Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Mục đích canh tân của Nguyễn Trường Tộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.4 KB, 17 trang )

1. Hoàn cảnh lịch sử:
Khoảng giữa thế kỷ XIX, hoàn cảnh lịch sử trên thế giới và trong nước ta
thật là sôi động và phức tạp. Chủ nghĩa tư bản ồ ạt tung lực lượng hùng mạnh ra
khắp toàn cầu để tìm kiếm thị trường, khai thác tài nguyên, nhân công và
tranh giành thuộc địa. Đại công nghiệp cơ khí của tư bản chủ nghĩa đang dùng
những “đoàn tàu hỏa” để đè bẹp những “xe cút kít” ở các nước lạc hậu về kinh tế.
Quan hệ tiếp xúc Đông – Tây đã chuyển từ thương mại tự do sang đối địch. Thay
vì tôn trọng chủ quyền, thiết lập mối quan hệ buôn bán như trước đây, các nước tư
bản châu Âu bắt đầu thực hiện chính sách “ngoại giao pháo hạm”, sử dụng vũ lực
để từng bước thực hiện ý đồ thực dân.
Thực tế rõ ràng, sự bành trướng thuộc địa của các nước thực dân đế quốc ở
châu Á đẩy các nước trong khu vực đứng trước nguy cơ bị mất chủ quyền. Nhưng
khi các nước phương Tây đã phát triển chủ nghĩa tư bản tới trình độ cao làm thay
đổi toàn bộ diện mạo thế giới với những lực lượng sản xuất hùng hậu, với nguồn
hàng hóa dồi dào hơn tất cả các thế kỷ trước cộng lại, với sự ra đời của giai cấp
công nhân công nghiệp tiên tiến đã tự ý thức về mình với ngọn cờ lý luận chủ
nghĩa Mác, thì phương Đông vẫn đắm chìm trong nền quân chủ chuyên chế và
phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, khép kín.
Nước Việt Nam dưới triều Nguyễn, đặc biệt là dưới triều Tự Đức, do những
chính sách sai lầm của triều đình mà nền kinh tế ngày càng kiệt quệ: nông nghiệp
sa sút, thương nghiệp đình đốn. Nhà Nguyễn phải luôn dồn lực lượng đối phó
với các cuộc khởi nghĩa của nông dân và “tiểu phỉ”. Tất cả làm cho tiềm lực đất
nước ngày một hao mòn, suy yếu. Bên cạnh đó, quan hệ lương - giáo ngày càng
trở nên căng thẳng, nghiêm trọng mà triều đình lại rất lung túng và sai lầm
trong việc giải quyết vấn đề này. Khi Việt Nam đang trong tình trạng khủng
hoảng như vậy thì tư bản Pháp nhòm ngó, gõ cửa và mở rộng xâm lược nước
ta.
Những khó khăn về kinh tế ngày càng gay gắt, sự rối loạn về chính trị xã
hội và giặc ngoại xâm đó đặt ra yêu cầu canh tân đổi mới đất nước như một yêu
cầu bức thiết. Trong hàng nghìn quan lại, chỉ có một số người nhận thức được tình
thế hiểm nghèo của dân tộc, đưa ra được nhiều đề nghị đổi mới giáo dục, cải


cách kinh tế, tăng cường quốc phòng…nhằm cứu vãn đất nước khỏi họa
ngọai xâm.
Trong tất cả những đề xuất của nhà nho yêu nước Việt Nam trong nửa đầu
thế kỷ XIX, đáng chú ý hơn cả là dự án canh tân của Nguyễn Trường Tộ. Dự án
Xu Hướng Canh Tân

Trang 1


của ông khiến cho không ít nhiều người đương thời và hậu thế phải tán đồng và
khâm phục, đó là cả một kế hoạch đổi mới toàn diện đất nước, nếu được thực thi
có thể xoay chuyển được tình hình đất nước lúc bấy giờ. Đó là những đề nghị mà
Nguyễn Trường Tộ dồn cả tâm huyết và trí lực sáng tạo nên, và điều ngạc nhiên
nó không thua kém gì các nội dung của các nước lúc bấy giờ.
2. Tiểu sử:
Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng
Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Công giáo, Ông mất vì một
cơn bệnh hiểm nghèo, ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ
24, tức ngày 23 tháng 11 năm 1871.
3. Mục đích canh tân của Nguyễn Trường Tộ:
a. Trước mắt (cấp thiết):
Với ý thức dân tộc sâu sắc và với tư duy khoa học uyên thâm trên nhiều
lĩnh vực, Nguyễn Trường Tộ đã vượt qua được những hạn chế của nho sĩ đương
thời. Ông đã đứng trên tầm cao của lịch sử để phân tích tình hình lịch sử đất nước
và con người Việt Nam lúc bấy giờ. Nhận thấy sự yếu kém về thế và lực yếu kém
so với Pháp và các nước khác, ông đưa ra đề nghị cải cách trên mọi lĩnh vực để tự
cường, lập lại thế cân bằng cho dân tộc đủ sức chống lại sự xâm lược của Pháp,
tránh được họa mất nước.
Theo Nguyễn Trường Tộ, con đường cứu nước “phải tìm trong thiên hạ”.
Đó là con đường đi theo người Nhật, phải canh tân đổi mới đất nước. Chỉ có canh

tân, đổi mới đất nước thì mới thu hồi được 6 tỉnh Nam Kỳ và bảo vệ vùng đất còn
lại của đất nước. “Nếu không canh tân để tiến bộ thì dù có tạm thu hồi được, vá
hôm nay ngày mai lại rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện gì xẩy ra.
Nếu nhất luật canh tân để tiến bộ thì việc giữ không khó mà việc thu hồi không
chóng thì chầy cũng có thể hy vọng được”. (Di thảo số 52)
Hay như trong di thảo 54 (phải gấp thực hiện các kế hoạch), ông cũng nhắc
lại: “…Họ là người ta là quỷ, con đường lợi hại được mất đã thấy hết rồi.
Nhưng rốt cuộc cũng không khỏi hai con đường là canh tân và mở rộng giao
thiệp mới có thể bảo đảm không bị chúng vồ lấy. Như thế đó không phải là kế
độc nhất vô nhị, đến chỗ tuyệt vọng mà được sống sao”.
Trong bản điều trần “Tế cấp bát điều”, ông cũng nói rõ hơn về mục đích
trước mắt này: “…Nếu làm đúng như thế sẽ được như người ta hoặc hơn người
ta. Nếu không làm nhất định phải thua sút thiên hạ…Giờ đây vẫn là lúc những
Xu Hướng Canh Tân

Trang 2


việc làm của ta không chỉ nhằm thi hành trong nước mà còn phải đối phó với
thiên hạ”.
Do mục tiêu trước mắt, Nguyễn Trường Tộ đặt gấp rút cải cách võ bị, nâng
cao sức chiến đấu của quân đội lên hàng đầu, cùng lúc là tìm mọi cách tăng nguồn
của cải, phát triển kinh tế. Hai việc này sẽ giúp dân giàu nước mạnh, đủ sức chống
lại sự xâm lược của kẻ thù, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trường Tộ cho đến
cuối đời vẫn nhắc lại mục đích này: “Đường lối chắc chắn có thể chống lại họ
đều quy vào con đường cải cách canh tân và quảng giao các nước”.
b.Lâu dài:
Ngoài mục đích trước mắt trên, còn có một mục đích lâu dài hơn mà Nguyễn
Trường Tộ hướng tới, đó là nhằm đưa đất nước ta phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa, từng bước đi lên sánh ngang, thậm chí vượt các nước phát triển đương

thời.Trên cơ sở: Ông tin vào thuyết vận hội, chẳng bao lâu văn minh phương Đông
sẽ thắng thế so với phương Tây: “Vì rằng ta đã học hết các trí thuật của họ…rồi
sau lấy cái trí tuệ vốn sẵn có của ta thêm vào cái trí tuệ của ta mua được của
họ. Đất là đất của ta, mượn cái trí xảo của họ ngày càng già nua còn cái trí xảo
của ta thì mới mẻ trẻ trung, đem hai trí mà địch lại một trí, lẽ nào lại không
thắng được ?”.
Trong bản điều trần “Kế hoạch” (Di thảo số 5), ông đã xác định mục tiêu xa
của canh tân: “Dùng kế này không những chống đỡ được Pháp mà còn đề
phòng được thiên hạ. Nếu cho rằng kế này quá phiền phức mà chậm, tức
không biết rằng muốn thành việc lớn phải đấu tranh hằng trăm năm trời chứ
đâu phải một hơi mà được”. Với việc xác định mục đích cuối cùng là sự giàu
mạnh, phát triển bằng người chứ không chỉ dừng lại ở mục đích đối phó trước mắt
với Pháp, ông chấp nhận việc mất đất ở các tỉnh Nam Kỳ, miễn là đạt được nền
hòa bình và giữ vững được chủ quyền ở những vùng còn lại để tập trung toàn lực
vào canh tân đất nước, từ đó dần dần đủ lực sẽ lấy lại những vùng đất đã mất. Lúc
đó, đất nước có giàu mạnh thì hòa bình mới vững chắc và lâu dài.
Trước hết, Nguyễn Trường Tộ quan niệm về chủ trương canh tân, đó là:
canh tân hiện nay là nhu cầu cấp bách “nếu việc làm của ta không kịp người thì hệ
trọng sẽ không nhỏ, nếu không canh tân để tiến bộ thì dù có tạm thu hồi được, vá
hôm nay ngày mai lại rách”. Nếu nhất luận canh tân để tiến bộ thì việc giữ không
khó, thì việc thu hồi không chóng thì chầy cũng có thể hy vọng được” (di thảo số
52). Ở di thảo số 18, Nguyễn Trường Tộ quan niệm “canh tân không phải là muốn
Xu Hướng Canh Tân

Trang 3


bỏ hết cái cũ mà mưu cầu cái mới. Nhưng phải lấy cái hay của mình có sẵn, còn
phải gồm cả những cái hay của thiên hạ mới sáng tạo ra. Như thế những cái mới
thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẵn có thì thiên hạ không có. Lấy hai

điều biết mà địch lại một điều biết như ở đoạn giữa của bài Lục lợi từ tôi đã trình
bày. Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?”
Nguyễn Trường Tộ viết tiếp “Giả như có một nước nào ngày nay muốn
đóng cửa không tiếp khách để hưởng yên vui một mình cũng không thể được.
Bởi vì ta không đến người, người cũng sẽ đến ta”.
4. Chủ trương canh tân của Nguyễn Trường Tộ:
a. Về kinh tế:Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị lên triều đình nhiều chương
trình phát triển kinh tế. Ông nêu lên tầm quan trọng của ngành kinh tế nông nghiệp
và thực trạng của nó lúc bấy giờ. Ở di thảo số 53, ông viết “Trời sinh ra con người
không phải chỉ sinh con người trơ trụi mà trước tiên sinh vạn vật để đủ cho con
người sinh sống”. Nguyễn Trường Tộ đã nhận thức rất đúng, vấn đề là làm sao để
giàu, để thực hiện được dân giàu nước mạnh, ông viết “cách làm cho đất nước
mạnh là ở chỗ tạo ra nhiều lương thực, của cải, khí giới, thành trì vững quốc
khí đầy đủ” (di thảo số 5), phải biết khai thác nguồn lợi tự nhiên “Nay nước ta,
của công chỉ nhờ vào thuế, mà thuế đánh có hạn, chứ không có cách gì để làm
cho của cải được nhiều như phương Tây. Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở
đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân
nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của. Do đó nước giàu mà dân cũng
giàu” (di thảo số 5). Trong kinh tế, vấn đề đầu tiên ông đề cập đến nông nghiệp
Nông nghiệp: vì nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, lúc bấy giờ 99%
dân chúng sống bằng nông nghiệp. Chính Nguyễn Trường Tộ cũng nhìn nhận
rằng: “Nông nghiệp là gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cho đời sống
đều nhờ vào nông nghiệp” (Di thảo số 27). Nguyễn Trường Tộ đề nghị mở
khoa “Nông chính”, đề nghị soạn cuốn sách “Nông chính toàn thư”, lập “Bộ
canh nông” như các nước ở phương Tây. Bởi vì, ông nói: “Ngành trồng trọt
chăn nuôi của nước ta đều phó mặc tự nhiên, không có quan viên bày vẽ,
giáo dục, đốc suất...” (di thảo số 27). Nhất là trong nhân dân có nhiều tập tục
mê tín dị đoan cản trở việc khai hoang phục hóa, tưới tiêu mà không có ai dám
chủ xướng cải cách.
Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập chức “nông quan”, chức này thì ông đề nghị

mỗi huyện lên có một vị nông quan được lựa chọn trong kỳ thi tú tài và phải
nắm được nông chính toàn thư, ông viết “Nay tôi xin nói một khoản về thiết lập
Xu Hướng Canh Tân

Trang 4


quan nông chính. Tất cả các cử nhân tú tài tại gia hãy chọn lựa cho học Nông
chính toàn thư… mỗi huyện cử một người”. (di thảo số 53). Nhưng theo ông đó
chỉ là giải pháp tình thế, nông quan phải ra nước ngoài học.
Cũng trong Di thảo số 53, Nguyễn Trường Tộ nói: “Trước thì phải tuân
theo thời tiết, sau thì khuyến khích sức dân, sau nữa thì khai thác hết nguồn lợi
đất đai. …Những nơi đồi núi cheo leo, không trồng được lúa đậu, thì trồng cây,
trồng tre (...)”
Cũng trong di thảo số 53, ông còn chỉ ra 10 điều mang lại lợi ích cho phát
triển nông nghiệp: “Thứ nhất là vấn đề kinh giới nhờ đó được chính xác, chấm
dứt mối tranh giành, dân chúng được yên ổn lâu dài. Thứ hai là khai thác hết địa
lợi, thì dân được giàu có. Thứ ba là trong nước nơi nào trồng trọt được nơi nào
người ở được có thể thấy rõ ràng như trong bàn tay, như gia chủ quản lý công
việc nhà vậy. Thứ tư là các phép ngăn nước tháo nước, mở đường sá càng thêm
khang trang càng thêm kiên cố (đây là địa lý về binh pháp). Thứ năm là trồng cây
xanh rộng rãi khắp nơi từ đồng bằng đến gò nổng, lá khô rụng xuống đất hư mục
thấm khí thấm vào ruộng đất mỗi ngày một tốt, hơn nữa đồng trống thành rừng
nhờ đó gió mưa điều hòa, đem sức người phục hồi tạo hóa. Thứ sáu là thuế thu
ngày một tăng nhiều, không ai nợ không ai thiếu, chẳng nhọc quan phiền dân.
Thứ bảy là chỗ dồi dào chỗ yếu kém bồi bổ cho nhau, lập kho lúa của xã, kho lúa
tương trợ công ích, tuỳ lượng nhập tuỳ lượng xuất, phòng bị trường hợp mất mùa,
lúa thóc quân bình đủ ăn. Thứ tám là có tổ chức hội chợ đấu xảo nên dân chúng
đua nhau học các nghề thực dụng và các phương pháp trồng trọt khiến ngày một
khéo léo làm lợi về mặt kinh tế. Thứ chín là quan dân thường gặp gỡ nhau ngày

một thêm thân cận, quan bình dị gần gũi dân thì dân sẽ quy phục. Thứ mười là
hình thế đất đai đều hiểu rõ thì từ đó nắm vững được địa lý về binh pháp”.
Tất cả những đề xuất của ông về nông nghiệp đều nhằm mục đích là phải
phổ biến rộng rãi các kiến thức trong nhân dân. Thời Nguyễn Trường Tộ “nước ta
đối với vấn đề nông nghiệp từ lâu đã phế bỏ không giảng dạy. Nay bỗng nhiên
muốn thi hành, thì trên quan chẳng biết dạy cái gì, còn dưới dân thì nghĩ rằng
cứ mặt trời mọc thì đi làm, mưa xuống thì vác cày ra cày, đợi gì phải dạy! ”. (Di
thảo số 53).
Công nghiệp: Nguyễn Trường Tộ cho rằng nước ta hoàn toàn có khả năng
phát triển công nghiệp, ông chỉ ra bốn nguồn lợi lớn là hải lợi, lâm lợi, thổ lợi và
khoáng lợi. Đối với bốn nguồn lợi này có thể tổ chức khai thác và xuất khẩu đó là
lợi ích trước mắt, còn về lâu dài tổ chức chế biến các nguồn lợi thành sản phẩm.
Theo Nguyễn Trường Tộ, thì: “Đấy là một điều lợi lớn. Vì rằng những hàng hóa
mình có, trừ số cần dùng ra, còn thì đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước
Xu Hướng Canh Tân

Trang 5


khác, như thế thì họ không cần phải đến nước mình làm gì. Nếu như họ muốn đưa
hàng hóa sản vật của họ sang, thì đã có tàu của nước mình chở về để trao đổi với
người cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ hơn là mua ở bên nước họ hay sao? Như
thế thì tự nhiên họ không cần phải tìm đến nước mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu
thông thương với mình là vì người mình không thể đi xa mà thôi” (Di thảo số 5).
Trong bài Khai hoang từ (Di thảo số 8), Nguyễn Trường Tộ đề nghị mở
cửa cho các nước vào thông thương buôn bán và đầu tư khai thác tiềm năng của
đất nước. Bởi vì, theo ông, người Tây phương, nhất là người Pháp đã thấy được là
Việt Nam có nhiều tiềm năng: “Hiện nay các hội buôn của họ sang nước ta, có
hội thì muốn xin mở đường xe lửa suốt cả Nam Bắc; có hội muốn xin khai mỏ
dọc theo các núi; có hội muốn xin cho thuyền đi dọc theo biển để tiễu phỉ; có

hội muốn thông đường buôn bán”
. Do đó Nguyễn Trường Tộ đề nghị là Triều đình nên chủ động chuẩn bị
các điều kiện để khi họ xin thì mở cửa đón họ vào, để mình làm chủ, họ làm
khách, chứ nếu không họ sẽ lập mưu chiếm hết, rồi họ làm chủ, mình là đầy tớ. Về
khoản khai thác các tiềm năng của đất nước, chúng ta lại thiếu vốn, thiếu chuyên
viên kỹ thuật. . Ông nói: “Ngày nay cái mà ta thiếu nhất là tiền của. Vì không có
tiền của cho nên trăm việc gì cũng không làm được. Hơn nữa đồ khí dụng của
ta chưa đủ, tài trí chưa vươn tới, lại chưa có tiền của để mua máy móc kỹ thuật.
Nay nếu đem một nửa số nhân tài cả nước và một nửa của cải ra thực hành thì
cũng phải đợi vài chục năm sau mới có hiệu quả”. Ông lại nói cho Triều đình
thấy rằng: “Nếu để cho người nước ngoài vào đầu tư khai thác, thì không những
Nhà nước được thu lợi, mà nhân dân có việc làm, lại được học tập, làm quen với
khoa học kỹ thuật Tây phương; dân là dân của ta, đất là đất của ta, họ có đem đi
đâu được mà ta sợ?”.
Thế nhưng Triều đình Huế hầu như không làm gì cả, ngoài việc mua được
hai chiếc thuyền máy cũ kỹ chỉ dùng tạm được mấy năm. Trong một bài viết, hai
tháng trước khi lìa trần (Di thảo số 52), Nguyễn Trường Tộ đã phải than phiền
rằng: “Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành, trăm năm cũng chưa hết.
Thế mà bảy tám năm nay chưa thấy thực hành tý nào, chả lẽ đợi tới trăm năm
sau mới thực hành được sao?”.
Thương nghiệp: Ở thời kỳ vốn tồn tại chế độ trọng nông ức thương, ông đề
nghị chỉ chủ trương giao lưu hàng hóa bằng ngoại thương cũng như nội thương.
Về ngoại thương, Nguyễn Trường Tộ đề nghị Triều đình Huế mở rộng cửa
biển cho tàu bè các nước vào buôn bán. Đó là một xu thế chung, một mình Việt
Nam không thể cưỡng lại được. Trong Di thảo số 5, ông nói: “Bọn hủ nho sao
không biết thời thế biến chuyển; cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi
Xu Hướng Canh Tân

Trang 6



rằng: Triều đình mở cửa đón kẻ cướp vào? Sao không biết rằng lúc thời thế đã
đến, thì không thể ngăn được, lúc thời thế đã lui thì không thể chặn được? (...)
Cửa bể khắp các nước phương Đông… đã khai thông cả, thì tại sao một mình
nước ta lại có thể đóng kín được?”. Trong bài Khai hoang từ (Di thảo số 8 ), ông
nói: “Ngày nay, nếu ta nhân có họ xin mà mở các cảng khẩu để thuyền bè các
nước ra vào, ta ngồi mà thu thuế để tăng quốc dụng, như ở Trung Quốc. Có
thuyền máy qua lại trên mặt biển thì bọn cướp biển dần dần sẽ tiêu”.
Về nội thương thì mối băn khoăn lớn của Nguyễn Trường Tộ là đường giao
thông, vận chuyển hàng hóa. Bởi vì nước ta là một nước có chiều dài và lúc bấy
giờ vận chuyển từ Bắc - Trung - Nam chủ yếu bằng đường biển, do đó thì có hai
đe dọa lớn là gió bão và cướp biển. Đó là chưa nói đến, khi xảy ra biến cố, Việc
giao lưu hàng hóa từ Bắc vào Nam bị tắc nghẽn. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo
số 27, 15-11-1867) ông đã nói rằng: “Như về việc vận chuyển lương thực, Triều
đình đã hết sức lo liệu mà vẫn chưa ổn. Phần nhiều một thạch lương thực đến
được kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu. Đó là chưa nói đến
nhiều vụ chìm ghe, bị đánh cướp. Các sản vật khác cũng vậy. Còn ghe thuyền của
dân chìm mỗi năm không biết bao nhiêu mà kể. Dân nghèo thì nước cũng nghèo.
Cái hại lớn đó đều do đường biển gây ra”.
Cũng trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề nghị đào một con kênh
từ Hải Dương đến Huế để tránh tai nạn của đường biển. Nguyễn Trường Tộ lại gởi
lên Triều đình một văn bản nữa về việc “Tiễu trừ giặc biển” (Di thảo số 38 )..
Trong văn bản này, Nguyễn Trường Tộ vẫn cho rằng kế đào kênh là “Kế hay
nhất”. Tuy nhiên để tiễu trừ giặc biển, ông đề nghị bốn biện pháp:
1. Thương lượng với người Pháp ở Sài Gòn để họ cho tàu tuần tiễu giúp dẹp dọn
bọn cướp biển.
2. Đóng tiền cho hội bảo hiểm ở Sài Gòn để họ tiễu trừ giặc biển.
3. Mỗi tỉnh mua một hai thuyền máy để tự mình tiễu trừ giặc biển.
4. Bắt buộc các thuyền buôn của người Trung Quốc phải có giấy thông hành, để
tránh nạn thuyền buôn thuyền giặc lẫn lộn.

Về mặt nhà nước thì cấm tuyệt không cho kẻ đi ăn xin.
b. Về tài chính:
Nguyễn Trường Tộ nhận thấy nguồn thu chủ yếu của nước ta là thuế, thuế
đinh và thuế điền, còn gọi là thuế trực thu, đặc trưng của chế độ phong kiến. Quan
niệm của Nguyễn Trường Tộ là làm sao dân giác ngộ được quyền lợi và trách
nhiệm của việc đóng thuế, gọi là xã hội công dân. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo
số 27, ngày 15-11-1867), ông nói: “Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh
Xu Hướng Canh Tân

Trang 7


lương. Binh để giữ nước, lương để nuôi binh. Thế mà trong dân gian còn nhiều
người chưa hiểu lý lẽ ấy. Nếu có của cải mà không có quan binh bảo vệ thì
quân giặc, kẻ trộm hoành hành, thân còn không giữ được, giữ sao được của
cải. Dân đã không thể một mình bảo vệ được thân mạng, nhà cửa, của cải, thì
bỏ ra một ít lương thuế nhờ lực lượng quốc gia bảo vệ sự nghiệp to lớn lâu dài
của mình cho”. Theo ông để dân giác ngộ được thì cần có sự công bằng và hợp lí,
nó sẽ không có nếu mà tồn tại tình trạng thất thu và gian lận, quan lại tham nhũng,
gian dối sẽ không có công bằng. Vì thế mà Nguyễn Trường Tộ, đề nghị đo đạc
ruộng đất, cần nắm vững tình hình dân số, nếu làm được hai việc đó sẽ hạn chế
tình trạng gian lận, thất thu, từ đó dân sẽ giác ngộ.
Để canh tân đất nước nhà nước cần tài chính. Vậy cách giải quyết vấn đề đó như
thế nào, Nguyễn Trường Tộ đưa ra các biện pháp:
Một là, tận thu các nguồn thuế, trước hết là thuế đinh, thuế điền, phải đánh
thuế nặng các sòng bạc, các mặt hàng rượu, thuốc, hàng xa xỉ, phẩm ngoại nhập và
phải đánh thuế nhà giàu.
Hai là, giảm bớt quan lại bằng cách tháp các đơn vị hành chính và tiến
hành chống tham nhũng.
Ba là, nhanh chóng khai thác các nguồn lợi của quốc gia, nguồn lợi về biển,

nguồn lợi về rừng, nguồn lợi về đất đai, nguồn lợi trong lòng đất
Bốn là, vay vốn của dân, trước hết là vay tiền của nhà giàu và trả lãi suất
cho họ 1%, cứ 1 vạn quan thì trả 100 quan. Khi nào số tiền lời được gấp đôi số
tiền cho vay thì chấm dứt và không hoàn vốn lại.
Năm là, vay tiền của nước ngoài. Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình
vay tiền của nuớc ngoài để mua sắm khí giới, lập các nhà máy chế tạo súng và
hàng tiêu dùng “hãy sai người đến các thương gia Hương Cảng vay độ 8-9 triệu
quan, mỗi năm trả tiền lời cho họ, hoặc giao ước ta sẽ trả bằng hàng hoá cho họ rồi
tính khấu trừ, xuất các mặt hàng nông,lâm, khoáng sản rồi trừ nợ dần. Có như vậy
ta mới có vốn lớn để giải quyết mọi việc, vốn lớn chắc chắn sẽ có lợi lớn” .
Sáu là, kêu gọi nước ngoài đầu tư. Khi phân tích vấn đề này, Nguyễn
Trường Tộ nêu lên nhiều điều lợi như sau: thu thuế chia lợi nhuận, giải quyết công
việc làm, học tập kỹ thuật, quản lý, mua bán hàng hóa, dịch vụ, tận dụng các công
trình giao thông, y tế. Ông viết: “Nếu để cho nước ngoài vào đầu tư khai thác thì
không những nhà nước thu lợi mà nhân dân cũng có việc làm,lại được học tập,làm
quen khoa học, kỹ thuật phương Tây, dân là dân của ta, đất là đất của ta, họ có
đem đi đâu mà lo sợ”.
Xu Hướng Canh Tân

Trang 8


c. Về chính trị
Nguyễn Trường Tộ không phải là một nhà chính trị, không giữ chức vụ nào
trong hệ thống chính trị, do vậy ông không thể triển khai trực tiếp các dự án canh
tân của mình. Muốn thực hiện những cải cách đó thông qua những người có chức
có quyền. Chính vì thế mà ông đã gởi những đề nghị cải cách của ông lên Triều
đình Huế và chỉ gởi cho những người có chức có quyền trong Triều đình Huế. ông
nói “Người xưa có nói dân là gốc của nước. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi
cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu

dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, oán
thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo ngược còn hơn không vua”.
Do đó mà Nguyễn Trường Tộ mong có một sự ổn định về chính trị. Có lẽ
Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề lựa chọn chế độ chính trị, quân chủ hay dân
chủ, dân chủ tư sản hay dân chủ nhân dân, như chúng ta quen nói ngày nay. Ông
chỉ thấy là cần có một người nắm giềng mối quốc gia. Và người đứng đầu quốc
gia đó phải phục vụ lợi ích của toàn dân: “Vua có bổn phận của vua, quan có bổn
phận của quan, dân có bổn phận của dân. (...), như Giả Nghị nói: Gieo vào lòng
người sự tôn kính, thì thiên hạ không có loạn. Vì rằng danh đã định, vị đã lập, lý
đã chính, thế đã đồng, các nước đều như vậy cả, lẽ nào một nước ta lại có thể trái
với các nước, đứng riêng một mình được sao?”. Ông nói “ để có một tình hình
chính trị xã hội ổn định để triển khai dự án canh tân, thứ nhất là quốc dân nhất thể,
thứ hai là thượng hạ tình thông, thứ ba là tâm trí tương phù, nếu có cả 3 yếu tố này
sẽ có tình trạng tối ưu để triển khai dự án canh tân”.
Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27), ông có đề nghị sát nhập một số tỉnh
huyện để tinh giản biên chế và tăng lương cho các quan lại. Ông nói: “Hãy xem
tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn bằng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung
Quốc có thể tương đương một tỉnh nước ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia
tỉnh huyện còn lớn hơn của Trung Quốc nữa (...) vậy xin gấp rút xét xem địa thế,
hợp hai ba tỉnh làm một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư
ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đã được cấp lương tiền đầy đủ để giúp
họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm mới có thể trách”.
Để quản lý quốc gia, Nguyễn Trường Tộ, trong Tế cấp bát điều, điều thứ 5
và 7, đề nghị vẽ bản đồ cương giới cũng như điều tra dân số và làm thống kê về tất
cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước.
d. Cải cách hệ thống quan chế :

Xu Hướng Canh Tân


Trang 9


Nguyễn Trường Tộ cho rằng, những tệ nạn trong chốn quan trường đã trở
thành “tập quán kiên cố,sâu đầy, khó một sớm một chiều mà thay đổi được”.
Nguyễn Trường Tộ cũng đưa ra những biện pháp thay đổi thực trạng đó:
Một là, phải đổi mới học thuật, đào tạo quan lại theo lối mới. Vì “ học xưa
thì lòng hướng về xưa”, “học nay thì lòng hướng về nay” và “có học thì mới hiểu
rõ đạo lý, mới cứu được đất nước ra khỏi sự suy yếu”.
Hai là, phải trị nước bằng luật pháp bất luận quan hay dân đều phải học
luật nước .Vì có luật mới dành đựoc kỷ cương, uy quyền và chính lệnh của quốc
gia, hạn chế được sự lạm dụng quyền hành. Cai trị bằng luật pháp, thì sẽ đảm bảo
được công bằng.
Ba là, phải hạn chế quyền hành của nhà vua. Ông cũng đề nghị là Tòa án
phải được độc lập: Nhà vua chỉ có quyền ân xá, chứ không có quyền kết án.
Bốn là, phải thận trọng trong việc tuyển chọn quan lại, phải chọn quan giỏi,
thanh liêm, siêng năng, sáng suốt, thải quan dở dù là con cháu công thần, con nhà
tập ấm, vì “bất tài thì chính bản thân cũng không sắp xếp được nói được nói gì đến
quản lý người khác”.
Theo Nguyễn Trường Tộ, muốn giữ thanh liêm cho quan lại thì một trong
những biện pháp là phải tăng lương và để tăng lương thì phải biên chế bộ máy
cho gọn nhẹ, lấy quỹ lương dư ra cấp cho các quan lại tại chức
Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập thêm bộ Nông nghiệp, bộ Ngoại giao
(trước chỉ có 6 bộ: Bộ Binh, Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Hộ).
e. Đổi mới về quân sự:
Quốc phòng: Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không
có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc, mà bắt nguồn từ sự phân tích
sâu sắc tương quan lực lượng giữa ta và địch. Và để rút ngăn khoảng cách giữa hai
bên thì cần phải đổi mới về quốc phòng. Trong bài Tế cấp bát điều (1867), có tám
điều, thì điều thứ nhất là “xin gấp rút sửa đổi việc võ bị”. Ông viết, “Nay nước ta

nếu không gấp rút sửa đổi theo mới, khiến việc giáo dục võ bị ngày một suy, lòng
người ngày một yếu, thì lấy gì chống giặc bảo vệ nhân dân?”,
Để cải cách quân sự, Nguyễn Trường Tộ nêu rõ:
Một là, phải coi trọng lý thuyết quân sự. Theo Nguyễn Trường Tộ, phải
nghiên cứu binh thư cổ; phải nghiên cứu, tiếp thu được lý thuyết quân sự hiện đại,
trên cơ sở đó, “soạn thành sách binh thư mới và ban bố cho quan quân cùng học
tập”.
Xu Hướng Canh Tân

Trang 10


Hai là, phải coi trọng người lính. Theo Nguyễn Trường Tộ lý thuyết quân
sự là “những điều huấn luyện quân sự lúc bình thường còn khi ra trận, binh sĩ có
vui vẻ, hăng hái hay không là do lúc bình thường ta có tạo được tình cảm gắn bó,
ân nghĩa với không. Từ thực tế đó, ông đề nghị triều đình: tăng cường tráng binh,
giảm đi một nửa lính, lấy số lương cấp gấp đôi cho tráng binh còn lại... phải ưu đãi
vật chất cho họ nếu vì nứơc hy sinh, vợ sẽ được lãnh lương suốt đời.
Ba là, phải chú ý đào tạo cán bộ chỉ huy. Nguyễn Trường Tộ cho rằng,
người lính là nền tảng của quân đội, sĩ quan, tướng tá là rường cột của lực lượng
vũ trang. Từ những vị trí đó mà mỗi bộ phận có một yêu cầu riêng: “lính thì quý
mạnh, nhưng tướng thì quý mưu. Tướng như tai mắt, lính như chân tay. Mắt mù,
tai điếc mà điều khiển được chân tay là chuyện chưa hề có”.
Nguyễn Trường Tộ còn đề nghị: “rước những người phương Tây giỏi về
quân sự để huấn luyện cho sĩ quan và quân sĩ của ta. Võ quan phải biết cả lý
thuyết và thực hành “công – thủ”, vẽ bản đồ thế trận; lý thuyết về lập thành
luỹ,đồn lương ở các địa hình khác nhau,phải vận dụng sáng tạo binh pháp, biết sử
dụng cơ xảo, máy móc...ông đề nghị thường kì phải khảo hạch kiến thức của võ
quan.”
Bốn là, “phải chỉnh đốn uy thế quốc gia” về quân sự Nguyễn Trường Tộ

đã đề nghị triều đình Huế phải đặt đất nước vào một trận thế chống giặc, phải xây
dựng hệ thống đồn bốt, “chọn nơi hiểm yếu đắp thêm một thành lớn, dự bị cho đại
thành, phòng khi rút lui”, phải dự trữ vật liệu và vũ khí, phải dự bị phương án tác
chiến trong thành phố.
Năm là, phải ngầm xây dựng lực lượng trong vùng địch chiếm đóng, để
đánh úp thực dân Pháp, giành lại những vùng đất bị Pháp chiếm đóng, Nguyễn
Trường Tộ đề nghị triều đình: “1. Lập mưu, bí mật xây dựng lực lượng của ta
ngay trên địa bàn Pháp chiếm đóng; 2. Phải cài người vào trong hàng ngũ của địa
phương; 3. Cho người sang Pari nắm bắt tình hình nước Pháp xem khi nào thì có
thể đánh úp được Pháp”. Theo ông, cơ hội để đánh úp Pháp là khi diễn ra chiến
tranh Pháp – Phổ”.
f. Về giáo dục:
Về giáo dục: để hình thành và phát triển một nền giáo dục phục vụ cho sự
nghiệp canh tân đổi mới đất nước, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra các biện pháp
như: phải áp dụng một nền giáo dục, dạy và học mang tính thực dụng, nhà nước
phải lựa chọn người gửi đi đào tạo nước ngoài,chú ý học tiếng nước ngoài và mời
các chuyên gia phương Tây vào giảng dạy ở nước ta.
Xu Hướng Canh Tân

Trang 11


Ở Di thảo số 18 “về việc học thực dụng”, Nguyễn Trường Tộ quan niệm:
“Học tập bồi dưỡng nhân tài tức là con đường đưa đến giàu mạnh”. Tuy nhiên,
Nguyễn Trường Tộ chỉ đề cao lối học thực dụng, lối học lấy thiên nhiên làm đối
tượng, chứ không trực tiếp đả phá lối học cũ, ông chưa đặt vấn đề loại bỏ Nho học.
Ông nói: “Học những gì thực tế thì sẽ có thực dụng, học những cái vụn vặt thì
chỉ được cái vụn vặt, trồng đậu, được đậu, đó là lẽ tự nhiên”.
Ông xin cải cách việc học: “Không có một nền học thuật sáng suốt thì
phong tục ngày một bại hoại, lòng người ngày một giả dối, phù phiếm trống

rỗng…Vậy học là gì? Là học những gì chưa biết mà đem ra thực hành. Đó là thực
hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa”. Theo ông,
phải dạy các khoa thực dụng như khoa canh nông, cơ khí, thiên văn, địa lý, luật
học…Đặc biệt, ông chủ trương các khoa học này đều phải dùng quốc âm và phân
tích rất thấu đáo, thuyết phục: “Ngoài ra, ông còn đề nghị khuyến khích du học ở
các nước châu Âu; dịch các sách khoa học của nước ngoài ra tiếng nước Nam để
mở mang dân trí; in và phát hành các sách hữu ích, nhật trình để người dân biết
luật lệ và công việc của triều đình”.
Nguyễn Trường Tộ quan niệm học tập là cơ sở của nhân cách và đạo đức,
ông đề nghị lập bốn khoa: Khoa nông chính, Khoa thiên văn và khoa địa lý, Khoa
công kỹ nghệ và Khoa luật học.(Di thảo số 27).
Ông đề nghị đem vào chương trình học và thi cử các môn nông nghiệp, thiên văn,
địa lý, bách khoa, luật học. Trước hết phải sưu tầm trong các sách cũ những gì
trong các cuốn đó còn thích hợp, đem đối chiếu với các sách phương Tây mà ông
đã mua ở từ bên Pháp về, để soạn ra những bộ sách cho học sinh dùng.
Ông cũng đề nghị gởi học sinh sang các nước học ngoại ngữ, học các khoa
học hiện đại (di thảo số 7, số 45).
Tuy nhiên, phải sang đầu thế kỷ XX, vấn đề văn hóa- giáo dục mới là vấn
đề trọng tâm. Ở đây vấn đề Nguyễn Trường Tộ quan tâm là cứu nước cho nên
trọng tâm là ngoại giao và quốc phòng.
g. Đời sống văn hóa:
Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập nhà in, xuất bản sách báo, để nâng cao trình
độ văn hóa của nhân dân, nhưng đồng thời cũng phải kiểm soát, hạn chế các loại
sách nọc độc.
Như về “nhiêu sinh” là những người hễ đi học là miễn thuế đinh, miễn
xâu, miễn lính. Ông nói: “Chính tôi trông thấy có nhiều người khuyên nhau rằng:
Hãy ráng học chữ nghĩa, dù không đỗ đạt làm quan cũng được miễn lính tráng,
miễn xâu thuế, thong thả suốt đời như đàn bà (…) Theo thống kê tỉnh Nghệ An, số
Xu Hướng Canh Tân


Trang 12


khóa sinh đến vài ba nghìn người mà số nhiêu sinh trong dân chúng còn gấp bội
hơn nữa. Trong số đó những người sau này ra làm việc nước nhiều lắm vài ba trăm
người là cùng, còn lại là khóa sinh, nhiêu sinh cho đến già. Một tỉnh mà đã có lắm
người nhàn như thế, hợp cả nước con số sẽ đến một tỉnh nhỏ”.( Di thảo số 27).
Trong văn bản Về cải cách phong tục ( Di thảo số 47, ngày 29-4-1871)
Nguyễn Trường Tộ đã lưu ý triều đình về những việc rất nhỏ nhưng là những việc
quan trọng đối với một dân tộc muốn có nếp sống văn hóa mới: Như vệ sinh
chung quanh nhà quan cũng như nhà dân ở nơi đô thị, vệ sinh dọc đường xá,
không đổ rác, không phóng uế bừa bãi. Ông cũng chống lại luật lệ không cho dân
đi xe, đi giày”.
h. Về ngoại giao:
Phải thực hiện chính sách ngoại giao đa phương. Nguyễn Trường Tộ cho
rằng, không giao thông với thiên hạ thì chẳng những nước mình bị cô lập mà
“không hiểu thấu tình thiên hạ, không hiểu rõ thời cơ của ta, của địch hư
thực như thế nào, thành luỹ thật kiên cố không thể phá được”. Không mở
rộng ngoại giao, “không hiểu được thời thế thì tri thức câu chấp, tâm trí hẹp
hòi”, “không mở rộng được kiến văn”.
Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình hòa với Pháp, bởi vì theo ông, ta
chưa đủ điều kiện để đuổi Pháp ngay được. Hòa với họ để khống chế họ, buộc họ
phải gom quân lại một số điểm và theo dõi nắm bắt tình hình để đánh úp Pháp lấy
lại sáu tỉnh Nam Kỳ.
Nguyễn Trường Tộ còn mách bảo triều đình tìm một nước thứ ba làm trung
gian cho cuộc gặp gỡ Việt – Pháp.
Theo, Nguyễn Trường Tộ, sự giao thiệp với các nước cường quốc là một sự
cần thiết đệ nhất. Có giao thương với bên ngoài “mới biết rõ lý thế của ta,của họ
để tùy cơ ứng biến, chọn đường lối cứng rắn hay mềm dẻo”. Một nước nhỏ nằm
giữa sự cạnh tranh của các nước lớn phải khéo léo kiềm chế Pháp và kiềm chế lẫn

nhau.
Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình “phải liên hệ với Y-Pha-Nho để tìm
hiểu kết cục hiện thời của nước Ý, nước Phổ, nước Pháp thế nào?” , “hướng đi tới
của nước Anh, Nga như thế nào?”. Phải tích cực liên hệ với bên ngoài để Pháp biết
rằng ta “không bị cô lập”, phải khéo léo quan hệ với Y-Pha-Nho, Phổ-Những nước
mâu thuẩn với Pháp để họ “vui vẻ giúp đỡ ta”, phải lợi dụng cho được mâu thuẫn
giữa các nước, trước hết là mâu thuẫn giữa Y-Pha-Nho với Pháp , Phổ với Pháp và
Anh với Pháp.
Xu Hướng Canh Tân

Trang 13


Để tiếp xúc được với các nước một cách thường xuyên, Nguyễn Trường Tộ
đề nghị với triều đình chủ trương và cách lập sứ quán. Ông cũng nêu lên yêu cầu,
mục tiêu của công tác ngoại giao, “phải lập mưu khéo léo để ngăn chặn họ”, “tự
mình phải hiểu thế mạnh của ta, của người, nắm cho phù hợp tất cả ngay tại bàn
thương nghị”.
Nguyễn Trường Tộ cũng rất đúng, rất sáng suốt khi nêu lên những nguyên
tắc trong quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới là cả hai cùng có lợi”, lúc
cứng rắn, khi mềm dẻo nhưng phải đạt cho được mục đích cuối cùng là “giữ cái
chưa mất” và để “lấy được cái đã mất một cách nhẹ nhàng, có lợi nhất”.
4. Nguyên nhân thất bại:
1. Về phía triều đình Tự Đức:
Những điều trần canh tân đất nước gửi lên triều đình được các Bộ gửi lên cho
vua Tự Đức đọc và nhận xét, có những lúc vua Tự Đức phải thừa nhận “thực sự đã
khám phá sự tình” của đất nước. Hay như châu phê trong di thảo số 8, Tự Đức có
nói “Nguyễn Trường Tộ có thể dùng được hay là cho một chức quan nhỏ để dùng
về sau”. Rõ ràng Tự Đức không phải là không nhận thấy thực trạng đất nước, bởi
có lúc ông đã nói: “Nếu cần phải canh tân thì ta cứ làm từ từ. Tại sao cứ thúc giục

nhiều đến thế khi mà những phương pháp cũ của ta cũng rất đầy đủ để điều khiển
quốc gia rồi”. Ông đã nhận thấy được sự cần thiết của canh tân, đổi mới đất nước
nhưng lại thiếu quyết tâm, thiếu tính quyết đoán của người chỉ huy tối cao ví dụ
như khi bị tình thế bức bách phải thực hiện một vài điều đổi mới nào đó thì làm
một cách nửa vời, mang tính chắp vá, lẻ tẻ, miễn cưỡng. Các điều sửa chữa đó
chưa kịp phát huy thì đã bị đình chỉ. Rốt cuộc các điều trần canh tân đất nước chỉ
được các bộ “sưu tầm, cho vào ngăn tủ rồi bị lãng quên”.
Rõ ràng, các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã không được triển
khai trên thực tiễn, hiện thực hóa theo đúng nghĩa của nó, do đó nó chỉ dừng
lại ở khuynh hướng tư tưởng canh tân, không thể trở thành một phong trào
canh tân, mà vào đầu thế kỷ XX dưới vai trò của các sĩ phu yêu nước như Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh,…nó mới thực sự trở thành phong trào.
Nhược điểm lớn của Nguyễn Trường Tộ là gửi gắm hi vọng của minh vào
chính quyền Tự Đức. Muốn cải cách đầu tiên phải có một bộ máy chính quyền đủ
sức đảm đương, đủ xung lực tiến hành một cuộc chuyển mình. Sai lầm về nhận
thức cơ bản đó là làm cho điều trần canh tân của Nguyễn Trường Tộ thành những
trang giấy lộn. Khách quan mà nói thì trách nhiệm của người đứng đầu là không
thể bác bỏ.
Tự Đức phải chịu tránh nhiệm trước lịch sử về việc bỏ qua một khả năng tự vệ
cho dân tộc, khi về căn bản đã không chấp nhận đề nghi vải cách. Tuy vậy, trong
Xu Hướng Canh Tân

Trang 14


những giới hạn không thể tránh khỏi, khi phải đương đầu với những vấn đề nan
giải về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, Tự Đức đã cố gắng vượt lên trên bản
thân, chấp nhận với tinh thần tránh nhiệm một số đề nghị cải cách, tuy lẻ tẻ, thiếu
hệ thống và không nhất quán. Với những hạn chế cá nhân và sự nghiệt ngã của
thời đại, Tự Đức là đại diện cho bi kịch của một nhà cầm quyền thiếu khả năng

lãnh đạo đất nước thoát khỏi những thử thách của lịch sử.
2. Tiếp theo cần phải thấy rằng, vào những năm cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam chưa
có đầy đủ cấu trúc chính trị xã hội cơ sở kinh tế và một lực lượng đủ sức để canh
tân đất nước. Thời điểm mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị cải cách, Việt Nam chưa
có một cấu trúc chính trị xã hội tiên tiến như Nhật Bản, kể cả Xiêm. Trong lúc Âu
– Mỹ, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, nền kinh tế thay da đổi thịt với
những thành tựu kinh ngạc, thể chế chính trị chuyển sang một cấu trúc mới – chủ
nghĩa tư bản…thì ở Việt Nam triều thần quanh vua Tự Đức chỉ lo tầm chương
trích cú, rửa bút mài nghiên theo lối cổ hủ, bàn đến quốcc sự thì lấy Nghêu,
Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa của Trung Quốc làm gương, tự vỗ ngực là văn
minh, chê bai thiên hạ… Khi đất nước bị đe dọa thì phía ngoài, vua hỏi kế sách gì
thì tất cả im lặng. Khi nước ngoài cải cách tác động vào, nhiều nhà canh tân Việt
Nam đưa ra những điều trần thì triều thần cho là nói càn, bàn nhảm…Một bộ máy
nhà nước dựa vào đám quần thần ảo thủ, lạc hậu, một ông vua thiếu quyết đoán
không dám vượt lên những lời bàn của đám hủ nho thì những lời đề nghị cải cách
của Nguyễn Trường Tộ trở nên lạc lỏng và bị rơi vào im lặng là điều tất yếu.
Nhìn sang Nhật Bản, để tiến hành canh tân, Nhật Bản đã trải qua một cuộc
biến động mạnh mẽ về cấu trúc xã hội và chính trị. Cuộc đấu tranh kéo dài giữa
lực lượng bảo thủ Tokugawa và lực lượng Daimyo tư bản hóa ủng hộ Thiên hoàng
muốn phát triển đất nước như phương Tây đã kết thúc bằng cuộc đảo Mạc vào
tháng 1 – 1868. Sự kiện năm 1868 đã đưa đến một cấu trúc chính quyền mới ở
Nhật Bản: lực lượng cải cách nắm chính quyền, đứng đầu là Hoàng đế trẻ tuổi
Mutxôhitô với lực lượng Daimyo và hàng triệu Saimurai ủng hộ. Nước Nhật bước
vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Cuộc Duy tân ở Nhật Bản có người dẫn đường
chỉ lối và bảo đảm cuộc canh tân sẽ diễn ra suôn sẻ.
3. Những điều trần của Nguyễn Trường Tộ lại được đưa ra vào thời điểm tình hình
kinh tế chính trị hết sức rối ren. Những năm 1861 – 1871, triều đình Nguyễn đang
phải lo đối phó gay gắt với thực dân Pháp. Liên tiếp nhận những bản tấu về việc
mất đất, chuộc đất, vua quan Tự Đức không có thì giờ nghiên cứu những văn bản
của Nguyễn Trường Tộ nhất là những đề nghị về phép trị nước đòi hỏi phải có

Xu Hướng Canh Tân

Trang 15


thời gian. Đối với Tự Đức và triều thần lúc bấy giờ, khi tiếng súng đại bác của
Pháp đã nổ bên tai, đất đai dần dần lọt vào tay giặc, dẫu có muốc thực hiện các cải
cách cũng đã muộn.
4. Sai lầm chính trong những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ:
Sai lầm về kẻ thù, ông coi thực dân Pháp chỉ từ yêu cầu thương mại mà đi
chiếm đất chứ không có âm mưu xâm lược Việt Nam, cũng như coi sự truyền giáo
của đạo Thiên Chúa chỉ là vì đạo chứ khôngh có mưu đồ xâm chiếm đất đai, nô
dịch các dân tộc thuộc địa … Sai lầm trong tư tưởng “tôn quân”, Nguyễn Trường
Tộ vì có ý muốn giữ sao cho tình hình nội bộ triều đình được ổn định mới có được
sức mạnh thống nhất để chống lai ngoại xâm. Trước tình hình “khủng hoảng cung
đình” vẫn còn có thể tiếp diễn sau cuộc nổi dậy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực, ông
đã đưa ra thuyết: “ngôi vua là quý, chức quan là trọng” với những luận điểm rất
sai lầm.
Nguyễn Trường Tộ không tin ở khởi nghĩa đấu tranh vũ trang của dân tộc.
Ông đánh giá quá cao sức mạnh của địch, đánh giá quá thấp sức đề kháng của ta,
biện luận một cách chủ quan cho đường lối chủ hòa …Nhận thức về sức mạnh của
địch, ông thiên về tài năng khoa học kỹ thuật của chúng mà không thấy được cái
nguyên nhân căn bản là tính chất phi nghĩa của cuộc đấu tranh xâm lược và những
mâu thuẫn nội trị của địch (sau này cách mạng tháng Tám đã biết khai thác một
cách có hiệu quả)
Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ nói chung nặng về ảnh
hưởng bên ngoài mà thiếu cơ sở vật chất để tiếp nhận từ bên trong. Mặt khác, nội
dung các bản điều trần không đả động gì đến yêu cầu cơ bản của lịch sử Việt Nam
lúc đó là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của lịch sử Việt Nam lúc đó là giải
quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam

với tư bản Pháp xâm lược và giữa nhân dân lao động – chủ yếu là người dân với
giai cấp phong kiến hủ bại đang trượt dài trên con đường khuất phục đầu hàng
thực dân Pháp.
Mặt khác, những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không được thực hiện vì
đã vấp phải thái độ nghi kỵ của triều đình: “Những lời tên Tộ nói đó, thật đã khám
phá sự tình, nhưng y vốn không phải tộc loại với ta. Lâu nay y với ta tình ý chưa
được tin nhau, vội vàng thi hành e chưa tiện. Nhà vua và triều đình còn e ngại,
hiềm nghi đối với Nguyễn Trường Tộ vì ông là người theo đạo, từng làm việc cho
Tây. Dĩ nhiên, trong thời điểm mà Thiên chúa giáo bị coi là “tà đạo”, nhiều giáo sĩ
bị xem là gián điệp cho Tây, những điều này không khỏi nghi ngờ cho triều đình.

Xu Hướng Canh Tân

Trang 16


Đấy chính là những nguyên nhân căn bản khiến cho những tư tưởng canh
tân của Nguyễn Trường Tộ không thể thực hiện được.
Dù thất bại, nhưng những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ đã cho
thấy được sự phản ứng tương đối nhanh nhạy của người ông trước những biến
động của thời cuộc, chứng tỏ năng lực tư duy của ông trước những vấn đề mới mẽ
của thời thế. Chính điều này đã cổ vũ tinh thần cho các sĩ phu yêu nước đương
thời nhanh chóng thức tỉnh, tiếp nhận và sáng tạo những giá trị văn hóa mới đáp
ứng nhu cầu phát triển của dân tộc. Thất bại của ông là bài học kinh nghiệm lịch
sử quý báu cho hậu thế về thời cơ cải cách, về năng lực của nhà cầm quyền, về sự
chuẩn bị lực lượng vật chất để đổi mới.
Tất cả những bản điều trần của ông là một tác phẩm văn hóa thật sự, thể
hiện tấm lòng yêu nước thiết tha và cái nhìn sâu rộng của một con người ưu thời
mẫn thế, và đầy dũng khí. Có thể nói rằng, cùng với các bản điều trần và các tác
phẩm khác của những người có đầu óc canh tân như Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú

Thứ, Lê Đình…, các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã mở ra một khuynh
hướng mới trong văn hóa và tư tưởng Việt Nam: Khuynh hướng Duy Tân và đến
đầu thế kỷ XX thì nó đã thực sự trở thành một phong trào.

Xu Hướng Canh Tân

Trang 17



×