Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài tập học lỳ luật hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.81 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Một cách chung nhất, ta có thể hiểu “nguyên tắc” là những điều cơ bản
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm. (1) Trong khoa học pháp lí,
các nguyên tắc trong quản lí nhà nước được xác định là những tư tưởng chủ đạo
bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lí, từ bản chất chế độ, được quy
định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lí hành chính
nhà nước.
Ở góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà
nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư
tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà
nước.
Có nhiều nguyên tắc được đặt ra trong quản lí hành chính nhà nước. Mỗi
nguyên tắc có một nội dung rất đa dạng, phản ánh những quy luật khách quan
khác nhau nhưng lại có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy nên
việc phân loại chúng một cách khoa học nhằm xác định cụ thể vị trí, vai trò của
chúng trong quản lí hành chính nhà nước, trên cơ sở đó xây dựng và áp dụng
chúng một cách có hiệu quả trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước là điều
vô cùng cần thiết. Việc phân chia cần dựa trên những cơ sở khoa học về quản lí
nhà nước. Về bản chất, quản lí nhà nước biểu hiện cụ thể ở hoạt động tổ chức,
bao gồm tổ chức chính trị và tổ chức kĩ thuật. Trên cơ sở này, các nguyên tắc
trong quản lí nhà nước thường được chia thành hai nhóm: Các nguyên tắc chính
trị – xã hội và các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật.
Nhóm các nguyên tắc chính trị – xã hội:
-

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lí hành chính nhà nước;

-

Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành


chính nhà nước;
1

Nguyên tắc tập trung dân chủ;
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học-xã hội – Trung tâm từ điển học, H.1994,

trang 672.

1


-

Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;

-

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhóm các nguyên tắc tổ chức kĩ thuật:
-

Nguyên tắc quản lí theo ngành, chức năng kết hợp với quản lí theo

địa phương;
-

Nguyên tắc quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo chức năng

và phối hợp quản lí liên ngành.

Trong khuôn khổ bài viết, em chỉ xin đề cập đến nguyên tắc tập trung
dân chủ và ý nghĩa của nó trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện
nay. Đây cũng là nguyên tắc tổ chức và hoạt đống “xương sống” của bộ máy
nhà nước ta.

2


NỘI DUNG
I. Nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Cơ sở pháp li
Tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo
nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định tại Ðiều 6 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Quốc hội, hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ”.
2. Nội dung nguyên tắc
Nguyên tắc tập trung - dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập
trung và dân chủ. Nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân
chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
Trong quản lí hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm
quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện
chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Tuy nhiên, đây không phải là sự tập
trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu
nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa
phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương. Đồng thời,
căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, họ cũng có thể chủ động sáng tạo trong
việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở.
Còn dân chủ lại hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí

nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm
tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
Tập trung và dân chủ có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau
cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước. Vì thế, phải có sự phối hợp
chặt chẽ, đồng bộ hai yếu tố này trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có
sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các

3


hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển.
Ngược lại, nếu không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng
tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
Trong điều kiện hiện nay, sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu
cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tê
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.(2)
Nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể ở những nội dung
sau đây:
a, Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
Ðiều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định : “Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.”
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân (Điều 2), nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan
quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện
những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương đã được
thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng

cấp.
Trước hết, các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất
định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước
cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho Chính phủ
quyền hành pháp. Ở địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lí nhà nước ở địa phương. Các cơ
quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (bộ, cơ quan ngang bộ,

2

Điều 15 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

4


…) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc
thành lập, thay đổi hay bãi bỏ.
Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo,
giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo
hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ
thuộc nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao
động. Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân.
Bên cạnh đó, yếu tố dân chủ được thể hiện rõ nét trong việc cơ quan
quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính
nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của
cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp
vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi

cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là
quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
b, Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với
trung ương.
Nhờ có sự phục tùng này, cấp trên và trung ương mới tập trung quyền
lực nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương.
Nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô
chính phủ.
Sự phục tùng ở đây là biểu hiện của cả hai phương diện tổ chức và hoạt
động. Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới
và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Mặt khác, trung ương cũng phải tôn
trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các
vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước; phải tạo điều kiện để cấp dưới,
địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được

5


giao, chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới khắc
phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động, sáng tạo của
địa phương, cấp dưới.
c, Việc phân cấp quản lý.
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp
dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí
hành chính nhà nước. Khi tiến hành hoạt động phân cấp quản lí, đã có sự phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy quản lý hành
chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và
những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu,
nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản lí
được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động

sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy
nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực
then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối
hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà
nước trong phạm vi toàn quốc.
- Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát
huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của,
đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên
giao phó. Đây là biện pháp bảo đảm tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên
phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương
và cơ sở.
- Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy
thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan.
Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ

6


quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một
cách có hiệu quả như cấp dưới.
Phân cấp quản lí giữa các cấp trong bộ máy quản lí hành chính nhà nước
là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ
khác nhau như: cơ sở kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin, liên lạc, các
yếu tố về dân tộc, trình độ dân trí, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lí ở địa
phương và cơ sở…
Do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí cần phải có sự
cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng, hợp lí, tránh đưa ra những quyết định mang tính

chung chung, tùy tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lí bao giờ
cũng phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền.
d, Hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân
chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn
vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị này là nơi tạo ra của cải vật
chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách
quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất, tạo điều kiện để
đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này
mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, các đơn vị trên, trước hết là những tế bào của nền kinh tế quốc
dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời
cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Các đơn vị văn
hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà nước quan tâm, cung
cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về mặt vật chất và tinh
thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu
quả. Song song với những hoạt động trên, Nhà nước cũng có các chính sách và
biện pháp quản lí một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ
thống các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị

7


kinh tế, văn hóa – xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định
hướng của Nhà nước.
e, Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai

mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và
được pháp luật quy định một cách cụ thể.
Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp phụ thuộc vào hội đồng nhân
dân cùng cấp (phụ thuộc ngang) và vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chung ở cấp trên (phụ thuộc dọc).
Ví dụ: UBND tỉnh Thái Bình một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND tỉnh
Thái Bình theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều
dọc.
II. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành
chinh nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý hành chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của
nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa
phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình
một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham
gia vào công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp
dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân
chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc
nhất định, ở thời gian xác định.
Đồng thời nó cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý
hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành
khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có

8


quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù
hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.

9



KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của
nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải là một hoạt động thường xuyên
trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và của các
cơ quan nhà nước nói riêng.

10



×