Lời nói đầu
Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vượt trội trong
các lĩnh vực điện tử - tin học - y học … mở ra một trang sử mới trong công cuộc làm
chủ thế giới của loài người.Toàn nhân loại đang đứng trước những vận hội mới và nguy
cơ mới. Trong sự luân chuyển mang tính tuần hoàn ấy của thế giới. Việt Nam chúng ta
không thể nào đứng ngoài cuộc.
Hơn một thập kỷ đã trôi qua kể từ khi nước ta bước sang nền kinh tế thị trường và
bây giờ là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ( KTTT ĐHXHCN). Một thập kỷ
gắn liền với rất nhiều khó khăn và thử thách. Đến nay đất nước ta đang trong thời kỳ đổi
mới mà sự nghiệp CNH -HĐH là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên để hoàn
thành mục tiêu này chúng ta cần có 1 nguồn vốn đầu tư phát triển vô cùng lớn và việc
huy động và sử dụng tốt nguồn vốn là 1 vấn đề hết sức khó khăn bức súc.
Thực tế trong những năm qua nước ta đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận
trong việc quản lý và sử dụng vốn, song bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập cần giải
quyết : Tình trạng ứ đọng vốn trong các ngân hàng, thiếu vốn nghiêm trọng trong các
doanh nghiệp, việc sử dụng vốn bừa bãi, lãng phí là còn phổ biến .
Chính vì vậy việc nghiên cứu lý thuyết Tuần hoàn và chu chuyển Tư bản từ đó tìm
ra phương thức và cách thức quản lý đúng đắn nguồn vốn của các doanh nghiệp trong
nền KTTTĐHXHCN ở nước ta là hết sức cần thiết.
Yêu cầu đặt ra là phải nhìn nhận một cách đúng đắn về vai trò của vốn trong nền
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam đối với việc quản lý các doanh nghiệp, thông qua lý thuyết
về tuần hoàn và chu chuyển tư bản của KTCT học Mác Lênin. Từ đó tìm ra hướng đi
đúng đắn, cụ thể cho nền KTTT vốn còn non trẻ như ở nước ta.
Phân tích những vấn đề về huy động và sử dụng vốn có hiệu quả nước ta trong quá
trình xây dựng nền KTTTĐHXHCN sẽ góp phần chỉ ra hướng đi chung cho nền kinh tế
nước nhà, giúp cho đảng và chính phủ vạch ra đường lối đứng đắn, phù hợp trong sự
nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước và quan trọng hơn cả là trong thực tiễn giúp cho
nền kinh tế nước ta tránh được những vết xe đổ mà nền kinh tế thị trường ở các nước
khác mắc phải, vận dụng được những kinh nghiệm quý báu của họ vào quá trình xây
dưng nền kinh tế nước nhà.
Trong giới hạn nhỏ bé của mình, bản đề án này mong muốn nêu lên những thực
trạng của việc huy động, quản lý và sử dụng thực trạng của việc huy động, quản lý và sử
1
1
dụng vốn có hiệu quả, cách thức vận dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn và chu
chuyển tư bản vào nền KTTT, chỉ ra 1vài biện pháp cơ bản để huy động vốn và nâng
cao hiệu quả vốn đầu tư với ít nhiều tham vọng giúp người đọc có cái nhìn sắc nét và
khách quan hơn về nền KTTT.
2
2
Nội dung.
I. Tuần hoàn và chu chuyển Tư Bản.
1. Tư Bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
làm thuê.
a, Sự chuyển hoá tiền thành Tư bản.
- Công thức chung của tư bản : Mọi tư bản lúc đầu biểu hiện dưới hình thái một số
tiền nhất định, nhưng bản thân tiền không phải là tư bản , tiền chỉ biến thành tư bản
trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người
khác.
Trong lưu thông tiền vận động theo công thức H-T-H, còn với tư cách là tư bản,
tiền vận động theo công thức T-H-T;
Điểm giống nhau giữa 2 công thức này là đều chứa đựng hai nhân tố hàng và tiền,
đều bao gồm hai hành vi mua và bán, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người mua và
người bán.
Điểm khác nhau cơ bản giữa 2 công thức này là trong công thức vận động của tiền
trong lưu thông hàng hoá bắt đầu bằng hành vi bán ( H-T) và kết thúc bằng hành vi
mua( T-H) , điểm bắt đầu và kết thúc đều là hàng hoá ; và mục đích là giá trị sử dụng.
Còn trong công thức vận động của tư bản, bắt đầu bằng hành vi mua (T-H') và kết thúc
bằng hành vi bán ( H-T), Điểm bắt đầu và kết thúc đều là tiền và mục đích là đem lại
giá trị, làm thoả mãn người chủ của nó, mà người chủ của nó khôg thể chấp nhận việc
trao đổi không đem lại giá trị cho mình vì thế giá trị sau khi trao đổi sẽ là T'>T, tức là số
tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra và số tiền dôi ra này chính là giá trị thặng dư (m)
. Vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là : T-H-T' trong đó T'= T+ T ( với T là
giá trị thặng dư)
- Mâu thuẫn của công thức chung của Tư bản :
Tiền ứng trước, tức là tiền bỏ vào lưu thông khi trở về tay người chủ của nó thì
thêm một lương nhất định (T) , Từ đó có thể kết luận lưu thông tạo ra giá trị thặng dư
hay không.?
Như ta đã biết lưu thông là quá trình mà trong đó xẩy ra hai hành vi mua và bán.
Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị con
tổng số gía trị, cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi thì trước sau không thay
3
3
đổi. Nếu trao đổi không ngang giá thì nếu người có hàng bán với giá cao hơn giá trị thì
kết quả người bán được lãi , còn nếu bán thấp hơn giá trị thì người mua được lãi .
Nhưng trong nền kinh tế hàng hoá mỗi người vua mua vừa là người bán, vì thế phần lời
trong khi mua sẽ bù lại phần thiệt khi bán và ngược lại. Trường hợp giá trị thặng dư do
thương nhân chuyên mua rẽ và bán đắt nhờ mánh lời mà có chí giải thích được sự làm
giầu của những thương nhân cá biệt vì tổng giá trị trước và sau trao đổi không thay đổi.
Theo C Mác toàn bộ giai cấp các nhà tư bản của 1 nước không thể làm giàu trên lưng
của giai cấp mình.
Như vậy lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư . Nhưng nếu tiền không tham gia
vào lưu thông thì cũng không tạo ra giá trị thặng dư.
Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên
ngoài lưu thông , và phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông "(1). Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản .
b, Hàng hoá sức lao động ( sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá )
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức của tư bản. CMac cho rằng trên thị trường
có một loại hàng hoá đặc biệt đó là hàng hoá sức lao động .
- Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cở thể con người duoc sử
dụng vào sản xuất hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng.hoá là điều kiện chủ yếu
quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản.
- Trong bất cứ xã hội nào sức lao động cũng là điều kiện cần thiết để sản xuất, song
nó chỉ trở thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Một là người lao động phải được tự do về thân thể , tự do sở hữu năng lực của
mình.
Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy
người lao động mới bán sức lao động của mình.
- Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động : cũng như mọi hàng hoá khác, hàng
hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng
Gía trị của hàng hoá sức lao động do lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra nó quyết định . Vì thế nó chính bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt vật
chất và tinh thần cần thiết cho người công nhân và gia đình anh ta.
Giá trị sử dụng cuả hàng hoá sức lao động cũng chỉ thể hiện trong quá trình tiêu
dùng sức lao động. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá và đồng thời là quá
4
4
trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động, tức là tạo ra giá
trị thặng dư. Đó là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
* Tóm lại: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
làm thuê. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là : tư bản không thể xuất hiện cả
trong và ngoài lưu thông nhưng nó lại phải xuất hiện trong lưu thông và không phải
trong lưu thông. Bằng việc chỉ ra hàng hoá sức lao động C.Mác đã giải quyết được mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản.
2. Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
a. Tuần hoàn tư bản:
- Sự vận động liên tục của tư bản từ hình thái chức năng này qua hình thái chức
năng khác cho tới khi nó quay trở lại hình thái ban đầu của nó thì gọi là tuần hoàn tư
bản.
- Nghiên cứu về tuần hoàn tư bản tức là nghiên cứu về sự vận động của tư bản qua
3 giai đoạn, ở mỗi giai đoạn tư bản có một hình thức nhất định và một chức năng riêng
biệt.
Quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp có thể khái quát như sau:
TLSX
T-H
…..sx……H' - T'
SLĐ
+ Giai đoạn I: (T - H)
Giai đoạn này nhà tư bản xuất 1 số tiền ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
TLSX
T-H
SLĐ
Tư liệu sản xuất và sức lao động phải phù hợp với nhau cả về chất và lượng, với
chức năng là phương tiện mua tư liệu sản xuất và sức lao động trong giai đoạn này tiền
mang hình thái tư bản tiền tệ.
* Giai đoạn II:
TLSX
H
…..sx……H' - T'
SLĐ
5
5
Giai đoạn này nhà tư bản sử dụng TLSX và sức lao động để sản xuất ra hàng hoá.
Bộ phận tư bản công nghiệp nằm trong giai đoạn II gọi là TBSX.
*. Giai đoạn III.
( H' - T')
Giai đoạn này tư bản lại nhảy vào lưu thông với tư cách là tư bản tiền tệ, có chức
năng mang lại giá trị thặng dư và giá trị.
Sự vận động của tư bản theo công thức trên là sự vận động có tính chất tuần hoàn.
Sự vận động này chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục,
kế tiếp nhau, mặt khác tư bản phải tồn tại dưới cả ba hình thức là tư bản tiền tệ, tư bản
sản xuất, tư bản hàng hoá.
*. Tóm lại: Tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua 3 giai
đoạn, trải qua 3 hình thái, thực hiện 3 chức năng tương ứng, để trở về hình thái ban đầu
với lượng giá trị lớn hơn.
b. Chu chuyển tư bản.
- sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi, lắp
lại, chứ không phải là một quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh
hay chậm và nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ đó với việc sản xuất và thực hiện giá trị
thặng dư.
- Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một
hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản
cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư.
Thời gian chu chuyển tư bản gồm thời gian gián đoạn sản xuất và thời gian lưu
thông : thời gian sản xuất là thời kỳ làm việc và khoảng thời gian gian doan trong khi
chế biến. Thời kỳ làm việc dài hay ngắn là tuỳ điều kiện cụ thể của từng ngành, xí
nghiệp…Trong khoảng thời gian gián đoạn trong khi chế biến đối tượng lao động phải
chịu ảnh hưởng của quá trình tự nhiên.
Thời gian lưu thông là khoảng thời gian mà tư bản chuyển từ hình thức tiền tệ sang
hình thức sản xuất và từ hình t hức hàng hoá chuyển về hình thức tiền tệ. Thời gian này
dai hay ngắn là tuỳ vào điều kiện mua TLSX và điều kiện bán hàng ,tuỳ theo thị trường
xa hay gần, tuỳ theo trình độ phát triển của phương tiện giao thông vận tải.
- Tư bản cố định và tư bản lưu động.
6
6
Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào
quá trình sản xuất, nhưng giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng
phần một vào sản phẩm. VD: nhà xưởng, máy móc.
Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ
sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng
hoá đã bán xong.
Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động và ngay trong tư bản cố
định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau.
Trong quá trình sản xuất tư bản CĐ bị hao mòn dần, có hai loại hao mòn là hao
mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là do sự sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những
bộ phận tư bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa.
Hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng trường
hợp máy móc tuy còn tốt nhưng bị mất giá, vì có những máy móc mới tốt hơn, tối tân
hơn xuất hiện.
- Chu chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước.
Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những
thành phần khác nhau của tư bản.
Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được
khôi phục toàn bộ về mặt giá trị cũng như về mặt hiện vật.
- Tỷ xuất giá trị thặng dư hàng năm . Phương pháp tăng tốc độ chu chuyển tư bản
và ý nghĩa của nó .
Tỷ xuất giá trị thặng dư hàng năm là tỷ lệ tính bằng phần trăm giữa khối lượng giá
trị thặng dư hàng năm với tư bản khả biến ứng trước.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản là để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng
năm.
Tuy rằng tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi nhưng tư bản chu chuyển càng
nhanh, số vong chu chuyển của tư bản càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng
cao.
Tăng tốc độ chu chuyển tư bản hay rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản có vai trò
rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả hoạt động của tư bản.
7
7
Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng
tốc độ chu chuyển cuả tư bản.
mà tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của các tư bản có thể như nhau
song hiệu quả hoạt động của tư bản đó lại là khác nhau do đó có tỷ suất giá trị thặng dư
hàng năm khác nhau.
Vậy tăng tốc độ chu chuyển tư bản là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp .
Có thể dùng các biện pháp sau để tăng tốc độ chu chuyể tư bản :
áp dụng công nghệ mới vào sản xuất , cải tiến bộ máy quản lý xúc tiến quảng cáo,
cải tiến chất lượng sản phẩm cải tiến hệ thống giao thông vận tải trong lưu thông.
Tuy nhiên có những nhân tố làm chậm tốc độ chu chuyển tư bản: kỹ thuật ngày
càng phát triển
Sự bố trí không hợp lý trong sản xuất , sự tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều kho khăn…
* Tóm lại : Trên đây ta đã nghiên cứu về tư bản về tuần hoàn và chu chuyển tư bản,
nắm bắt điều này nhằm mục đích vận dụng vào việc quản lý các doanh nghiệp trong nền
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam.
II. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản
đối với việc quản lý doanh nghiệp trong nền KTTTĐHXHCN.
Thế giới đang đứng trước nhiều biến động hết sức phức tạp. trong công cuộc xây
dưng đất nước Việt Nam chúng ta còn gặp rất nhiều khó khăn thử thách . Đảng và
chính phủ ý thức rõ tầm quan trọng của việc vận dụng kinh tế chính trị Mác-Lênin vào
quá trình xây dưng kinh tế nước nhà.
Để có thể huy động và sử dụng vốn có hiệu quả , việc nắm bắt vai trò của vốn và
ứng dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản vào vấn đề vốn là hết
sức cần thiết và cấp bách cần làm trước tiên.
1, ý nghĩa thực tiễn của học thuyết :
a ,ứng dụng thực te của học thuyết .
Trong thực tế , tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức.
TLSX
T-H
…..sx……H' - T'
SLĐ
8
8
và khi xem xét ứng dụng thực tế của công thức này của càn xem xet trong3 giai
doan
-Giai đoạn I
TLSX
T-H
SLĐ
Giai đoạn nay các doanh nghiệp xuất vốn ra để mua TLSX và SLĐ, tuy nhiên việc
mua này không thể diễn ra một cách tuỳ tiện. Đối với các doanh nghiệp mục tiêu của họ
là tối đa hoá lợi nhuận, do vậy điều quan trọng nhất là cần tối thiểu, hoà chi phí sản xuất
. Việc lựa chọn phương thức tối ưu trong khi mua TLSX và sức lao động là hết sức cần
thiết.
-Giai đoạn II:
TLSX
H …..sx……H'SLĐ
Trong giai đoạn thứ hai các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất . Nếu quản
lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ được thể hiện ở hiệu quả sản xuất , ở chất lượng
sản phẩm , hơn thế nữa. Nếu quản lý sử dụng vốn có hiệu quả còn giúp cho doanh
nghiệp rút ngắn được thời gian chu chuyển tư bản, khiến cho vốn quay vòng nhanh, tiết
kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mô sản xuất, hao mòn vô hình, hữu
hình cũng vì thế mà sẽ được giảm bớt do các tác đông khách quan khác.
- Giai đoạn III : (H'-T')
Doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Để có thể rút ngắn thời
gian tiêu thụ sản phẩm cần phải có các biện pháp xúc tiến Marketing hỗn hợp : chính
hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn tốt.Nếu có được một chiến lược MKT phù
hợp sẽ làm tăng doanh thu , giảm chi phí lưu thông và đạt được hiệu quả của tư bản một
cáh cao nhất .
b, Vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả:
Có thể nói rằng việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả đóg vai trò chủ trốt trong
cuộc xây dưng một nền kinh tế cuae bất kỳ quốc gia nào. Thế giới đã chứng kến biết
bao bài học xương máu về việc quản lý sử dụng vốn , trong đó bao gồm cả những thành
công và thất bại.
Tại các nước có nền kinh tế thị trường thành công mà điển hình là các quốc gia
Đông á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông…các chiếm lược kinh tế của họ trong
9
9
quá trình CNH - HĐH là tăng trưởng và tích tụ vốn tài chính cho bước phát triển tiếp
theo. Nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, các nguồn lực hạn hẹp vì thế mà không bị
dàn trải, xé nhỏ từ đó nâng cao được chất lượng công nghiệp mà sản phẩm xuất khẩu
chính là thành quả của chính sách này.
Nhìn lại tình hình kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Do ưu tiên phát
triển vào ngành công nghiệp nặng, một ngành đòi hỏi phải có một lượng vốn rất lớn,
thời gian chu chuyển của các tư bản là rất dài, cộng thêm nền móng cơ sở hạ tầng thấp
kép đã diễn tới một điều tất yếu là hiệu quả tư bản không cao, hiệu quả kinh tế thu được
rất chậm và bấp bênh. Đất nước rơi vào thời kỳ khó khăn, phức tạp, mọi nguồn lực đều
bị sử dụng vô tội vạ, các nguồn vốn tài chính trong và ngoài nước đều bị sử dụng lãng
phí làm cho ngân sách Nhà nước cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát gia tăng,
bộ máy công nghiệp nặng đồ sộ không còn "nhiên liệu" hoạt động bỗng chốc trở thành
gánh nặng kinh tế.
Đúng ra với nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu kém cần phải được tập trung
đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển thấp tốc độ chu chuyển nhanh thì do sai
lầm trong việc quản lý sử dụng vốn mà các nhà hoạch định chính sách đã đẩy nước ta
tụt lùi đi so với thế giới cả chục năm về kinh tế.
* Tóm lại: Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng, đặc biệt
là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, từ đó có
chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ
công nghiệp hoá hiện đại hoá với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động
chủ quan, khách quan, bởi vậy việc vận dụng tốt KTCT Mác Lênin và nắm vững vai trò
của việc quản lý sử dụng vốn có hiêụ quả là việc làm quan trọng đầu tiên và là quan
trọng nhất.
Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản là một trong những học thuyết rất
nổi tiếng của Mác.Nó cũng là một trong những bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên
bộ Tư bản của Mác. TrướcMác, các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển đều không
lý giải được tận gốc nguồn gốc của lợi nhuận.Họ dựa vào những hiện tượng bên ngoài
mà cho rằng lợi nhuận là do lưu thông mà có.Họ đã biện hộ,bảo vệ cho chủ nghĩa tư
bản,cho lợi nhuận của các nhà tư bản.Cùng với học thuyết giá trị thặng dư và các học
thuyết khác,học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản đã chỉ rõ nguồn gốc lợi nhuận
của chủ nghĩa tư bản là do giá trị thặng dư mà người lao động làm thuê tạo ra trong quá
10
10
trình lao động. Nó đã chỉ rõ bản chất bóc lột của giai cấp tư bản.Nó đã chỉ rõ rằng tư
bản luôn vận động và trong quá trình vận động nó lớn lên không ngừng.Tư bản vận
động qua các giai đoạn khác nhau,chuyển từ hình thái này sang hình thái khác. Đến giai
đoạn sản xuất tư bản được tăng thêm giá trị nhờ giá trị thặng dư mà người lao động làm
thuê đưa vào khi họ tham gia quá trình sản xuất. Các giai đoạn khác chỉ để thực hiện giá
trị. Nhà tư bản đã bóc lột và cướp không giá trị thặng dư của người công nhân. Đó cũng
là nguồn gốc lợi nhuận của họ.
2. Huy động quản lý, sử dụng vốn ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.
Đất nước ta qua những năm tới đổi mới đã thành công trong việc chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước nên đã phát huy được năng lực nội tại của nền kinh tế làm cho nền kinh tế
tăng trưởng và phát triển bước đầu. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều nguy cơ, nhiều bất
cập, trong đó nguy cơ về sự tụt hậu so với khu vực và thế giới là đáng chú ý nhất. Đại
hội Đảng IX một lần nữa khẳng định nước ta vẫn tiếp tục "Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp"(1)
Tuy nhiên để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần và đã thực hiện hàng loạt các
chính sách mà trong đó vấn đề quan trọng nhất là vốn đầu tư.
a. Thực trạng của việc huy động quản lý, sử dụng vốn ở nước ta.
Trước tiên là về nhu cầu vốn. Kinh nghiệm từ các nước đi trước cho thấy rằng trong
giai đoạn CNH - HĐH nhu cầu về vốn thường hết sức căng thẳng. Để có thể vừa có
những bước tiến tuần tự, vừa có bước nhảy vọt(2). Chúng ta cần một lượng vốn vô cùng
lớn, thế nhưng chúng ta muốn tự lực đứng trên đôi chân của mình thì ít nhất vốn trong
nước cũng phải đạt 50% trên tổng nhu cầu vốn. ý thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn
tại Đại hội Đảng IX đã ưu tiên giải quyết các vấn đề về vốn, như tăng nhanh tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế, dự kiến năm 2010 sẽ đạt trên 30% GDP , tập trung thu hút vốn đầu
tư bên ngoài vào các khu công nghiệp khu chế xuất, khu công nghệ cao (dự kiến trong 5
năm 2001 - 2005 sẽ thu hút đưa vào thực hiện trong nền kinh tế khoảng 9-10tỷ USD.
Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) (dự kiến
trong 5 năm 2001-2005 sẽ thu hút giải ngân được 10-11 tỷ USD).
Tuy nhiên để thực hiện được những dự định như trên không phải là đơn giản khi
mà nhìn vào thực trạng việc huy động quản lý, sử dụng vốn ở nước ta, với bộ máy hành
11
11
chính cồng kềnh, hình thức và công cụ huy động vốn còn nghèo nàn đơn giản, không có
tính hấp dẫn với người đầu tư, hệ thống thu thuế còn lỏng lẻo kém tính đồng bộ, hệ
thống ngân hàng tài chính còn chồng chéo, tự do không thống nhất, chưa tạo lập được
lòng tin nơi người đầu tư vì thế mà việc huy động nguồn vốn khi cần thiết còn gặp
nhiều khó khăn, nan giải…Mặt khác trong các doanh nghiệp, xí nghiệp , liên doanh…
việc quản lý sử dụng vốn một cách bừa bãi, lãng phí là còn phổ biến, tình trạng tham
nhũng đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội, chính sách lãi suất còn nhiều bấp cập
đối với cơ chế thị trường, hệ thống pháp lý bảo vệ an toàn về vốn và tài sản cho đối
tượng vay và cho vay không đầy đủ, chính xác.
Mặc dù không thể phủ nhận những thành quả đáng trân trọng trong những năm qua,
sự cố gắng nỗ lực của tất cả các cấp, ngành trong và ngoài nước nhằm đạt được những
thành công bước đầu trong công tác huy động, quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả. Song
thiết nghĩ khi còn tồn tại quá nhiều sai sót trong việc huy động , quản lý, sử dụng vốn
đòi hỏi cá nhà hoạch định chính sách cần có các biện pháp mạnh hơn nữa, chính sách
hợp lý tối ưu hơn nữa, mới có thể đạt được những thành tựu như mong đợi.
b. Biện pháp huy động vốn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Đứng trước những vấn đề cấp bách về vốn trên cơ sở những luận điểm của KTCT
Mác Lênin mà cụ thể là học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản, thông qua những
kinh nghiệm quý báu từ các nước đi trước có thể đúc kết được những bài học chủ yếu
sau đây về công tác huy động quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.
Thứ 1: đối với nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Cần tiếp tục cải cách thuế, chấn
chỉnh lại hệ thống công cụ thu thuế, có biện pháp công văn chỉ đạo rõ ràng về thuế
khoá, nhằm bảo đảm cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, mặt khác thúc đẩy sản xuất
phát triển , tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. Bên cạnh đó công tác chống thất thu
thuế, chống buôn lậu, tham nhũng , làm hàng giả trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ của
các cấp, ngành dưới sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục, tích cực, sáng tạo của các cấp uỷ
Đảng chính quyền.
Mặt khác, đồng thời phần đấu thực hiện tiết kiệm, chi tiêu hợp lý , nhưng vẫn bảo
đảm cho đầu tư phát triển nhất là đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ: Muốn thế cần đổi mới mạnh cơ cấu chi cho ngân sách Nhà nước theo hướng
dành tỷ trọng cao hơn của nguồn vốn chi cho các mục tiêu đầu tư và phát triển. Tập
trung các khoản chi cho xây dựng cơ sở hạ tầng trọng tâm, trọng điểm, dành một tỷ lệ
12
12
chi nhất định cho hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhằm nâng cao vai trò chủ đạo của kinh
tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thứ 2: nguồn vốn thu được thông qua các hoạt động tín dụng, ưu đãi của Nhà
nước.
Hoạt động tín dụng, ưu đãi là một phần rất quan trọng trong việc tăng ngân sách
quốc gia, bằng việc đẩy mạnh công tác phát hành các loại trái phiếu chính phủ, cổ phiếu
của các doanh nghiệp Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong và
ngoài nước tin vào trái phiếu , tin vào chính phủ với lãi suất ưu đãi khuyến khích các
doanh nghiệp, cá nhân, phát triển kinh tế mở rộng thị trường, xoá đói giảm nghèo.
Thứ 3, nguồn vốn trong xã hội trong các tầng lớp dân cư.
Cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi nhất là môi trường pháp lý bảo đảm an
toàn về tài sản cho các đối tượng vay và cho vay. Nâng cao ý thức trách nhiệm của
người dân trong phong trào xây dựng tổ quốc. Đồng thời cần có cơ chế, chính sách,
khuyến khích các tầng lớp dân cư bỏ vốn đầu tư phát triển, sản xuất, làm giàu chính
đáng, tạo việc làm nâng cao thu nhập góp phần cải thiện đời sống vật chất. Nâng cao uy
tín của các công ty bảo hiểm, thu hút vốn đầu tư cho chính con người là biện pháp hữu
hiệu nhất hiện nay. Coi trọng việc xây dựng hệ thống các trung gian tài chính với chức
năng mua và bán vốn, tăng cường các quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, nông
thôn, giao thông vận tải nhất là ở vùng sâu, vùng xa trên cơ sở ngân sách Nhà nước,
nguồn kinh phí từ các tổ chức, tập đoàn kinh tế - xã hội và một phần viện trợ nước
ngoài.
Có thể nói, nguồn vốn từ xã hội, trong các tầng lớp dân cư tuy không tập trung
nhưng lại đóng góp một phần rất lớn cho việc cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng ở các
khu vực trong cả nước, cải thiện được môi trường giao lưu hàng hoá dịch vụ tài chính
phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Thứ 4: Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp và nguồn đầu tư từ nước ngài.
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn của các doanh nghiệp như phát
hành cổ phiếu, trái phiếu, liên doanh, liên kết. Xúc tiến mạnh cổ phần hoá một số doanh
nghiệp Nhà nước, coi đó là một trong những giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Bên
cạnh đó các doanh nghiệp cần tiết kiệm trong sản xuất , tiết kiệm cổ phần kinh doanh để
tăng lợi nhuận , từ đó tạo cơ sở tăng tích luỹ mở raộng sản xuất , nâng cao khả năng
13
13
cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực, khuyến khích các doanh nghiệp vay
vốn mở rộng sản xuất bằng cách taoh lãi suất có thể chấp nhận được.
Mặt khác tập trung thu hút vốn từ nước ngoài , có thể chính sách ưu đãi cho người
nước ngoài nhằm tạo lòng tin và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào
Việt Nam, ngoài ra phải kể đến nguồn viện trợ từ các quỹ tiền tệ quốc tế FDI, ODA tăng
cường xuất khẩu các ngành thế mạnh nước ta nhằm thu đổi ngoại tệ
Như vậy nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp và từ nước ngoài là vô cùng quan
trọng đúng như Đảng và Nhà nước ta đã nhận định "Nguồn vốn trong nước là quyết
định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng". quán triệt tư tưởng này đòi hỏi công tác
quản lý và sử dụng vốn phải sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Kết luận
Kinh tế thị trường ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử và cho đến bây
giờ nó vẫn được coi là mô hình kinh tế - xã hội tiến bộ nhất, ngày càng được hoàn thiện
và áp dụng trong nhiều quốc gia.
Mười lăm năm đã trôi qua kể từ khi nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời, đến nay
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã trải qua nhiều thăng
trầm không ngừng vận động và phát triển, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến
động và có xu hướng hội nhập toàn cầu.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chuyển sang thời kỳ
mới thời kỳ CNH - HĐH, nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực. Thế nhưng để đạt được mục tiêu này đòi hỏi một nguồn vốn rất
lời và hiệu quả cao nhất trong công tác huy động , quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Điều tôi quan trọng và cấp thiết hàng đầu cần làm ngay là phải học hỏi, đúc kết
những kinh nghiệm quốc tế, vận dụng sáng tạo không dập khuôn các mô hình thu hút và
sử dụng vốn trên thế giới.
Có biện pháp hình thức huy động vốn trong và ngoài nước nhanh chóng và hiệu
quả nhất. Cải cách hoàn thiện cơ chế quản lý thu hút nhằm tăng ngân sách Nhà nước,
tăng cường các hoạt động tín dụng ưu đãi , khuyến khích các nguồn vốn trong xã hội,
trong các tầng lớp dân cư. Có cơ sở pháp luật vững chắc tạo lòng tin cho tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước để họ góp vốn đầu tư. Tận dụng triệt để nguồn vốn đầu tư từ
các quỹ tiền tệ nước ngoài FDI, ODA.
14
14
Song song với vấn đề huy động vốn có hiệu quả là biện pháp quản lý sử dụng vốn
tốt. Phân bổ các nguồn vốn hợp lý, hạn chế tới mức tối đa việc thất thoát vốn, tăng
cường đầu tư cho xuất khẩu, thu đổi ngoài tệ, chú trọng chi cho các dự án có tính khả thi
cao và cấp thiết, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư , mở
rộng sản xuất, coi trọng việc đầu tư phát triển cơ sở vật chất hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển tư bản, khuyến khích liên doanh , liên kết trong nước và nước ngoài , cân
đối thu chi ngân sách Nhà nước, có tiết kiệm là quốc sách hàng đầu.
Có thể nói với việc thực thi những biện pháp đã nêu, trên cơ sở của việc vận dụng
kinh tế chính trị Mác Lênin vào nền kinh tế mà trực tiếp là lý thuyết tuần hoàn và chu
chuyển tư bản, cộng thêm những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, của Nhà nước, mới có
thể huy động quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất góp phần thực hiện thành công
công cuộc CNH - HĐH, xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại
đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, hạnh phúc thoả mãn
khát vọng bấy lâu nay của những người con đất việt.
Tài liệu tham khảo.
- C.Mác TB "Quyển II, tập II. Nxb sự thật Hà nội 1963
- Văn kiện đại hội đảng VIII
- Văn kiện đại hội Đảng IX
- Giáo trình KTCT Mác - Lênin trường ĐHKTQD tập I.
- Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng - Ban tư tưởng văn hoá Trung
ương - Nxb chính trị quốc gia.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
3
Nội dung 5
I. Tuần hoàn và chu chuyển tư bản
5
1. Tư bản:5
a. Sự chuyển hoá tiền thành tư bản
15
5
15
b. Hàng hoá sức lao động
6
2. Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản
a. Tuần hoàn tư bản
7
b. Chu chuyển tư bản
8
7
II. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tuần
hoàn đối với việc quản lý doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
11
1. ý nghĩa thực tiễn của học thuyết
11
a. ứng dụng thực tế của học thuyết
11
b. Vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả 12
2. Huy động, quản lý và sử dụng vốn ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta 14
a. Thực trạng của việc huy động quản lý và sử dụng vốn ở nước ta
b. Biện pháp huy động vốn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư
Kết luận 18
16
16
15
14