậu Ma-Gia
(Maha-maya) thuộc dòng họ Sakya nên ông được gọi là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni
= nhà thông thái của dòng họ Sakya). Năm 29 tuổi ông xuất gia đi tìm con đường giải
thoát. Sau khi tu luyện giác ngộ (năm 35 tuổi), ông lấy hiệu là Buddha (Phật, có nghĩa
là giác ngộ), thu nhận đồ đệ và đi khắp đất nước Ấn Độ để truyền bá học thuyết của
mình cho đến khi qua đời năm 80 tuổi.
Bản thể luận của Phật giáo: toàn bộ thế giới quan của Phật giáo được thể
hiện trong “đạo lý duyên khởi”, trong đó đưa ra 4 luận điểm:
12
-Vô tạo giả: Phật khẳng định rằng không có lực lượng sáng tạo đầu tiên (phủ
nhận Brahman) và cho rằng vũ trụ là vô thuỷ, vô chung, là một dòng vô tận không do
một thần thánh nào sáng tạo nên. Mỗi một sự vật được gọi là một pháp (hiểu theo hai
nghĩa: đồng nhất sự vật và hiện tượng; điều cấm kị của nhà Phật)
- Vô ngã: mọi sự vật và hiện tượng xung quanh và chính bản thân con người là
không có thật (duy tâm), nó được cấu tạo từ các yếu tố mà Phật giáo gọi là danh và
sắc. Danh và sắc được chia thành 5 yếu tố gọi là ngũ uẩn. Các yếu tố tinh thần gọi là
danh (nama) gồm: thụ (vedana), tưởng (samjna), hành (samskara), thức (vijnana). Con
người do 5 yếu tố (ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức) tạo nên. Có lúc Phật đưa ra 6
yếu tố (lục đại) gồm: danh là các yếu tố tinh thần có tên gọi mà không có hình, và sắc
là các yếu tố có hình (địa, thuỷ, hoả, phong và không). Các yếu tố lục đại và ngũ uẩn
kết hợp và hoà trộn với nhau tạo nên sự chuyển biến không ngừng của vũ trụ và bác bỏ
sự tồn tại của Brahman.
- Vô thường: Phật khẳng định Thế giới khách quan (con người và vũ trụ) không
có gì vĩnh hằng. bất biến mà cái gì cũng có quá trình sinh thành, biến đổi và tiêu vong
13
theo luật nhân quả mà Phật gọi là sinh- trụ- dị- diệt hay thành- trụ- hoại- không. Mọi
vật từ bé nhất (vi mô) đến vũ trụ (vĩ mô) đều phải tuân theo quy luật trên.
- Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả các sự vật và hiện tượng trên
Thế giới đều có nguyên nhân và kết quả tạo thành một chuỗi không ngừng nghĩ mà
Phật gọi là: nhân quả tương tục vô gián đoạn và nhân quả tương tục vô tạp loạn.
Nhân sinh quan của Phật giáo: toàn bộ nhân sinh quan được thể hiện trong
“Tứ diệu đế”, 4 chân lý vĩnh hằng, thiêng liêng , cao cả và đúng đắn nhằm giải thích xã
hội con người và thân phận con người.
- Khổ đế: chân lý về cái khổ, Phật cho rằng “đời là bể khổ”, Phật dạy rằng: “ta
chỉ dạy các con một điều là khổ và diệt khổ”, rằng “nước mắt của chúng sinh nhiều
hơn nước biển”. Cuộc đời con người có tám nổi khổ lớn mà Phật gọi là bát khổ: sinh,
lão, bệnh, tử, thụ biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn.
- Tập đế hay Nhân đế: Phật khẳng định rằng mọi nổi khổ của con người đều có
nguyên nhân, Phật đưa ra 12 nguyên nhân cho nổi khổ trên đời “Thập nhị nhân duyên”
nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng đều vô ngã, vô thường (không có thật, không có cái gì
14
bất biến), không có cái gì tồn tại vĩnh viễn thế mà con người sinh ra lại “tham- sân- si”.
12 nguyên nhân sinh ra nổi khổ là:
+ vô minh (avidya): không sáng suốt
+ hành (samskara): do vô minh mà dẫn đến tâm dao động, hoặc dẫn con người ta
đi vào ngõ cụt hoặc dẫn con người ta đi đến sự tham lam vô lối.
+ thức (vijnana): thức tồn tại, phân biệt ta với không ta, từ cái tâm trong sáng, cân
bằng đến mờ tối, mất cân bằng.
+ danh sắc (namarupa): là sự phối hợp giữa các yếu tố vật chất và tinh thần sinh
ra lục căn (6 cảm giác của con người: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý).
+ lục nhập (sandagatana): do tiếp xúc giữa 6 yếu tố bên trong với 6 yếu tố bên
ngoài nghĩa là lục căn tiếp xúc với lục trần mà sinh ra 6 cảm giác là nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt,
thân, ý.
+ xúc (sparsa): cảm nhận được do tiếp xúc giữa con người với yếu tố bên ngoài
+ thụ (vedana): 3 loại: lạc thụ, khổ thụ, xá thụ.
+ ái (trisna)
15
+ thủ (upandana)
+ hữu (bhava)
+ sinh (jati)
+ lão tử (jara-marana)
- Diệt đế: khi tìm ra được ngọn nguồn của nổi khổ theo thập nhị nhân duyên Phật
cho rằng con người có thể từ bỏ được tận gốc mọi nổi khổ để thoát khỏi vòng luân hồi,
nghiệp chướng để đưa chúng sinh đến cõi niết bàn (nirvana).
- Đạo đế: con đường con người phải tuân theo để diệt khổ, gồm có Bát chính đạocon đường với tám phương hướng đúng đắn
+ Chính kiến (sammyak- dristi; right views): thấy, xem xét sự vật một cách đúng
đắn. Chính kiến cũng có nghĩa là hiểu biết đúng đắn.
+ Chính tư duy (sammyak- samkalpa; right intention): suy nghĩ đúng đắn.
+ Chính ngữ (sammyak- vaca; right speech): lời nói đúng dắn
+ Chính mệnh (sammyak-ajiva; right livehood): mưu sinh đúng dắn
16
+ Chính tinh tiến (sammyak- vyayama; right effort): cố gắng, nỗ lực phấn đấu
một cách đúng đắn.
+ Chính niệm (sammyak- smritisati; right mindfulness): ghi nhớ, tâm niệm đúng
đắn.
+ Chính định (sammyak-samadhi; right concentration): tập trung tư tưởng một
cách đúng đắn.
Tám điều này được gộp lại thành 3 điều: Giới (sila, morality) gồm chính ngữ,
chính nghiệp, chính mệnh; Định (samadhi, concentration) gồm chính tinh tiến, chính
niệm, chính định; Tuệ (panna; wisdom) gồm chính kiến, chính tư duy.
Nhận xét mặt tích cực và hạn chế:
- Tích cực:
+ Là trường phái triết học vô thần (chống lại Brahman và không thừa nhận
atman) mặc dù không triệt để, có yếu tố duy vật biện chứng, thừa nhận có sự vận động
tuyệt đối của các sự vật hiện tượng.
+ Chống lại sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình đẳng xã hội.
17
+ Triết lý của đạo Phật có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó khuyên con người khinh ghét
những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường.
+ Đạo Phật có tính nhân đạo cao bởi vì nó khuyên con người suy nghĩ và làm điều
thiện, tránh xa điều ác, thưng yêu cứu giúp mọi người. Không dùng bạo lực trong
quan hệ giữa các giáo phái khác nhau cũng như tôn giáo khác nhau.
- Hạn chế:
+ Phật giáo là trường phái duy tâm chủ quan trong quan niệm về XH bởi vì nó cho
rằng nguyên nhân cơ bản của mọi nổi khổ là do vô minh do đó Phật giáo cho rằng sự
sáng suốt, giác ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi cái
khổ.
+ Chưa nhận thấy được sự đứng yên tương đối của các sự vật hiện tượng.
+ Phật giáo chủ trương giải thoát con người bằng phép tu thân, tích đức tiêu cực, xa
lánh cuộc đời mà không mang phong trào cách mạng XH, phủ nhận sự biến đổi cải tạo
XH bằng thực tiễn cách mạng.
18
+ Phật giáo theo trường phái nhận thức luận duy tâm, nhận thức chỉ thực hiện
bằng sự tu luyện, thiền định. Không thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư
duy cũng như via trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức.
+ Phật giáo cho rằng cuộc đời là giả, ảo, mọi ham muốn đời thường đều là tội lỗi.
Tuy nhiên, Niết bàn - cái mà Phật cho là thực tại thì hóa ra chỉ là điều tưởng tượng
thuần túy, không có gì làm bằng chứng.
Câu 3: Những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Việt Nam.
I. Qúa trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam.
1.
Tư tưởng triết học Việt Nam thời cổ đại.
Cách đây 4000 ngàn năm, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã bước vào
thời kỳ đồng thau. Trong nền văn hoá Tiền Đồng Sơn ( bắt đầu từ 2000 năm trước
công nguyên ), cư dân Việt nam đã biết trồng lúa, chăn nuôi gia súc: trâu, bò, lợn…Họ
biết chế tạo những đồ trang sức bằng ngọc tinh vi với những kiểu dáng khác nhau,
những đồ gốm với nhiều hoa văn phức tạp. Các đường tròn và hình đối xứng chứng tỏ
cư dân đã có những kiến thức hình học nhất định.
19
Cư dân Tiền Đông Sơn đã có tục chôn cất người chết sâu trong lòng đất cùng với
đồ tuỳ táng. Điều này chứng tỏ họ đã quan tâm đến “cuộc sống”của người chết ở thế
giới bên kia. Những hoa văn được trang trí trên đồ gốm biểu hiện mô hình vũ trụ và
hình đối xứng chứng tỏ cư dân đã có những kiến thức hình học nhất định.
Sự hình thành nền văn hoá Đông Sơn đánh dấu quá trình hợp nhất các bộ lạc và
nhóm bộ lạc để tạo thành một nhà nước rộng lớn mà truyền thuyết gọi là những Văn
Lang của các vua Hùng.
Chủ nhân nền văn hoá Đông Sơn đã đưa nghệ thuật đúc đồng lên đỉnh cao. Họ đã
đúc được những chiếc trống đồng lớn có âm thanh hay và những hoa văn tinh tế. Ngoài
ra họ còn đã biết chế tạo những công cụ bằng sắt.
Nhữnh hình vẽ trên trống đồng ghi lại cảnh sinh hoạt của người Viềt Nam thời kỳ
văn hoá Đông Sơn. Trên mằt trống đồng khắc hoạ hình ảnh ngôi nhà sàn, những đoàn
người nhảy múa với các nhạc khí trên tay, những con thuyền với những người cầm vũ
khí, hình ảnh những con chim,hươu…
20
Thời kỳ văn hoá Đông Sơn là thời kỳ xuất hiện nhiều huyền thoại. Có những
huyền thoại lớn được lưu truyền đến ngày nay, như huyền thoại về nguồn gốc dân tộc
Việt Nam như Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Thánh gióng…
Người Việt Nam thời Đông Sơn đã có tư duy lưỡng hợp ( tương tự như thuyết âm
dương ở Trung Hoa cổ đại ). Những mặt đối lập, lưỡng hợp được trình bày trên trống
đồng, như đực – cái, dương vật – âm vật, chim – hươi… Nhưng hình ảnh lưỡng hợp,
lưỡng phân, đối lập, xung đột giữa các mặt đối lập cũng được thể hiện trong huyền
thoại: Con cháu rồng – tiên, 50 con lên núi – 50 con xuống biển, Sơn Tinh - Thuỷ
Tinh, núi - nước…
2. Sự truyền bá những hệ tư tưởng nước ngoài vào Việt Nam.
- Nho gia truyền vào thời Bắc thuộc trước Công nguyên. Hai thái thú Giao chỉ và
Cửu chân là Nhâm Diên và Tích Quang đã khởi xướng việc dạy học ở nước ta. Nhiều
sĩ phu Trung quốc sang là mở trường dạy Nho học.
Mục đích truyền bá Nho học vào nước ta là nhằm đào tạo những người làm việc
cho chính quyền Trung Quốc. Tuy vậy, người Việt Nam học Nho nhờ nắm được kiến
thức nên lại có thêm cơ hội suy gẫm về vận mệnh nước Việt.
21
- Đạo gia cùng với Nho gia cũng được truyền vào Việt Nam và trở thành một bộ
phận trong quan niệm tư tưởng của người Việt.
Đạo gia tuy đối lập với Nho gia nhưng cũng được nhiều tri thức Trung Quốc và
Việt Nam chấp ở khía cạnh lối sống nhàn hạ, hoà nhập với thiên hiên, xa lánh vòng
danh lợi ở một số tri thức bị thất thế hay đã hoàn thành trách nhiệm đối với xã hội.
Một biến tướng của Đạo gia cũng được truyền vào nước ta dưới hình thức tín
ngưỡng, mê tín quần chúng (Đạo giáo nhờ nhân vật Lão Tử)
- Đạo Phật cũng được truyền vào Việt Nam rất sớm bằng hai con đường: Phật
giáo Nam tông, chủ yếu là dòng Tiểu thừa truyền từ Ấn Độ qua Srilanca, Mianma,
Thái Lan, Lào, Capuchia, Indonesia, Việt Nam. Phật giáo Bắc tông chủ yếu dòng Đại
thừa qua Tây Tạng, Mông Cổ, các nước Trung Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
Thời Tiền, Lê, Lý, Trần, đạo Phật có vai trò quốc giáo. Đạo Phật có vai trò tích
cực trong dựng nước và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều nhà sư nổi tiếng được tham gia quốc
sự, giúp nhà vua trong công việc đối nội và đối ngoại. Các vua Lý, Trần chịu ảnh
hưởng Phật giáo rất sâu sắc. Nhiều tác phẩm Phật học được viết ra, nhiều môn phái
Phật giáo được thành lập.
22
Từ thời Hậu Lê, sau khi đường lối “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân
thay cường bạo” đã thực sự góp phần giành độc dân tộc thì hệ tư tưởng Nho gia bắt
đầu giữ vai trò thống trị trong đời sống chính trị và tinh thần ở nước ta.
Nho, Lão, Phật được coi là “Tam giáo” và được vào chương trình giảng dạy và
học tập ở nước ta trong thời kỳ phong kiến.
- Kitô giáo bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ
XVI. Từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII nhiều giáo đoàn thuộc dòng Phranxicô
và dòng tên thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây Ban Nha liên tiếp vào Việt
Nam thu hút được 50.000 người theo đạo. Cuối thế kỷ XVII, quyền truyền giáo ở Việt
Nam được giao cho Người Pháp. Đến năm 1850 cả nước có khoảng 500.000 tín đồ.
Các vua triều Nguyễn từ Minh Mạng, Tự Đức đưa ra nhiều chỉ dụ cấm đạo,
nhưng không ngăn cản được việc truyền đạo Công giáo. Trong thời kỳ Pháp thuộc ở
Việt Nam có khoảng 1,5 triệu tín đồ Công giáo.
II. Những nội cơ bản của tư tưởng triết học Việt Nam
23
1. Về bản thể luận- Chủ nghĩa duy tâm và tư tưởng tôn giáo là tư tưởng
thống trị trong xã hội Niệt Nam. Tư tưởng duy tâm thể hiện ở việc vào số mệnh,
nghiệp, kiếp; coi mệnh trời quyết định sự thành bại của con người:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
“Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm cho người thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
Bên cạnh tư tưởng mệnh trời cũng có tư tưởng đề cao vai trò con người hơn
mệnh trời:
“Xưa nay nhận định thắng thiên cũng nhiều”.
Có quan điểm coi trọng thời, thế hơn mệnh.
- Các quan điểm duy vật lẻ tẻ, không thành hệ thống thường xuyên phản
kháng lại quan điểm duy tâm:
+ bác bỏ nguồn gốc thần thánh và vai trò quyết định của vua:
24
“Được làm vua, thua làm giặc”.
“Phép vua thua lệ làng”.
+ vạch trần thực chất của tệ mê tín bói toán:
“Bói ra ma, quét nhà ra rác”
+ vạch trần sự giả trá của thầy bói
“Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”.
2. Quan điểm chính trị - xã hội
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng yêu
nước không chỉ là một tư tưởng chính trị mà còn là một tư tưởng đạo đức và nhân văn
cao cả.Yêu nước là phẩm chất cao quý nhất, đứng hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần
Việt Nam. Đồng thời, yêu nước là trách nhiệm của mọi người không phân biệt đẳng
cấp, giới tính.
“Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
25